Giải đua xe Công thức 1 2024

Giải đua xe Công thức 1 lần thứ 75

Giải đua xe Công thức 1 2024 là mùa giải Công thức 1 thứ 75 do Liên đoàn Ô tô Quốc tế (FIA) điều hành. Đây là mùa giải kỷ lục về mặt số lượng chặng đua được tổ chức khi 24 chặng đua trên khắp thế giới được tổ chức trong suốt mùa giải này. Các tay đua và đội đua tham gia lần lượt tranh giành chức vô địch hạng mục tay đua và hạng mục đội đua tại tất cả 24 chặng đua từ tháng 3 cho đến tháng 12.

Max Verstappen của Red Bull Racing-Honda RBPT giành chức vô địch lần thứ tư liên tiếp trong khi McLaren-Mercedes hiện đang dẫn đầu bảng xếp hạng các đội đua.

Max Verstappen giành chức vô địch các tay đua sau khi cán đích vị trí thứ năm tại Giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas 2024. Anh chính thức vô địch lần thứ tư liên tiếp trong sự nghiệp của mình.

Danh sách các đội đua và tay đua

sửa

Các đội đua và tay đua sau đây đều tham gia Giải đua xe Công thức 1 2024 và tất cả các đội đua tham gia đều sử dụng lốp xe của Pirelli.[1] Các đội đua sau đây được sắp xếp theo thứ tự của bảng xếp hạng các đội đua năm 2023 trong danh sách này.

Đội đua Xe đua Động cơ Hãng lốp Số xe Tay đua Số chặng đua
đã tham gia
Tay đua dự bị/
lái thử
  Oracle Red Bull Racing Red Bull Racing RB20[2] Honda RBPT P 1[Ghi chú 1]   Max Verstappen[3] 1–22   Liam Lawson[4]
11   Sergio Pérez[5] 1–22
  Mercedes-AMG Petronas F1 Team Mercedes-AMG F1 W15 E Performance[6] Mercedes P 44   Lewis Hamilton[7] 1–22   Mick Schumacher[8]
  Frederik Vesti[9]
63   George Russell[7] 1–22
  Scuderia Ferrari Ferrari SF-24[10] Ferrari P 16   Charles Leclerc[11] 1–22   Oliver Bearman[12]
  Arthur Leclerc[12]
  Antonio Giovinazzi[12]
55   Carlos Sainz Jr.[13] 1–22[Ghi chú 2]
38   Oliver Bearman[15] 2
  McLaren Formula 1 Team McLaren MCL38[16] Mercedes P 4   Lando Norris[17] 1–22   Patricio O'Ward[18]
  Ryō Hirakawa[19]
81   Oscar Piastri[20] 1–22
  Aston Martin Aramco F1 Team[21] Aston Martin AMR24[22] Mercedes P 14   Fernando Alonso[23] 1–22   Felipe Drugovich[24]
  Stoffel Vandoorne[25]
18   Lance Stroll[26] 1–22
  BWT Alpine F1 Team Alpine A524[27] Renault P 10   Pierre Gasly[28] 1–22   Jack Doohan[29]
31   Esteban Ocon[30] 1–22
  Williams Racing Williams FW46[31] Mercedes P 2   Logan Sargeant[32] 1–15[Ghi chú 3]   Jamie Chadwick[34]
  Roy Nissany[34]
43   Franco Colapinto[35] 16–22
23   Alexander Albon[36] 1–22
  Visa Cash App RB Formula One Team[37] RB VCARB 01[38] Honda RBPT P 3   Daniel Ricciardo[39] 1–18   Liam Lawson[4]
  Ayumu Iwasa[40]
30   Liam Lawson[41] 19–22
22   Tsunoda Yūki[39] 1–22
  Stake F1 Team Kick Sauber[42][Ghi chú 4] KICK Sauber C44[43] Ferrari P 24   Chu Quán Vũ[44] 1–22   Théo Pourchaire[44]
  Zane Maloney[45]
77   Valtteri Bottas[46] 1–22
  MoneyGram Haas F1 Team Haas VF-24[47] Ferrari P 20   Kevin Magnussen[48] 1–16, 18–20, 22   Pietro Fittipaldi[49]
  Oliver Bearman[49]
50   Oliver Bearman[50] 17, 21
27   Nico Hülkenberg[48] 1–22

Thay đổi đội đua

sửa

Alfa Romeo chấm dứt quan hệ đối tác với Sauber và rời Công thức 1 khi Sauber chuẩn bị trở thành đội đua Audi vào năm 2026.[42][51] Đội được đổi tên cho mùa giải 2024 thành Stake F1 Team Kick Sauber.[52] AlphaTauri được đổi tên thành Visa Cash App RB Formula One Team vào ngày 24 tháng 1 năm 2024 mặc dù ban đầu được chuyển tên thành AlphaTauri RB.[37] Đội cũng chuyển đến Milton KeynesVương quốc Anh trong bối cảnh tái cơ cấu quản lý.[53][54] Aston Martin tham gia dưới tên gọi Aston Martin Aramco F1 TeamCognizant không còn là nhà tài trợ chính của đội nữa.[21]

Thay đổi tay đua

sửa

Sự thay đổi duy nhất so với các tay đua đã ký hợp đồng vào đầu năm 2023Daniel Ricciardo, người đã thay thế Nyck de Vries ở đội AlphaTauri cũ từ Giải đua ô tô Công thức 1 Hungary 2023 trở đi. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Công thức 1 không có vụ một chuyển nhượng nào giữa tất cả các tay đua và đội đua đã thi đấu ở chặng đua cuối cùng của mùa giải cũ trước khi mùa giải tiếp theo bắt đầu.[55][56]

Thay đổi tay đua giữa mùa giải

sửa
Franco Colapinto (trái) thay thế Logan Sargeant (trái giữa) tại Williams kể từ Giải đua ô tô Công thức 1 Ý. Daniel Ricciardo (phải giữa) được thay thế bởi Liam Lawson (phải) kể từ Giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ.

Carlos Sainz Jr. phải rút lui khỏi Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út sau khi viêm ruột thừa. Anh được thay thế bởi Oliver Bearman, tay đua dự bị của Ferrari, từ buổi đua thử thứ ba. Bearman tham gia chặng đua Công thức 1 đầu tiên của mình.[15] Sainz Jr. quay trở lại Giải đua ô tô Công thức 1 Úc.[57]

Từ Giải đua ô tô Công thức 1 Ý trở đi, tay đua Công thức 2 người Argentina Franco Colapinto chính thức ra mắt Công thức 1 khi thay thế Logan Sargeant tại Williams.[58]

Kevin Magnussen bị cấm tham gia Giải đua ô tô Công thức 1 Azerbaijan vì đã gây ra một vụ va chạm tại chặng đua trước, khiến anh vượt quá giới hạn 12 điểm phạt trong vòng 12 tháng.[59] Magnussen được thay thế bởi tay đua dự bị Oliver Bearman, người đã thi đấu trước đó cho Ferrari tại Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út đầu mùa giải.[50] Magnussen được phép thi đấu trở lại tại Giải đua ô tô Công thức 1 Singapore sau đó.

Daniel Ricciardo đã bị buộc phải rời khỏi RB trước Giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ.[60] Ricciardo được thay thế bởi tay đua dự bị Liam Lawson, người đã thay thế Ricciardo trong mùa giải 2023 sau khi Ricciardo bị chấn thương.[41]

Bearman thay thế Magnussen tại Haas trong Giải đua ô tô Công thức 1 São Paulo cho các buổi đua thử và chặng đua nước rút vì Magnussen cảm thấy không khỏe.[61] Sau đó, Bearman thế chỗ Magnussen cho phần còn lại của chặng đua cuối tuần từ vòng phâh hạng chặng đua nước rút cho đến cuộc đua chính.[62]

Lịch đua

sửa
 
Màu xanh lá cây là các quốc gia có tổ chức chặng đua. Màu xám đậm là các quốc gia có chặng đua bị hủy.

Lịch đua của Giải đua xe Công thức 1 2024 đựoc công bố vào ngày 5 tháng 7 năm 2023 và bao gồm 24 chặng đua kỷ lục.[63][64] Thể thức chặng đua nước rút được tổ chức tại Giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc, Giải đua ô tô Công thức 1 Miami, Giải đua ô tô Công thức 1 Áo, Giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ, Giải đua ô tô Công thức 1 São PauloGiải đua ô tô Công thức 1 Qatar.[65]

Stt Chặng đua Trường đua Ngày
1 Giải đua ô tô Công thức 1 Bahrain   Trường đua Bahrain International, Sakhir 2 tháng 3
2 Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út   Trường đua Jeddah Corniche, Jeddah 9 tháng 3
3 Giải đua ô tô Công thức 1 Úc   Trường đua Albert Park, Melbourne 24 tháng 3
4 Giải đua ô tô Công thức 1 Nhật Bản   Trường đua Suzuka International, Suzuka 7 tháng 4
5 Giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc   Trường đua Quốc tế Thượng Hải, Thượng Hải 21 tháng 4
6 Giải đua ô tô Công thức 1 Miami   Trường đua Miami International, Miami Gardens, Florida 5 tháng 5
7 Giải đua ô tô Công thức 1 Emilia Romagna   Trường đua Imola, Imola 19 tháng 5
8 Giải đua ô tô Công thức 1 Monaco   Trường đua Monaco, Monaco 26 tháng 5
9 Giải đua ô tô Công thức 1 Canada   Trường đua Gilles Villeneuve, Montréal 9 tháng 6
10 Giải đua ô tô Công thức 1 Tây Ban Nha   Trường đua Barcelona-Catalunya, Montmeló 23 tháng 6
11 Giải đua ô tô Công thức 1 Áo   Trường đua Red Bull Ring, Spielberg 30 tháng 6
12 Giải đua ô tô Công thức 1 Anh   Trường đua Silverstone, Silverstone 7 tháng 7
13 Giải đua ô tô Công thức 1 Hungary   Hungaroring, Mogyoród 21 tháng 7
14 Giải đua ô tô Công thức 1 Bỉ   Trường đua Spa-Francorchamps, Stavelot 28 tháng 7
15 Giải đua ô tô Công thức 1 Hà Lan   Trường đua Zandvoort, Zandvoort 25 tháng 8
16 Giải đua ô tô Công thức 1 Ý   Trường đua Monza, Monza 1 tháng 9
17 Giải đua ô tô Công thức 1 Azerbaijan   Trường đua Thành phố Baku, Baku 15 tháng 9
18 Giải đua ô tô Công thức 1 Singapore   Trường đua đường phố Marina Bay, Singapore 22 tháng 9
19 Giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ   Trường đua Americas, Austin, Texas 20 tháng 10
20 Giải đua ô tô Công thức 1 Thành phố México   Trường đua Anh em Rodríguez, Thành phố México 27 tháng 10
21 Giải đua ô tô Công thức 1 São Paulo   Trường đua José Carlos Pace, São Paulo 3 tháng 11
22 Giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas   Trường đua Las Vegas, Las Vegas 23 tháng 11
23 Giải đua ô tô Công thức 1 Qatar   Trường đua Losail International, Lusail 1 tháng 12
24 Giải đua ô tô Công thức 1 Abu Dhabi   Trường đua Yas Marina, Abu Dhabi 8 tháng 12

Thay đổi và mở rộng lịch đua

sửa

Hai chặng đua đầu tiên của mùa giải ở BahrainẢ Rập Xê Út được tổ chức vào thứ Bảy để phù hợp lịch trình tổ chức cuộc đua với tháng Ramadan.[66] Cũng tương tự như năm 2023, Giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas sẽ được tổ chức vào thứ Bảy.[67] Hai chặng đua ở AzerbaijanNhật Bản hoán đổi vị trí trên lịch so với năm ngoái. Giải đua ô tô Công thức 1 Nhật Bản được tổ chức ở giai đoạn đầu tiên của mùa giải và trước Giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc. Giải đua ô tô Công thức 1 Azerbaijan được chuyển sang giai đoạn cuối mùa giải sau những chặng đua ở châu Âu để giúp giảm bớt những hành trình dài giữa các chặng đua cuối tuần và tiết kiệm lượng khí thải CO2.

Giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc quay trở lại lịch đua sau khi bị hủy hoãn bốn năm do những khó khăn vì đại dịch COVID-19 ở nước này gây ra.[64] Giải đua ô tô Công thức 1 Emilia Romagna quay trở lại lịch đua sau khi bị hủy vào năm 2023 do lũ lụt.[64] Hợp đồng của Giải đua ô tô Công thức 1 Nga có hiệu lực cho mùa giải 2024 nhưng nó đã bị chấm dứt vào năm 2022 do Nga xâm lược Ukraina.[68]

Thay đổi quy định

sửa

Quy định kỹ thuật

sửa

Để giải quyết những lời phàn nàn của các tay đua do thời tiết quá nóng tại Giải đua ô tô Công thức 1 Qatar 2023, các đội đua được phép lắp một tấm chắn trên xe nhằm mục đích làm mát tay đua và buồng lái.[69] Nắp chụp bánh xe được thử nghiệm thêm trong mùa giải.[69] Các đội không được phép bắt đầu phát triển chiếc xe đua dành cho mùa giải 2026. Mùa giải này sẽ chứng kiến những thay đổi lớn về quy định kỹ thuật cho đến ngày 1 tháng 1 năm 2025.[70] Tuy nhiên, các đội đua vẫn có thể thực hiện các công việc nghiên cứu và phát triển sơ bộ khác không nằm trong phạm vi hạn chế này.[71]

Bộ lốp

sửa

Việc "phân bổ lốp thay thế" được thử nghiệm tại các chặng đua ở HungaryÝ vào năm 2023, trong đó các tay đua được cấp 11 bộ lốp nhằm nỗ lực cắt giảm chi phí trong môn thể thao này, sẽ không còn được thực hiện nữa. Do đó, mỗi tay đua và đội đua sẽ có sẵn 13 bộ lốp tại từng chặng đua.[72] Bộ lốp C0 đã được giới thiệu nhưng không được sử dụng trong mùa giải 2023. Nó đã bị loại khỏi danh sách các bộ lốp.[73] Bộ lốp này trước đây được gọi là C1 nhưng đã được đổi tên vào đầu mùa giải 2023 sau khi bộ lốp C1 mới được giới thiệu. Bộ lốp mới này nằm giữa bộ lốp C1 cũ và bộ lốp C2 hiện tại về độ cứng.[73] Một thử nghiệm được đề xuất về lệnh cấm che lốp trong mùa giải này sau lệnh cấm hoàn toàn vào năm 2025 đã bị hủy bỏ.[69]

Quy định thể thao

sửa

Những thay đổi về quy trình kháng cáo

sửa

Quy trình kháng cáo quyết định đã được sửa đổi cho mùa giải 2024. Trước đây, các đội có tối đa mười bốn ngày để gửi quyền yêu cầu xem xét. Điều này bây giờ sẽ được giảm xuống còn bốn ngày. Trong nỗ lực ngăn chặn các nỗ lực kháng cáo phù phiếm tiềm ẩn, FIA cũng sẽ đưa ra một khoản phí cho quyền được xem xét quy trình.[74]

Những thay đổi cấu trúc chặng đua nước rút

sửa

Cấu trúc của các chặng đua nước rút trong các chặng đua sẽ được thay đổi vào năm 2024 để hợp lý hóa hơn nữa thể thức chặng đua nước rút và tách chúng khỏi phần còn lại của chặng đua cuối tuần.[75][76] Vòng phân hạng chặng đua nước rút (sprint shootout) xác định thứ tự vị trí xuất phát cho chặng đua nước rút đã được dời sang chiều thứ Sáu sau buổi tập duy nhất. Chặng đua nước rút tiếp theo sẽ là sự kiện đầu tiên diễn ra vào thứ Bảy, theo sau đó là vòng phân hạng cho cuộc đua chính. Bản thân cuộc đua chính vẫn diễn ra vào Chủ nhật.[77]

Sử dụng DRS

sửa

Các quy tắc sử dụng DRS trong các chặng đua đã được điều chỉnh một chút. Trong mùa giải này, các tay đua sẽ được phép sử dụng DRS một vòng đua sau khi cuộc đua bắt đầu, một vòng sau khi khởi động lại sau giai đoạn xe an toàn hoặc một vòng đua sau khi khởi động lại sau giai đoạn gián đoạn cờ đỏ. Điều này có nghĩa là các tay đua sẽ được phép sử dụng DRS sớm hơn một vòng đua so với các mùa giải trước. Quy định này đã được thử nghiệm trong các chặng đua nước rút trong mùa giải năm 2023.[78]

Phân bổ đơn vị năng lượng

sửa

Số lượng đơn vị năng lượng được phép sử dụng mỗi mùa được tăng từ ba lên bốn cho mỗi tay đua cho các mùa giải 2024 và 2025.[79]

Thời gian vòng chạy tối đa

sửa

Trước hai buổi đua thử vào thứ Năm tại chặng đua mở màn mùa giải ở Bahrain, các quy tắc cập nhật đã được đưa ra để ngăn cản tay đua di chuyển quá chậm trong các vòng đua và vòng trinh sát trong suốt vòng loại. Ban đầu, tay đua được yêu cầu không được vượt quá thời gian tối đa để di chuyển qua từng khu vực tập trung. Đây là một sự thay đổi so với năm 2023, khi FIA đưa ra thời gian tối đa cho toàn bộ vòng đua.[80] Tuy nhiên, trước buổi đua thử thứ ba và vòng phân hạng vào thứ Sáu, các quy tắc đã được hoàn nguyên về phương pháp toàn vòng năm 2023 mặc dù quy tắc hiện giờ được áp dụng cho cả in-lap lẫn out-lap.[81]

Án phạt

sửa

Các án phạt tiêu chuẩn đối với một tay đua vượt qua tay đua khác khỏi đường đua và giành được lợi thế lâu dài đã được nâng cấp từ án phạt 5 giây lên 10 giây mặc dù án phạt 5 giây vẫn có thể được áp dụng. Sự thay đổi này được thực hiện vì hình phạt 5 giây được coi là không đủ, với việc tay đua thường xuyên bị phạt quá năm giây khi vượt trái phép những chiếc xe đua chạy chậm hơn.[82]

Từ Giải đua ô tô Công thức 1 Miami trở đi, FIA đã thay đổi các quy định để đánh giá một màn xuất phát nhảy cóc. Theo các quy định trước đó, những người quản lý không thể phạt tay đua khi xuất phát nếu nó không được bộ phát đáp của FIA bắt được. Quy tắc này đã khiến Lando Norris của McLaren dường như tránh được một án phạt mặc dù Norris đã rõ ràng xuất phát nhảy cóc trong màn xuất phát tại Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út. Việc cập nhật các quy định này cho phép người quản lý phạt tay đua nếu tay đua xuất phát nhảy cóc trước khi bắt đầu. Điều này cũng được áp dụng ngay cả khi bộ phát đáp không ghi nhận hành vi vi phạm. Quy định cũng làm rõ hành vi xuất phát nhảy cóc sẽ được đánh giá "sau khi đèn bốn giây được chiếu sáng và trước khi có tín hiệu xuất phát khi tất cả đèn đỏ đã tắt."[83]

Từ Giải đua ô tô Công thức 1 Hà Lan, các án phạt được tích lũy của một tay đua trong cuộc đua nước rút không thể thực hiện được vì bỏ cuộc có thể được chuyển thành các án phạt vị trí xuất phát cho chặng đua tiếp theo. Điều này đã xảy ra đối với các khoản phạt được tích lũy trong các chặng đua.[84]

Diễn biến mùa giải

sửa

Buổi thử nghiệm trước mùa giải

sửa

Buổi thử nghiệm trước mùa giải diễn ra tại trường đua Bahrain Internationalas-Sakhir từ ngày 21 đến ngày 23 tháng 2.[85]

Những chặng đua mở màn

sửa

Max Verstappen giành vị trí pole tại chặng đua mở màn ở Bahrain với thời gian là 1:29,179 phút trước Charles LeclercGeorge Russell.[86] Max Verstappen đã giành chiến thắng tại cuộc đua trước đồng đội Sergio PérezCarlos Sainz Jr.[87] Đồng thời, anh đạt được cú Grand Slam thứ năm trong sự nghiệp sau khi xuất phát ở vị trí pole, dẫn đầu mọi vòng đua và giành vòng đua nhanh nhất.[87] Các tay đua còn lại ghi điểm tại Giải đua ô tô Công thức 1 Bahrain là Charles Leclerc, George Russell, Lando Norris, Lewis Hamilton, Oscar Piastri, Fernando AlonsoLance Stroll. Sau Giải đua ô tô Công thức 1 Bahrain, Max Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 26 điểm trước đồng đội Sergio Pérez (18 điểm) và Carlos Sainz Jr. (15 điểm).[88] Red Bull Racing đứng đầu bảng xếp hạng các đội đua với 44 điểm trước Ferrari (27 điểm) và Mercedes (16 điểm).[88] Bên cạnh đó, Alpine có một màn trình diễn đầy thất vọng khi Esteban OconPierre Gasly vượt qua vòng phân hạng ở vị trí thứ 19 và thứ 20 và kết thúc lần lượt ở vị trí thứ 17 và 18 tại cuộc đua.

Sainz Jr. phải rút lui khỏi Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út sau khi viêm ruột thừa và được thay thế bởi Oliver Bearman, tay đua dự bị của Ferrari. Bearman sẽ tham gia chặng đua Công thức 1 đầu tiên của mình.[15] Verstappen giành vị trí pole tại Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út với thời gian là 1:27,472 phút trước Leclerc và Pérez.[89] Red Bull Racing tiếp tục thể hiện tốc độ của mình tại cuộc đua sau khi Verstappen giành chiến thắng tại cuộc đua trước đồng đội Pérez và Leclerc. Bên cạnh đó, Verstappen lên bục trao giải lần thứ 100 trong sự nghiệp của mình.[90] Verstappen dẫn đầu phần lớn cuộc đua cho dù Norris dẫn đầu đoàn xe vài vòng vì giai đoạn chiếc xe an toàn do vụ va chạm của Stroll. Gasly đã phải bỏ cuộc ngay sau vòng đua đầu tiên vì chiếc xe đua của anh gặp vấn đề về hộp số, khiến anh trở thành tay đua đầu tiên phải bỏ cuộc trong mùa giải này.[91] Các tay đua còn lại ghi điểm tại Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út là Piastri, Alonso, Russell, Bearman, Norris, Hamilton và Nico Hülkenberg. Bearman ghi điểm ngay tại chặng đua Công thức 1 đầu tiên của anh kể từ thành tích tương tự của Nyck de Vries tại Giải đua ô tô Công thức 1 Ý 2022. Bên cạnh đó, Hülkenberg lấy điểm đầu tiên cho Haas trong mùa giải này.[91] Sau Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út, Verstappen tiếp tục dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 51 điểm trước đồng đội Pérez (36 điểm) và Leclerc (28 điểm).[92] Red Bull Racing tiếp tục đứng đầu bảng xếp hạng các đội đua với 87 điểm trước Ferrari (49 điểm) và McLaren (28 điểm).[92] McLaren vượt qua Mercedes để giành vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng các đội đua.

Verstappen giành vị trí pole trước Sainz Jr. và đồng đội của mình tại Red Bull Racing là Pérez trong vòng phân hạng của Giải đua ô tô Công thức 1 Úc với thời gian nhanh nhất là 1:15,915 phút.[93] Trong cuộc đua, Verstappen phải bỏ cuộc ở vòng đua thứ ba vì đĩa phanh gặp vấn đề khiến chuỗi chín chặng thắng của anh kết thúc.[94] Tại vòng đua thứ 15, Hamilton phải bỏ cuộc sau khi gặp vấn đề động cơ. Đồng đội của Hamilton tại Mercedes, Russell, phải bỏ cuộc sau khi va chạm ở khúc cua số 6 khi đang tranh giành vị trí thứ 6 với Fernando Alonso. Russell vẫn được xếp hạng sau khi hoàn thành 90% tổng chiều dài cuộc đua. Sainz dẫn đầu phần lớn cuộc đua và giành được chiến thắng đầu tiên kể từ Giải đua ô tô Công thức 1 Singapore 2023, trước mũi đồng đội Charles Leclerc và Lando Norris.[95] Các tay đua còn lại ghi điểm tại Giải đua ô tô Công thức 1 Úc 2024 là Piastri, Pérez, Stroll, Tsunoda Yuki, Alonso, Hülkenberg và Kevin Magnussen. Ferrari về đích ở hai vị trí đầu tiên kể từ Giải đua ô tô Công thức 1 Bahrain 2022. Norris lên bục trao giải lần thứ 14 trong sự nghiệp, cả hai tay đua Haas đều lấy điểm và Tsunoda lấy những điểm đầu tiên cho RB. Sau Giải đua ô tô Công thức 1 Úc, Verstappen tiếp tục dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 51 điểm trước Leclerc (47 điểm) và Pérez (46 điểm).[96] Leclerc vượt qua Pérez để giành vị trí á quân trên bảng xếp hạng các tay đua. Red Bull Racing tiếp tục đứng đầu bảng xếp hạng các đội đua với 97 điểm trước Ferrari (93 điểm) và McLaren (55 điểm).[96]

Tại Giải đua ô tô Công thức 1 Nhật Bản, Verstappen giành vị trí pole trước đồng đội của mình tại Red Bull Racing là Pérez và Norris với thời gian nhanh nhất là 1:28,197 phút.[97] Daniel RicciardoAlexander Albon phải bỏ cuộc sau khi va chạm với nhau, khiến cuộc đua bị gián đoạn hơn 20 phút. Verstappen chiến thắng cuộc đua trước Pérez và Sainz Jr.[98] Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua là Leclerc, Norris, Alonso, Russell, Piastri, Hamilton và Tsunoda.[99] Bên cạnh đó, Tsunoda là tay đua người Nhật Bản đầu tiên ghi điểm tại chặng đua quê nhà kể từ Kobayashi Kamui trong chặng đua năm 2012.[100] Sau Giải đua ô tô Công thức 1 Nhật Bản, Verstappen tiếp tục dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 77 điểm trước Pérez (64 điểm) và Leclerc (59 điểm).[101] Pérez giành lại vị trí á quân trên bảng xếp hạng các tay đua từ tay Leclerc.[101] Red Bull Racing tiếp tục đứng đầu bảng xếp hạng các đội đua với 141 điểm trước Ferrari (120 điểm) và McLaren (69 điểm).[101]

Giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc là chặng đua đầu tiên trong sáu chặng đua trong mùa giải áp dụng thể thức chặng đua nước rút.[102] Norris giành vị trí pole cho chặng đua nước rút trước Hamilton và Alonso trong điều kiện mưa ẩm ướt. Thời gian nhanh nhất của Lando Norris ban đầu đã bị xóa do vi phạm ranh giới đường đua (track limits), nhưng được đặt lại sau đó.[103][104][105] Thế nhưng, Norris mất vị trí dẫn đầu ngay tại vòng đua đầu tiên của chặng đua nước rút sau cuộc đọ sức với Hamilton ở vị trí dẫn đầu. Hamilton tiếp quản vị trí dẫn đầu cho đến khi bị chiếm bởi Verstappen ở vòng đua thứ 9. Verstappen tiếp tục dẫn đầu chặng đua nước rút cho đến khi giành chiến thắng chặng đua này trước Hamilton và Pérez, đồng đội tại Red Bull Racing của Verstappen.[106][107] Alonso phải bỏ cuộc chặng đua nước rút sau khi va chạm lốp với Carlos Sainz Jr.[107] Alonso nhận một án phạt 10 giây vì gây ra vụ va chạm này nhưng kết quả về đích của anh không thay đổi vì được xếp hạng ở vị trí cuối cùng. Các tay đua ghi điểm còn lại trong chặng đua nước rút là Leclerc, Sainz Jr., Norris, Piastri và Russell.[106] Verstappen giành vị trí pole cho cuộc đua chính trước đồng đội tại Red Bull Racing là Pérez và Alonso.[108][109] Bên cạnh đó, đây là vị trí pole thứ 100 lịch sử của Red Bull Racing.[108] Verstappen giành chiến thắng cuộc đua chính trước Lando Norris và đồng đội của Verstappen tại Red Bull Racing là Pérez.[110] Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua chính là Leclerc, Sainz Jr., Russell, Alonso, Piastri, Hamilton và Hülkenberg.[111] Sau Giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc, Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 110 điểm trước Pérez (85 điểm) với khoảng cách 25 điểm và người đứng thứ ba Leclerc (76 điểm) với khoảng cách 34 điểm.[112] Red Bull Racing dẫn đầu bảng xếp hạng các đội đua với 195 điểm, cách Ferrari (151 điểm) 44 điểm và cách McLaren (96 điểm) 99 điểm.[112]

Thể thức chặng đua nước rút được áp dụng lần thứ hai tại chặng đua ở Miami, chặng đua thứ sáu của mùa giải. Max Verstappen giành vị trí pole cho chặng đua nước rút trước Charles Leclerc và Sergio Pérez.[113][114] Verstappen giành chiến thắng chặng đua nước rút trước Leclerc và đồng đội tại Red Bull Racing của mình là Pérez.[115] Các tay đua còn lại ghi điểm trong chặng đua nước rút là Daniel Ricciardo, Carlos Sainz Jr., Oscar Piastri, Nico Hülkenberg và Tsunoda Yuki. Ricciardo lấy những điểm đầu tiên trong mùa giải này. Với thời gian nhanh nhất là 1:27,241 phút, Verstappen giành vị trí pole cho cuộc đua chính trước Leclerc và Sainz Jr.[116] Verstappen đã giành được pole thứ bảy liên tiếp trong mùa giải này, trở thành tay đua đầu tiên làm được điều này kể từ Lewis Hamilton vào năm 2015 và là tay đua thứ hai giành được sáu vị trí pole đầu tiên trong một mùa giải kể từ Alain Prost năm 1993.[117] Verstappen đã dẫn đầu cuộc đua chính từ vòng mở màn ở vị trí pole trước khi vào làn pit để đổi lốp. Giai đoạn xe an toàn do Kevin Magnussen và Logan Sargeant kích hoạt đã khiến Norris được hưởng lợi trong quá trình đổi lốp ở làn pit khi anh tái trở lại đường đua ở vị trí đầu tiên. Sau giai đoạn xe an toàn, Lando Norris dẫn đầu cuộc đua chính cho đến hết khi tiếp tục nới rộng khoảng cách với Verstappen ở vị trí thứ hai và giành chiến thắng Công thức 1 đầu tiên trước Verstappen và Leclerc,[118] trước đó đã giữ kỷ lục số lần lên bục trao giải nhiều nhất mà không giành chiến thắng. Chiến thắng này đồng thời cũng là chiến thắng đầu tiên của McLaren kể từ Giải đua ô tô Công thức 1 Ý 2021.[119] Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua chính là Sergio Pérez, Carlos Sainz Jr., Lewis Hamilton, Tsunoda Yuki, George Russell, Fernando Alonso và Esteban Ocon. Ocon và Alpine ghi điểm lần đầu tiên trong mùa giải này. Sau Giải đua ô tô Công thức 1 Miami, Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 136 điểm trước Pérez (103 điểm) với khoảng cách 33 điểm và người đứng thứ ba Leclerc (98 điểm) với khoảng cách 38 điểm.[120] Red Bull Racing dẫn đầu bảng xếp hạng các đội đua với 239 điểm, cách Ferrari (187 điểm) 52 điểm và cách McLaren (124 điểm) 115 điểm.[120]

Những chặng đua châu Âu và Canada

sửa

Với thời gian nhanh nhất là 1:14,746 phút, Max Verstappen của Red Bull Racing giành vị trí pole cho cuộc đua trong khuôn khổ Giải đua ô tô Công thức 1 Emilia-Romagna trước cặp tay đua Oscar Piastri và Lando Norris của McLaren và chính thức cân bằng kỷ lục số vị trí pole liên tiếp của Ayrton Senna trong lịch sử Công thức 1.[121] Verstappen giành chiến thắng cuộc đua trước Norris và Leclerc và đó là chiến thắng thứ 5 của anh trong mùa giải.[122] Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua là Oscar Piastri, Carlos Sainz Jr., Lewis Hamilton, George Russell, Sergio Pérez, Lance Stroll và Tsunoda Yuki. Sau Giải đua ô tô Công thức 1 Emilia-Romagna, Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 161 điểm trước Leclerc (113 điểm) với khoảng cách 48 điểm và người đứng thứ ba Pérez (107 điểm) với khoảng cách 54 điểm.[123] Red Bull Racing dẫn đầu bảng xếp hạng các đội đua với 268 điểm, cách Ferrari (212 điểm) 56 điểm và cách McLaren (154 điểm) 114 điểm.[123]

Leclerc giành vị trí pole cho cuộc đua trước Piastri và đồng đội tại Ferrari là Sainz Jr. tại Giải đua ô tô Công thức 1 Monaco với thời gian nhanh nhất là 1:10,270 phút.[124] Cuộc đua bị gián đoạn ở vòng đua đầu tiên sau một vụ va chạm giữa Pérez, Hülkenberg và Magnussen, khiến tất cả đều phải bỏ cuộc. Sau đó, khi những tay đua Alpine rời khỏi khúc cua Portier, Ocon lao vào đồng đội Gasly khiến chiếc xe của Ocon bị hất văng lên trên. Ocon, người đã thừa nhận trách nhiệm về vụ việc này, đã bỏ cuộc trong thời gian bị gián đoạn. Tiếp theo, cuộc đua tái diễn trở lại. Leclerc giữ vị trí dẫn đầu sau khi khởi động cho đến khi về đích để giành chiến thắng trước Piastri và Sainz Jr.[125] Đây là chiến thắng đầu tiên của anh kể từ Giải đua ô tô Công thức 1 Áo 2022. Leclerc cũng trở thành tay đua người Monaco đầu tiên kể từ Louis Chiron năm 1931 giành chiến thắng chặng đua quê nhà và đồng thời là người đầu tiên giành được nó kể từ khi Công thức 1 bắt đầu vào năm 1950. Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua là Norris, Russell, Verstappen, Hamilton, Yuki, Albon và Gasly.[126] Bên cạnh đó, Albon, Gasly và đội đua Williams đã lấy được những điểm đầu tiên trong mùa giải này. Sau Giải đua ô tô Công thức 1 Monaco, Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 169 điểm trước Leclerc (138 điểm) với khoảng cách 31 điểm và người đứng thứ ba Norris (113 điểm) với khoảng cách 56 điểm.[127] Red Bull Racing dẫn đầu bảng xếp hạng các đội đua với 276 điểm, cách Ferrari (252 điểm) 24 điểm và cách McLaren (184 điểm) 94 điểm.[127]

Russell lập thời gian nhanh nhất là 1:12,000 phút trước Verstappen với thời gian y hệt và Norris của McLaren tại Giải đua ô tô Công thức 1 Canada. Vì Russell lập thời gian sớm hơn Verstappen nên anh đã giành được vị trí pole.[128] Cuộc đua bắt đầu trong điều kiện thời tiết mưa trung bình. Haas xuất phát với hợp chất lốp ướt, với Russell dẫn đầu và Magnussen leo lên vị trí thứ tư. Hülkenberg, đồng đội của Magnussen tại Haas, cũng leo lên vài vị trí. Khi trời tạnh mưa, các tay đua chuyển sang hợp chất lốp trung gian. Tiếp theo, Lando Norris vượt qua Max Verstappen nhưng một cú xoay xe của Logan Sargeant và pha đổi lốp muộn đã khiến anh tụt lại phía sau Verstappen và Russell.[129] Sau đó, Charles Leclerc bỏ cuộc vì vấn đề về bộ nguồn. Vụ va chạm tiếp theo giữa Albon và Sainz Jr. đã khiến cả hai tay đua Ferrari lần đầu tiên không về đích kể từ Giải đua ô tô Công thức 1 Azerbaijan 2022. Bên cạnh đó, đây là lần đầu tiên Ferrari không lấy được điểm kể từ Giải đua ô tô Công thức 1 Úc 2023. Pérez đồng thời cũng gặp tai nạn và bỏ cuộc, dẫn đến giai đoạn xe an toàn thứ hai, sau khi bị loại tại Q1 hai lần liên tiếp trong mùa giải này. Verstappen giành chiến thắng cuộc đua trước Norris và Russell, trong đó Russell lên bục trao giải lần đầu tiên cho Mercedes trong mùa giải.[129] Bên cạnh đó, đây là chiến thắng thứ 60 trong sự nghiệp của Verstappen. Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua là Hamilton, Piastri, Alonso, Stroll, Ricciardo, Gasly và Ocon. Sau Giải đua ô tô Công thức 1 Canada, Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 194 điểm trước Leclerc (138 điểm) với khoảng cách 56 điểm và người đứng thứ ba Norris (131 điểm) với khoảng cách 63 điểm.[130] Red Bull Racing dẫn đầu bảng xếp hạng các đội đua với 301 điểm, cách Ferrari (252 điểm) 49 điểm và cách McLaren (212 điểm) 89 điểm.[130]

Tại Giải đua ô tô Công thức 1 Tây Ban Nha, Norris giành vị trí pole thứ hai trong sự nghiệp của mình và cho McLaren kể từ Giải đua ô tô Công thức 1 Nga 2021 với thời gian là 1:11,383 phút. Verstappen giành chiến thắng cuộc đua trước Norris và Hamilton, trong đó Hamilton lên bục trao giải lần đầu tiên trong mùa giải.[131] Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua là Russell, Leclerc, Sainz Jr., Piastri, Pérez, Gasly và Ocon. Sau Giải đua ô tô Công thức 1 Tây Ban Nha, Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 219 điểm trước Norris (150 điểm) với khoảng cách 69 điểm và người đứng thứ ba Leclerc (148 điểm) với khoảng cách 71 điểm.[132] Red Bull Racing dẫn đầu bảng xếp hạng các đội đua với 330 điểm, cách Ferrari (270 điểm) 60 điểm và cách McLaren (237 điểm) 93 điểm.[132]

Thể thức chặng đua nước rút được áp dụng lần thứ ba tại chặng đua ở Áo. Verstappen giành vị trí pole cho cuộc đua sprint và giành chiến thắng trước hai tay đua McLaren là Piastri và Norris. Verstappen giành vị trí pole thứ 40 trong sự nghiệp của mình trước Norris và Russell cho cuộc đua chính với thời gian là 1:04,314 phút. Verstappen dẫn đầu phần lớn cuộc đua nhưng khoảng cách của anh đã bị Norris thu hẹp sau pha đổi lốp chậm. Trong thời điểm đó, Verstappen sử dụng bộ lốp cũ hơn và Norris có lợi thế về lốp. Tuy nhiên, ngay sau đó, Verstappen và Norris đã va chạm với nhau khiến Norris phải bỏ cuộc lần thứ hai trong mùa giải kể từ chặng đua nước rút trong khuôn khổ Giải đua ô tô Công thức 1 Miami. Verstappen tụt xuống vài vị trí sau khi bị thủng lốp. Russell hưởng lợi từ vụ va chạm đó để giành chiến thắng thứ hai trong sự nghiệp cho Mercedes kể từ Giải đua ô tô Công thức 1 São Paulo 2022 trước Piastri và Sainz Jr.[133] Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua chính là Hamilton, Verstappen, Hülkenberg, Pérez, Magnussen, Ricciardo và Gasly. Sau Giải đua ô tô Công thức 1 Áo, Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 237 điểm trước Norris (156 điểm) với khoảng cách 81 điểm và người đứng thứ ba Leclerc (150 điểm) với khoảng cách 87 điểm.[134] Red Bull Racing dẫn đầu bảng xếp hạng các đội đua với 355 điểm, cách Ferrari (291 điểm) 64 điểm và cách McLaren (268 điểm) 87 điểm.[134]

Tại Giải đua ô tô Công thức 1 Anh, Russell giành vị trí pole thứ ba trong sự nghiệp của mình trước Hamilton và Norris với thời gian là 1:25,819 phút. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Công thức 1 kể từ Giải đua ô tô Công thức 1 Nam Phi 1968 khi cả ba tay đua người Anh kết thúc vòng phân hạng ở ba vị trí dẫn đầu.[135] Hamilton giành chiến thắng cuộc đua trước Verstappen và Norris, trong đó Hamilton giành chiến thắng lần đầu tiên trong mùa giải kể từ Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út 2021.[136] Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua là Piastri, Sainz Jr., Hülkenberg, Stroll, Alonso, Albon và Tsunoda. Sau Giải đua ô tô Công thức 1 Anh, Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 255 điểm trước Norris (171 điểm) với khoảng cách 84 điểm và người đứng thứ ba Leclerc (150 điểm) với khoảng cách 105 điểm.[137] Red Bull Racing dẫn đầu bảng xếp hạng các đội đua với 373 điểm, cách Ferrari (302 điểm) 71 điểm và cách McLaren (295 điểm) 78 điểm.[137]

Norris giành vị trí pole tại Giải đua ô tô Công thức 1 Hungary trước Piastri và Verstappen.

Verstappen ban đầu đứng đầu vòng phân hạng Giải đua ô tô Công thức 1 Bỉ với thời gian nhanh nhất là nhưng bị tụt vài vị trí, khiến Leclerc thừa kế vị trí pole. Hamilton đã vượt qua Pérez ngay từ vạch xuất phát và vượt qua Leclerc ở những vòng đua đầu tiên để dẫn đầu cuộc đua trước khi bị Russell vượt lên dẫn đầu sau các pha đổi lốp ở làn pit. Russell đã sử dụng bộ lốp cứng cũ hơn nhưng đã cán đích mà không cần vào pit thêm lần nào nữa để giành chiến thắng trước Hamilton và Piastri. Sau đó, Russell đã bị loại sau cuộc đua do chiếc xe thiếu cân, khiến Hamilton giành chiến thắng trước Piastri và Leclerc. Đây là lần đầu tiên một tay đua bị loại khỏi vị trí đầu tiên kể từ Michael Schumacher tại cuộc đua năm 1994. Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua chính là Verstappen, Norris, Sainz Jr., Pérez, Alonso, Ocon và Ricciardo. Sau Giải đua ô tô Công thức 1 Bỉ, Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 277 điểm trước Norris (199 điểm) với khoảng cách 70 điểm và người đứng thứ ba Leclerc (177 điểm) với khoảng cách 103 điểm.[138] Red Bull Racing dẫn đầu bảng xếp hạng các đội đua với 408 điểm, cách McLaren (366 điểm) 42 điểm và Ferrari (345 điểm) 63 điểm.[138]

Sau kỳ nghỉ hè, Norris giành vị trí pole thứ tư trong sự nghiệp với thời gian nhanh nhất là 1:09,673 phút trước Verstappen và Piastri tại Giải đua ô tô Công thức 1 Hà Lan. Sau khi cuộc đua bắt đầu, cả hai tay đua McLaren là Norris và Piastri đều khởi đầu không tốt dẫn đến việc Norris mất vị trí thứ nhất vào tay người đứng thứ hai là Verstappen, còn Piastri thì mất vị trí thứ ba vào tay người đứng thứ tư Russell. Tuy nhiên, bằng tốc độ rất nhanh của mình, chiếc McLaren của Norris đã áp sát và giành lại vị trí thứ nhất của Verstappen ngay khi bắt đầu vòng thứ 18 và cũng duy trì nó đến hết chặng đua. Norris thiết lập vòng đua nhanh nhất với 1:13,817 phút và cán đích ở vị trí thứ nhất sau 72 vòng, trước Verstappen tới hơn 22 giây ở vị trí thứ hai và Leclerc ở vị trí thứ ba. Đây là chiến thắng thứ hai của Norris trong sự nghiệp sau chiến thắng tại Giải đua ô tô Công thức 1 Miami 2024.[139] Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua chính là Piastri, Sainz Jr., Pérez, Russell, Hamilton, Gasly và Alonso. Sau Giải đua ô tô Công thức 1 Hà Lan, Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 295 điểm trước Norris (225 điểm) với khoảng cách 70 điểm và người đứng thứ ba Leclerc (192 điểm) với khoảng cách 103 điểm.[140] Red Bull Racing dẫn đầu bảng xếp hạng các đội đua với 434 điểm, cách McLaren (404 điểm) 30 điểm và Ferrari (370 điểm) 64 điểm.[140]

Norris giành vị trí pole liên tiếp trong 2 chặng đua tại Giải đua ô tô Công thức 1 Ý với thời gian nhanh nhất là 1:19,327 phút trước đồng đội Piastri và Russell. Sau khi cuộc đua bắt đầu, Norris giữ được vị trí dẫn đầu đoàn đua cho đến khi bị Piastri vượt qua tại khúc 4. Trong suốt cuộc đua chính, hầu hết các đội đua đều chọn chiến lược đổi lốp hai lần, nhưng Ferrari lại chọn chiến lược đổi lốp một lần, khiến Leclerc chiếm được vị trí dẫn đầu và duy trì nó cho đến khi lá cờ ca rô tung bay để giành chiến thắng trước Piastri và Norris. Đây là chiến thắng của anh tại Monza cũng như chiến thắng đầu tiên của Ferrari tại chặng đua nước nhà kể từ năm 2019. Franco Colapinto ra mắt chặng đua này cho đội đua Williams kể từ khi thay thế Logan Sargeant sau những thành tích kém cỏi. Colapinto về đích ở vị trí thứ mười hai trong cuộc đua ra mắt của mình. Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua chính là Sainz Jr., Hamilton, Verstappen, Russell, Pérez, Albon và Magnussen. Sau Giải đua ô tô Công thức 1 Ý, Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 303 điểm trước Norris (241 điểm) với khoảng cách 62 điểm và người đứng thứ ba Leclerc (217 điểm) với khoảng cách 86 điểm.[141] Red Bull Racing dẫn đầu bảng xếp hạng các đội đua với 446 điểm, cách McLaren (438 điểm) 8 điểm và Ferrari (407 điểm) 39 điểm.[141]

Những chặng đua cuối cùng

sửa

Leclerc đã giành vị trí pole trước Piastri và Sainz với thời gian nhanh nhất là 1:41,365 phút, trong khi Verstappen giành vị trí thứ sáu và Norris ở vị trí thứ 16 tại Giải đua ô tô Công thức 1 Azerbaijan. Trong cuộc đua chính, Leclerc duy trì vị trí dẫn đầu của mình sau màn xuất phát trước Piastri ở vị trí thứ ha và Pérez ở vị trí thứ ba. Những người dẫn đầu đoàn đua khởi đầu cuộc đua với bộ lốp trung bình trước khi vào làn pit để chuyển sang bộ lốp cứng. Bộ ba tay đua dẫn đầu đoàn đua vẫn giữ nguyên vị trí của mình, bám sát nhau sau một vòng dừng pit. Piastri chiếm vị trí dẫn đầu từ tay Leclerc ở vòng 20 và bảo vệ vị trí này trước Leclerc trong phần còn lại của cuộc đua để giành chiến thắng thứ hai trong sự nghiệp. Pérez và Sainz, trong khi đang tranh giành vị trí thứ ba, đã va chạm với nhau ở vòng đua áp chót, giúp Russell lên vị trí bục vinh quang cuối cùng. Norris về đích thứ tư trước đối thủ vô địch Verstappen và cũng xác lập vòng đua nhanh nhất. Colapinto, người đã ra mắt trong cuộc đua trước đó, đã ghi những điểm đầu tiên trong sự nghiệp Công thức 1 của mình sau khi cán đích thứ tám. Bearman, người trở lại để thay thế cho Magnussen bị cấm tham gia, đã giành được điểm cuối cùng.[142] Các tay đua còn lại ghi điểm là Norris, Verstappen, Alonso, Albon, Colapinto, Hamilton và Bearman. Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 313 điểm trước Norris (254 điểm) với khoảng cách 59 điểm và người đứng thứ ba Leclerc (235 điểm) với khoảng cách 78 điểm. McLaren chiếm vị trí dẫn đầu bảng xếp hạng các đội đua từ tay Red Bull Racing (456 điểm) với 476 điểm, cách Ferrari (425 điểm) 51 điểm.

Norris là người giành vị trí pole với thời gian 1:29,525 phút tại Giải đua ô tô Công thức 1 Singapore trước Verstappen và Hamilton. Sau màn xuất phát trong cuộc đua chính, Norris đã bảo vệ vị trí dẫn đầu của mình, dẫn đầu tất cả các vòng đua và giành chiến thắng cuộc đua. Nhà vô địch Max Verstappen và đồng đội của Norris là Oscar Piastri là những tay đua còn lại đứng trên bục trao giải. Cuộc đua này là phiên bản Giải đua ô tô Công thức 1 Singapore đầu tiên không có sự góp mặt của ít nhất một xe an toàn, với Alexander AlbonKevin Magnussen đều bỏ cuộc ở làn pit (Kevin Magnussen bị nổ lốp do va chạm vào rào chắn). Daniel Ricciardo đã lập vòng đua nhanh nhất, nhưng không được nhận điểm thưởng vì anh về đích ở vị trí thứ 18. Chiến thắng của Norris đã giúp anh rút ngắn khoảng cách với người dẫn đầu Verstappen với chỉ 52 điểm, chỉ với sáu chặng đua còn lại. Sergio Pérez, đồng đội của Verstappen, về đích ở vị trí thứ 10 khiến khoảng cách dẫn đầu của McLaren với Red Bull Racing trên bảng xếp hạng các đội đua lên đến 41 điểm.[143][144] Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua này là Russell, Leclerc, Hamilton, Sainz Jr., Alonso, Hülkenberg và Pérez.[145] Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 331 điểm trước Norris (279 điểm) với khoảng cách 52 điểm và người đứng thứ ba Leclerc (245 điểm) với khoảng cách 86 điểm. McLaren dẫn đầu vị trí dẫn đầu bảng xếp hạng các đội đua trước Red Bull Racing (475 điểm) với 516 điểm, cách Ferrari (441 điểm) 75 điểm.[146]

Sau chặng đua tại Singapore, Liam Lawson trở lại Công thức 1 khi thay thế Daniel Ricciardo tại RB. Tại Giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ, Verstappen đã giành vị trí pole cho chặng đua nước rút, dẫn đầu tất cả các vòng đua và giành chiến thắng dễ dàng trước Sainz và Norris, người đã giành vị trí pole cho cuộc đua chính trước Verstappen và Sainz. Leclerc ở vị trí thứ tư đã dẫn đầu cuộc đua ở vòng đua đầu tiên và sau đó giành chiến thắng trước đồng đội Sainz và Norris về đích thứ ba trên đường đua trước khi bị tụt xuống vị trí thứ tư sau đối thủ vô địch Verstappen vì một án phạt. Trong cuộc đua đầu tiên của Lawson trong mùa giải, anh đã về đích ở vị trí thứ 9 sau khi xuất phát cuộc đua chính từ vị trí thứ 19 vì án phạt liên quan đến vị trí. Esteban Ocon đã lập vòng đua nhanh nhất đầu tiên trong sự nghiệp của mình tại chặng đua thứ 152. Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua chính là Norris, Piastri, Russell, Pérez, Hülkenberg, Lawson và Colapinto. Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 354 điểm trước Norris (297 điểm) với khoảng cách 57 điểm và người đứng thứ ba Leclerc (275 điểm) với khoảng cách 79 điểm. McLaren dẫn đầu vị trí dẫn đầu bảng xếp hạng các đội đua trước Red Bull Racing (504 điểm) với 544 điểm, cách Ferrari (496 điểm) 48 điểm.

Tại Giải đua ô tô Công thức 1 Thành phố México, Sainz Jr. đã giành vị trí pole trong cuộc đua nhưng đã để mất vị trí dẫn đầu vào tay Verstappen ở vị trí thứ hai trong một thời gian ngắn. Anh đã vượt qua Verstappen, người sau đó nhận hai án phạt 10 giây riêng biệt vì đã chèn ép Norris khỏi đường đua và giành được lợi thế một cách bất hợp pháp. Sainz Jr. đã dẫn đầu tất cả các vòng đua từ vòng thứ chín trở đi để giành chiến thắng dễ dàng trước Norris và Leclerc. Đây là chiến thắng thứ hai liên tiếp của Ferrari trong mùa giải 2024 và cũng là chiến thắng thứ tư trong sự nghiệp của Sainz jr. Leclerc lập vòng đua nhanh nhất trong một cuộc tranh giành vòng đua nhanh nhất với Pérez, người cán đích ở vị trí thứ 17, và Lawson, người cán đích ở vị trí thứ 16. Alonso đã bỏ cuộc trong chặng đua thứ 400 trong sự nghiệp của mình cùng với Albon và Tsunoda. Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua chính là Hamilton, Russell, Verstappen, Magnussen, Piastri, Hülkenberg và Gasly. Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 362 điểm trước Norris (315 điểm) với khoảng cách 47 điểm và người đứng thứ ba Leclerc (291 điểm) với khoảng cách 71 điểm. McLaren dẫn đầu vị trí dẫn đầu bảng xếp hạng các đội đua với 566 điểm, trong khi Ferrari (537 điểm) chiếm lấy vị trí thứ hai từ tay Red Bull Racing (512 điểm).[147]

Piastri giành vị trí pole cho chặng đua nước rút tại Giải đua ô tô Công thức 1 São Paulo trước Norris và Leclerc, nhưng Norris đã giành chiến thắng chặng đua nước rút trước Piastri và Verstappen sau khi hoán đổi vị trí dẫn đầu với Piastri ở những vòng đua cuối cùng trong điều kiện xe an toàn ảo. Thế nhưng, Verstappen bị tụt xuống vị trí thứ tư vì vi phạm quy định xe an toàn khiến anh mất vị trí thứ ba vào tay Leclerc. Các tay đua còn lại ghi điểm trong chặng đua nước rút là Sainz Jr., Russell, Gasly và Pérez. Vòng phân hạng cuộc đua chính đã bị hoãn từ chiều thứ Bảy đến sáng Chủ Nhật do mưa lớn. Norris đã giành vị trí pole trong một phiên vòng phân hạng bị gián đoạn năm lần, trước Russell ở vị trí thứ hai và Tsunoda ở vị trí thứ ba, người đã đạt được vị trí xuất phát cao nhất từ ​​trước đến nay của anh và cho đội đua RB. Cuộc đua chính được tổ chức bốn giờ sau vòng phân hạng. Sau một cuộc đua gay cấn trong điều kiện ẩm ướt, Verstappen giành chiến thắng đầu tiên kể từ mười chặng đua sau khi xuất phát từ vị trí thứ 17 trước cả hai tay đua Alpine là Ocon và Gasly. Bên cạnh đó, Alpine lần đầu tiên lên bục vinh quang trong mùa giải. Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua chính là Russell, Leclerc, Norris, Tsunoda, Piastri, Lawson và Hamilton. Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 393 điểm trước Norris (331 điểm) với khoảng cách 62 điểm và người đứng thứ ba Leclerc (307 điểm) với khoảng cách 86 điểm. McLaren dẫn đầu vị trí dẫn đầu bảng xếp hạng các đội đua với 593 điểm trước Ferrari (557 điểm) và Red Bull Racing (544 điểm).[148]

Kết quả

sửa
Stt Chặng đua[Ghi chú 5] Vị trí pole Vòng đua nhanh nhất Tay đua giành chiến thắng Đội đua giành chiến thắng Diễn biến chi tiết
1 Giải đua ô tô Công thức 1 Bahrain   Max Verstappen   Max Verstappen   Max Verstappen   Red Bull Racing-Honda RBPT Chi tiết
2 Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út   Max Verstappen   Charles Leclerc   Max Verstappen   Red Bull Racing-Honda RBPT Chi tiết
3 Giải đua ô tô Công thức 1 Úc   Max Verstappen   Charles Leclerc   Carlos Sainz Jr.   Ferrari Chi tiết
4 Giải đua ô tô Công thức 1 Nhật Bản   Max Verstappen   Max Verstappen   Max Verstappen   Red Bull Racing-Honda RBPT Chi tiết
5 Giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc   Max Verstappen   Fernando Alonso   Max Verstappen   Red Bull Racing-Honda RBPT Chi tiết
6 Giải đua ô tô Công thức 1 Miami   Max Verstappen   Oscar Piastri   Lando Norris   McLaren-Mercedes Chi tiết
7 Giải đua ô tô Công thức 1 Emilia-Romagna   Max Verstappen   George Russell   Max Verstappen   Red Bull Racing-Honda RBPT Chi tiết
8 Giải đua ô tô Công thức 1 Monaco   Charles Leclerc   Lewis Hamilton   Charles Leclerc   Ferrari Chi tiết
9 Giải đua ô tô Công thức 1 Canada   George Russell   Lewis Hamilton   Max Verstappen   Red Bull Racing-Honda RBPT Chi tiết
10 Giải đua ô tô Công thức 1 Tây Ban Nha   Lando Norris   Lando Norris   Max Verstappen   Red Bull Racing-Honda RBPT Chi tiết
11 Giải đua ô tô Công thức 1 Áo   Max Verstappen   Fernando Alonso   George Russell   Mercedes Chi tiết
12 Giải đua ô tô Công thức 1 Anh   George Russell   Carlos Sainz Jr.   Lewis Hamilton   Mercedes Chi tiết
13 Giải đua ô tô Công thức 1 Hungary   Lando Norris   George Russell   Oscar Piastri   McLaren-Mercedes Chi tiết
14 Giải đua ô tô Công thức 1 Bỉ   Charles Leclerc[Ghi chú 6]   Sergio Pérez   Lewis Hamilton   Mercedes Chi tiết
15 Giải đua ô tô Công thức 1 Hà Lan   Lando Norris   Lando Norris   Lando Norris   McLaren-Mercedes Chi tiết
16 Giải đua ô tô Công thức 1 Ý   Lando Norris   Lando Norris   Charles Leclerc   Ferrari Chi tiết
17 Giải đua ô tô Công thức 1 Azerbaijan   Charles Leclerc   Lando Norris   Oscar Piastri   McLaren-Mercedes Chi tiết
18 Giải đua ô tô Công thức 1 Singapore   Lando Norris   Daniel Ricciardo   Lando Norris   McLaren-Mercedes Chi tiết
19 Giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ   Lando Norris   Esteban Ocon   Charles Leclerc   Ferrari Chi tiết
20 Giải đua ô tô Công thức 1 Thành phố México   Carlos Sainz Jr.   Charles Leclerc   Carlos Sainz Jr.   Ferrari Chi tiết
21 Giải đua ô tô Công thức 1 São Paulo   Lando Norris   Max Verstappen   Max Verstappen   Red Bull Racing-Honda RBPT Chi tiết
22 Giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas   George Russell   Lando Norris   George Russell   Mercedes Chi tiết
23 Giải đua ô tô Công thức 1 Qatar Chi tiết
24 Giải đua ô tô Công thức 1 Abu Dhabi Chi tiết

Bảng xếp hạng

sửa

Hệ thống ghi điểm

sửa

Điểm được trao cho mười tay đua đứng đầu sau cuộc đua chính, tay đua lập vòng đua nhanh nhất tại một cuộc đua chính (chỉ áp dụng cho một trong mười tay đua dẫn đầu) và tám tay đua dẫn đầu sau chặng đua nước rút.[149][Ghi chú 7] Hệ thống tính điểm countback được sử dụng trong trường hợp tay đua giành được nhiều chặng đua hơn sẽ được xếp hạng cao hơn. Nếu số lần chiến thắng bằng nhau thì xét các vị trí về đích thứ nhì, v.v.[151] Số điểm được phân bố theo hệ thống như sau:

Vị trí 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Vòng đua nhanh nhất
Cuộc đua chính 25 18 15 12 10 8 6 4 2 1
Chặng đua nước rút[Ghi chú 5] 8 7 6 5 4 3 2 1

Bảng xếp hạng các tay đua

sửa
Vị trí Tay đua BHR  SAU  AUS  JPN  CHN  MIA  EMI  MON  CAN  ESP  AUT  GBR  HUN  BEL  NED  ITA  AZE  SIN  USA  MXC  SAP  LVG  QAT  ABU  Số điểm
1   Max Verstappen 1PF 1P RetP 1PF 11P 21P 1P 6 1 1 51P 2 5 4 2 6 5 2 31 6 14F 5 403
2   Lando Norris 6 8 3 5 26 1 2 4 2 2PF 20 3 3 2P 5 1PF 3PF 5F 1P 43P 2 61P 6F 340
3   Charles Leclerc 4 3F 2F 4 44 32 3 1P Ret 5 117 14 4 3P 3 1 2P 5 14 3F 53 4 319
4   Oscar Piastri 8 4 4 8 87 136F 4 2 5 7 22 4 1 2 4 2 1 3 5 8 82 7 268
5   Carlos Sainz Jr. 3 WD 1 3 55 55 5 3 Ret 6 35 5F 6 6 5 4 18  7 22 1P Ret2 3 259
6   George Russell 5 6 17  7 68 8 7F 5 3P 4 14 RetP 8F DSQ 7 7 3 4 65 5 46 1P 217
7   Lewis Hamilton 7 9 Ret 9 92 6 6 7F 4F 3 46 1 3 1 8 5 9 6 Ret6 4 10 2 208
8   Sergio Pérez 2 2 5 2 33 43 8 Ret Ret 8 78 17 7F 7 6 8 17  10 7 17 118 10 152
9   Fernando Alonso 9 5 8 6 7F 9 19 11 6 12 18F 8 11 8 10 11 6 8 13 Ret 14 11 62
10   Nico Hülkenberg 16 10 9 11 10 117 11 Ret 11 11 6 6 13 18 11 17 11 9 88 9 DSQ 8 35
11   Tsunoda Yūki 14 15 7 10 Ret 78 10 8 14 19 14 10 9 16 17 Ret Ret 12 14 Ret 7 9 30
12   Pierre Gasly 18 Ret 13 16 13 12 16 10 9 9 10 DNS Ret 13 9 15 12 17 12 10 37 Ret 26
13   Lance Stroll 10 Ret 6 12 15 17 9 14 7 14 13 7 10 11 13 19 19  14 15 11 DNS 15 24
14   Esteban Ocon 17 13 16 15 11 10 14 Ret 10 10 12 16 18 9 15 14 15 13 18F 13 2 17 23
15   Kevin Magnussen 12 12 10 13 16 19 12 Ret 12 17 8 12 15 14 18 10 EX 19  117 7 WD 12 14
16   Alexander Albon 15 11 11 Ret 12 18 Ret 9 Ret 18 15 9 14 12 14 9 7 Ret 16 Ret DNS Ret 12
17   Daniel Ricciardo 13 16 12 Ret Ret 154 13 12 8 15 9 13 12 10 12 13 13 18F 12
18   Oliver Bearman 7 10 12 7
19   Franco Colapinto 12 8 11 10 12 Ret 14 5
20   Liam Lawson 9 16 9 16 4
21   Chu Quán Vũ 11 18 15 Ret 14 14 15 16 15 13 17 18 19 Ret 20 18 14 15 19 15 15 13 0
22   Logan Sargeant 20 14 WD 17 17 Ret 17 15 Ret 20 19 11 17 17 16 0
23   Valtteri Bottas 19 17 14 14 Ret 16 18 13 13 16 16 15 16 15 19 16 16 16 17 14 13 18 0

Chú thích

  •   – Tay đua không hoàn thành cuộc đua chính nhưng được xếp hạng vì hoàn thành hơn 90% tổng chiều dài cuộc đua chính.

Bảng xếp hạng các đội đua

sửa
Vị trí Đội đua Số xe BHR  SAU  AUS  JPN  CHN  MIA  EMI  MON  CAN  ESP  AUT  GBR  HUN  BEL  NED  ITA  AZE  SIN  USA  MXC  SAP  LVG  QAT  ABU  Số điểm
1   McLaren-Mercedes 4 6 8 3 5 26 1 2 4 2 2PF 20 3 3 2P 5 1PF 3PF 5F 1P 43P 2 61P 6F 608
81 8 4 4 8 87 136F 4 2 5 7 22 4 1 2 4 2 1 3 5 8 82 7
2   Ferrari 16 4 3F 2F 4 44 32 3 1P Ret 5 117 14 4 3P 3 1 2P 5 14 3F 53 4 584
38/55 3 7 1 3 55 55 5 3 Ret 6 35 5F 6 6 5 4 17  7 22 1P Ret5 3
3   Red Bull Racing-Honda RBPT 1 1PF 1P RetP 1PF 11P 21P 1P 6 1 1 51P 2 5 4 2 6 5 2 31 6 14F 5 554
11 2 2 5 2 33 43 8 Ret Ret 8 78 17 7 7F 6 8 17  10 7 17 118 10
4   Mercedes 44 7 9 Ret 9 92 6 6 7F 4F 3 46 1 3 1 8 5 9 6 Ret6 4 10 2 425
63 5 6 17  7 68 8 7F 5 3P 4 14 RetP 8F DSQ 7 7 3 4 65 5 46 1P
5   Aston Martin Aramco-Mercedes 14 9 5 8 6 7F 9 19 11 6 12 18F 8 11 8 10 11 6 8 13 Ret 14 11 86
18 10 Ret 6 12 15 17 9 14 7 14 13 7 10 11 13 19 19  14 15 11 DNS 15
6   Haas-Ferrari 20/50 12 12 10 13 16 19 12 Ret 12 17 8 12 15 14 16 10 10 19  117 7 12 12 50
27 16 10 9 11 10 117 11 Ret 11 11 6 6 13 18 11 17 11 9 88 9 DSQ 8
7   Alpine-Renault 10 18 Ret 13 16 13 12 16 10 9 9 10 DNS Ret 13 9 15 12 17 12 10 37 Ret 49
31 17 13 16 15 11 10 14 Ret 10 10 12 16 18 9 15 14 15 13 18F 13 2 17
8   RB-Honda RBPT 3/30 13 16 12 Ret Ret 154 13 12 8 15 9 13 12 10 12 13 13 18F 9 16 9 16 46
22 14 15 7 10 Ret 78 10 8 14 19 14 10 9 16 17 Ret Ret 12 14 Ret 7 9
9   Williams-Mercedes 2/43 20 14 WD 17 17 Ret 17 15 Ret 20 19 11 17 17 16 12 8 11 10 12 Ret 14 17
23 15 11 11 Ret 11 18 Ret 9 Ret 18 15 9 14 12 14 9 7 Ret 16 Ret DNS Ret
10   Kick Sauber-Ferrari 24 11 18 15 Ret 14 14 15 16 15 13 17 18 19 Ret 20 18 14 15 19 15 15 13 0
77 19 17 14 14 Ret 16 18 13 13 16 16 15 16 15 19 16 16 16 17 14 13 18

Chú thích mở rộng cho các bảng trên

Chú thích
Màu Ý nghĩa
Vàng Chiến thắng
Bạc Hạng 2
Đồng Hạng 3
Xanh lá Các vị trí ghi điểm khác
Xanh dương Được xếp hạng
Không xếp hạng, có hoàn thành (NC)
Tím Không xếp hạng, bỏ cuộc (Ret)
Đỏ Không phân hạng (DNQ)
Đen Bị loại khỏi kết quả (DSQ)
Trắng Không xuất phát (DNS)
Chặng đua bị hủy (C)
Không đua thử (DNP)
Loại trừ (EX)
Không đến (DNA)
Rút lui (WD)
Không tham gia (ô trống)
Ghi chú Ý nghĩa
P Giành vị trí pole
Số mũ
cao
Vị trí giành điểm
tại chặng đua nước rút
F Vòng đua nhanh nhất

Ghi chú

sửa
  1. ^ Sau khi bảo vệ thành công chức vô địch, Max Verstappen được phép tiếp tục sử dụng số xe 1.
  2. ^ Carlos Sainz Jr. có mặt trên danh sách các tay đua tham dự Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út, nhưng sau đó đã rút lui vì bị viêm ruột thừa.[14]
  3. ^ Logan Sargeant có tên trong danh sách các tay đua tham dự Giải đua ô tô Công thức 1 Úc, nhưng sau đó đã rút lui để cho đồng đội Alexander Albon tiếp quản và lái chiếc xe đua của mình vì chiếc xe đua của Albon bị hư hỏng nặng sau một vụ va chạm.[33]
  4. ^ Trong các chặng đua tại những quốc gia nơi quảng cáo cờ bạc bị cấm, đội đua Sauber không thi đấu với tên gọi của nhà tài trợ chính Stake. Vì thế, đội phải thi đấu dưới tên của nhà tài trợ khác của đội, Kick.
  5. ^ a b Các chặng đua nước rút đựoc tổ chức tại Giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc, Giải đua ô tô Công thức 1 Miami, Giải đua ô tô Công thức 1 Áo, Giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ, Giải đua ô tô Công thức 1 São PauloGiải đua ô tô Công thức 1 Qatar.[63]
  6. ^ Max Verstappen đã thiết lập thời gian nhanh nhất trong vòng phân hạng nhưng anh đã bị tụt mười vị trí xuất phát vì vượt quá hạn ngạch các thành phần động cơ đốt trong. Charles Leclerc đã được lên vị trí pole thay thế Verstappen.
  7. ^ Trong trường hợp cuộc đua bị kết thúc sớm, số điểm theo từng vị trí có thể bị giảm tùy thuộc vào mức độ phần trăm tổng cộng khoảng cách toàn bộ cuộc đua.[150]

Tham khảo

sửa
  1. ^ Boin, Adriano (5 tháng 3 năm 2021). “Pirelli to remain Formula 1 tyre provider until 2024”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2023.
  2. ^ “Red Bull have 'clearer understanding' of Singapore issues”. Formula1.com (bằng tiếng Anh). Formula One Administration. 19 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2024.
  3. ^ Edmonson, Laurence (3 tháng 3 năm 2022). “Verstappen signs new contract to stay at Red Bull until 2028”. ESPN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2022.
  4. ^ a b “Formel 1: Offiziell! Tsunoda und Ricciardo fahren 2024 für AlphaTauri” [Công thức 1: Chính thức! Tsunoda và Ricciardo sẽ đua cho AlphaTauri vào năm 2024]. Sky Sports (bằng tiếng Đức). 23 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2023.
  5. ^ Cleeren, Filip (31 tháng 5 năm 2022). “Perez signs two-year extension to Red Bull F1 contract”. Motorsport.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2022.
  6. ^ Noble, Jonathan (11 tháng 8 năm 2023). “Mercedes F1 car "annoyingly dead" in the middle of corners”. Motorsport.com Australia (bằng tiếng Anh). Motorsport Network. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2024.
  7. ^ a b Kalinauckas, Alex (31 tháng 8 năm 2023). “Hamilton extends Mercedes F1 contract until 2025”. Motorsport.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2023.
  8. ^ “Mick Schumacher will retain his reserve driver role with Mercedes for 2024”. X (Twitter trước đây) (bằng tiếng Anh). 22 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2023.
  9. ^ Mulder, Nicole (11 tháng 2 năm 2024). “Mercedes promote Vesti to F1 reserve driver alongside Mick Schumacher”. gpblog.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2024.
  10. ^ Maher, Thomas (29 tháng 1 năm 2024). “Ferrari's Project 676 receives surprise official chassis name for F1 2024 season”. PlanetF1 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2024.
  11. ^ Elizalde, Pablo (23 tháng 12 năm 2019). “Charles Leclerc's Ferrari F1 deal extended until end of 2024 season”. Autosport (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2022.
  12. ^ a b c Ehlen, Stefan; Cooper, Adam (29 tháng 1 năm 2024). “Ferrari: Bearman und Arthur Leclerc werden offizielle Test- und Ersatzfahrer” [Ferrari: Bearman và Arthur Leclerc chính thức trở thành tay đua dự bị và thử nghiệm]. Motorsport-Total.com (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2024.
  13. ^ “Carlos Sainz: Spanish driver signs new Ferrari contract until 2024 Formula 1 season”. Sky Sports (bằng tiếng Anh). 21 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2022.
  14. ^ Horton, Phillip (8 tháng 3 năm 2024). “Ferrari F1 Driver Carlos Sainz Jr. Will Miss Saudi Arabian Grand Prix”. Autoweek (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2024.
  15. ^ a b c Cleeren, Filip (8 tháng 3 năm 2024). “Bearman replaces Sainz at Ferrari for Saudi Arabian GP after appendicitis diagnosis”. Autosport (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2024.
  16. ^ Kalinauckas, Alex (16 tháng 1 năm 2024). “McLaren reveals new-look 2024 F1 livery ahead of MCL38 launch”. us.motorsport.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2024.
  17. ^ “Lando Norris agrees major contract extension to stay at McLaren until 2025”. Formula1.com (bằng tiếng Anh). 9 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2023.
  18. ^ “McLaren sign Pato O'Ward as reserve driver for 2024”. Formula1.com (bằng tiếng Anh). 23 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2023.
  19. ^ Nimmervoll, Christian (23 tháng 9 năm 2023). “McLaren engagiert Le-Mans-Sieger als Testfahrer für 2024” [McLaren thuê người chiến thắng Le Mans làm tay đua lái thử cho năm 2024]. Motorsport-Total.com (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2023.
  20. ^ Wood, Ida (27 tháng 9 năm 2022). “F1 2023: Piastri explains why he chose number 81 for debut”. RaceFans.net (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2022.
  21. ^ a b Gale, Ewan (12 tháng 10 năm 2023). “Aston Martin F1 team set for name change”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2023.
  22. ^ Cooper, Adam (12 tháng 9 năm 2023). “Alonso promised more aero efficient 2024 Aston Martin F1 car”. Motorsport.com Australia (bằng tiếng Anh). Motorsport Network. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2024.
  23. ^ “Fernando Alonso signs to Aston Martin for 2023 on multi-year contract”. Formula1.com (bằng tiếng Anh). 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2023.
  24. ^ Cooper, Adam (2 tháng 11 năm 2023). “Aston Martin F1 team retains Drugovich as reserve driver for 2024”. Motorsport.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2023.
  25. ^ “A driver's guide to F1 pre-season testing” (bằng tiếng Anh). Aston Martin Aramco Formula One Team. 22 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  26. ^ Cooper, Adam (31 tháng 8 năm 2023). “Aston Martin: No doubts about Stroll's F1 future at the team”. Autosport (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2023.
  27. ^ Schmidt, Michael; Haupt, Andreas (16 tháng 8 năm 2023). “F1-Interview mit Alpine-Technikchef Matt Harman: „Wollen am Ende das viertbeste Team sein" [Phỏng vấn F1 với Matt Harman, giám đốc kỹ thuật của Alpine: "Chúng tôi muốn trở thành đội xuất sắc thứ tư"]. Auto Motor und Sport (bằng tiếng Đức). ISSN 0005-0806. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2024.
  28. ^ “Alpine announces the signing of Pierre Gasly on three-year contract”. Sportsmax (bằng tiếng Anh). 8 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2023.
  29. ^ “Formula 1 - Jack Doohan - Alpine”. Alpine Cars UK (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2024.
  30. ^ “Esteban Ocon signs bumper three-year contract extension with Alpine”. Formula1.com (bằng tiếng Anh). 16 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2023.
  31. ^ “Alex Albon and Logan Sargeant preview the Singapore Grand Prix”. Williams Racing (bằng tiếng Anh). 13 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2024.
  32. ^ “Williams retain Sargeant for 2024 season”. Formula1.com (bằng tiếng Anh). 12 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2023.
  33. ^ Cleeren, Filip (22 tháng 3 năm 2024). “Williams withdraw Sargeant from Australian GP as Albon gets his F1 car”. motorsport.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  34. ^ a b “Williams im Porträt: Infos und Statistiken - Steckbrief” [Hồ sơ đội đua Williams: Các thông tin và dữ liệu - Tiểu sử đội]. Motorsport-Total.com (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2024.
  35. ^ Noble, Jonathan (27 tháng 8 năm 2024). “Colapinto replaces Sargeant at Williams for remainder of F1 season” [Colapinto thay thế Sargeant tại Williams trong phần còn lại của mùa giải Công thức 1]. motorsport.com. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024.
  36. ^ “Williams confirm Albon for 2023 on new multi-year contract”. Formula1.com. 3 tháng 8 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2022.
  37. ^ a b “AlphaTauri to be rebranded in F1 2024, says Marko”. Formula1.com (bằng tiếng Anh). 24 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2023.
  38. ^ “Introducing the VCARB 01 - Entering Our New Era” (bằng tiếng Anh). Visa Cash App RB Formula One Team. 8 tháng 2 năm 2024. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2024.
  39. ^ a b “Yuki Tsunoda and Daniel Ricciardo with us in 2024”. Scuderia AlphaTauri. 23 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2023.
  40. ^ Marko, Helmut (25 tháng 3 năm 2024). “Nachbehandlung mit dem Doktor: Australien” [Điều trị với bác sĩ: Úc]. Speedweek.com (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2024.
  41. ^ a b “Lawson to replace Ricciardo at RB for rest of the season” [Lawson sẽ thay thế Ricciardo tại RB trong phần còn lại của mùa giải]. Formula 1 (bằng tiếng Anh). 26 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2024.
  42. ^ a b Wood, Will (26 tháng 8 năm 2022). “Alfa Romeo to split from Sauber after 2023 season amid Audi deal rumours”. RaceFans.net (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2023.
  43. ^ “Sauber's new team name unveiled after Alfa Romeo departure”. Formula1.com (bằng tiếng Anh). 15 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2023.
  44. ^ a b Cooper, Adam (14 tháng 9 năm 2023). “Alfa Romeo confirms Zhou alongside Bottas for 2024 F1 season”. Motorsport.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2023.
  45. ^ @stakef1team. “🚨BREAKING: Zane Maloney to join Sauber Academy and take on additional Reserve Driver role for @stakef1team” (Tweet) – qua Twitter.
  46. ^ “Alfa Romeo announce Valtteri Bottas to join the team in 2022 on multi-year deal”. Formula1.com (bằng tiếng Anh). 9 tháng 6 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2022.
  47. ^ Medland, Chris (27 tháng 6 năm 2023). “Haas could use Austria 'like a test session' to solve race day woes - Steiner”. RACER (bằng tiếng Anh). ISSN 1066-6060. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2024.
  48. ^ a b Benson, Andrew (24 tháng 8 năm 2023). “Formula 1: The Haas team to retain Nico Hulkenberg and Kevin Magnussen in 2024”. BBC Sport (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2023.
  49. ^ a b Ehlen, Stefan (1 tháng 2 năm 2024). “Haas 2024 mit zwei Ersatzfahrern: Bearman sechsmal im Freitagstraining” [Haas 2024 với hai tay đua dự bị: Bearman sáu lần trong buổi tập thứ Sáu]. Motorsport-Total.com (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2024.
  50. ^ a b Saunders, Nate (6 tháng 9 năm 2024). “Bearman to replace Magnussen in Baku” [Bearman thay thế Magnussen ở Baku]. ESPN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2024.
  51. ^ “Sauber to become Audi works F1 team from 2026”. Formula1.com (bằng tiếng Anh). 26 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2023.
  52. ^ “Formula 1 2024: Sauber confirm new team name for next season after Alfa Romeo departure” (bằng tiếng Anh). SkySports.com. 15 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2023.
  53. ^ Malm, Scott Mitchell (29 tháng 6 năm 2023). “Red Bull plans AlphaTauri name change and UK F1 campus share”. The Race (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2023.
  54. ^ Cooper, Adam (21 tháng 11 năm 2023). “AlphaTauri ready to announce new F1 name for 2024 as US sponsors join”. Motorsport.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2023.
  55. ^ “Williams retain Sargeant for 2024 season”. Formula1.com (bằng tiếng Anh). 1 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2024. Confirmation of Williams' full line-up means the 2024 grid is now complete, with the only change from the 20 drivers who started the 2023 season-opening Bahrain Grand Prix being Daniel Ricciardo, who replaced Nyck de Vries at AlphaTauri midway through the year.
  56. ^ Benson, Andrew (15 tháng 12 năm 2023). “Sauber returns to original name for 2024 F1 season” (bằng tiếng Anh). BBC Sport. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2024.
  57. ^ Smith, Luke (24 tháng 3 năm 2024). “From surgery to F1 victory in 16 days: Carlos Sainz's Australia win proves his mettle” [Từ ca phẫu thuật đến chiến thắng Công thức 1 trong 16 ngày: Chiến thắng tại Úc của Carlos Sainz chứng minh bản lĩnh của anh ấy]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024.
  58. ^ “Williams replace Logan Sargeant with Franco Colapinto for remainder of 2024 F1 season”. Sky Sports (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2024.
  59. ^ “Magnussen set for Azerbaijan GP ban after Monza penalty” [Magnussen bị cấm tham gia Giải đua ô tô Công thức 1 Azerbaijan sau án phạt ở Monza]. Formula 1 (bằng tiếng Anh). 1 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2024.
  60. ^ “Ricciardo to leave RB as team get set for driver change” [Ricciardo rời RB khi đội chuẩn bị thay đổi tay đua]. Formula 1 (bằng tiếng Anh). 26 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2024.
  61. ^ “Bearman handed Brazil F1 outing as Magnussen sidelined”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). 1 tháng 11 năm 2024. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2024.
  62. ^ Cleeren, Filip (1 tháng 11 năm 2024). “Magnussen out for Brazilian GP, Bearman gets full race weekend”. Autosport (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2024.
  63. ^ a b “Formula 1 announces calendar for 2024”. Formula1.com (bằng tiếng Anh). 5 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2023.
  64. ^ a b c “F1 2024 calendar revealed: Saturday night Grands Prix in Bahrain and Saudi Arabia to kick off record 24-race season”. Sky Sports (bằng tiếng Anh). 28 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2023.
  65. ^ Nichol, Jake (5 tháng 12 năm 2023). “Two new venues to host 2024 Sprints as F1 announces schedule”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2023.
  66. ^ “Formula 1 announces calendar for 2024”. Formula1.com (bằng tiếng Anh). 7 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2023.
  67. ^ Rulle, Silja (5 tháng 7 năm 2023). “Formel 1: Rennkalender 2024 da – Drei Rennen starten überraschend samstags!” [Lịch đua xe Công thức 1 2024: Ba chặng đua bất ngờ bắt đầu vào thứ Bảy!]. Bild (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2023.
  68. ^ Benson, Andrew (2 tháng 3 năm 2022). “Formula 1 terminates Russian GP deal” (bằng tiếng Anh). BBC Sport. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2023.
  69. ^ a b c Noble, Jonathan (24 tháng 11 năm 2023). “F1 approves plans for sprint format revamp for 2024; Tyre blanket ban abandoned”. Motorsport.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2023.
  70. ^ Mitchell-Malm, Scott (24 tháng 11 năm 2023). “F1 2026 development ban leads suite of changes”. The Race (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2023.
  71. ^ Cooper, Adam (7 tháng 12 năm 2023). “FIA formalises ban on 2026 F1 aero testing”. Motorsport.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2023.
  72. ^ Wood, Will (24 tháng 11 năm 2023). “F1 Commission plans sprint race changes, drops ATA and delays tyre blanket ban”. RaceFans (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2023.
  73. ^ a b Walsh, Fergal (1 tháng 12 năm 2023). “Pirelli reveals tyre compounds for opening three 2024 F1 rounds”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2023.
  74. ^ Cooper, Adam (13 tháng 11 năm 2023). “FIA set to tighten up F1 right of review procedure”. www.motorsport.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2023.
  75. ^ Nichol, Jake (24 tháng 11 năm 2023). “F1 Commission agrees to reverse 2025 ban; Sprint format to be tweaked”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2023.
  76. ^ Noble, Jonathan (24 tháng 11 năm 2023). “F1 approves plans for sprint format revamp for 2024; Tyre blanket ban abandoned”. Motorsport.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2023.
  77. ^ Boxall-Legge, Jake (5 tháng 2 năm 2024). “F1 sprint race weekend format set for reshuffle in 2024”. www.motorsport.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2024.
  78. ^ Suttill, John (5 tháng 2 năm 2024). “New F1 sprint format + DRS and engine limit tweaks announced”. The Race (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2024.
  79. ^ “Formula 1 Commission Meeting 05.02.2024 – Media Statement” (bằng tiếng Anh). Liên đoàn Ô tô Quốc tế (FIA). 5 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2024.
  80. ^ Collantine, Keith (27 tháng 2 năm 2024). “New clampdown on drivers lapping slowly during qualifying”. RaceFans (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  81. ^ Wood, Will (1 tháng 3 năm 2024). “Race director Wittich reverses changes to maximum lap time rule in qualifying”. RaceFans (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
  82. ^ Mitchell-Malm, Scott (6 tháng 3 năm 2024). “F1's unpopular penalty for overtaking off track has changed”. The Race (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2024.
  83. ^ Collantine, Keith (30 tháng 4 năm 2024). “FIA tackles jump starts and teams not running in practice with new F1 rules”. RaceFans (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  84. ^ Gale, Ewan (1 tháng 8 năm 2024). “FIA updates F1 regulations following Chinese GP confusion”. Motorsport.com. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2024.
  85. ^ “F1 2024 dates, calendar and drivers: How race, testing schedule and line-ups are set for next season”. Sky Sports (bằng tiếng Anh). 26 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2023.
  86. ^ Galloway, James (1 tháng 3 năm 2024). “Bahrain GP Qualifying: Max Verstappen claims first F1 2024 pole ahead of Ferrari's Charles Leclerc” (bằng tiếng Anh). Sky Sports. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2024.
  87. ^ a b Benson, Andrew. “F1 Bahrain Grand Prix: Max Verstappen takes dominant win for Red Bull”. BBC Sport (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2024.
  88. ^ a b “Championship standings after 2024 F1 Bahrain Grand Prix”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). 2 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2024.
  89. ^ “Saudi Arabian GP Qualifying: Max Verstappen beats Charles Leclerc to pole to continue dominant start to season”. Sky Sports (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2024.
  90. ^ 'It's 88 missed podiums!' – Verstappen reflects on 100th F1 rostrum appearance as he praises 'fantastic' Bearman”. Formula 1 (bằng tiếng Anh). 9 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2024.
  91. ^ a b “Verstappen seals assured victory in Saudi Arabian Grand Prix as Bearman scores points on debut”. Formula 1 (bằng tiếng Anh). 9 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2024.
  92. ^ a b “Championship standings after 2024 F1 Saudi Arabian Grand Prix”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). 9 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2024.
  93. ^ Suttill, Josh (23 tháng 3 năm 2024). “Verstappen on pole again as Ferrari misses its chance”. The Race (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2024.
  94. ^ Xuân Bình (24 tháng 3 năm 2024). “Phanh xe Verstappen nổ, cháy trên đường đua”. VnExpress. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2024.
  95. ^ Richards, Giles (24 tháng 3 năm 2024). “Carlos Sainz wins Australian F1 Grand Prix in one-two finish for Ferrari”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2024.
  96. ^ a b “Championship standings after 2024 F1 Australian Grand Prix”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). 24 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2024.
  97. ^ “Japanese Grand Prix 2024 qualifying: Max Verstappen beats Sergio Perez to pole by 0.066s in Suzuka as Norris seals P3”. Formula 1 (bằng tiếng Anh). 6 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  98. ^ Galloway, James (7 tháng 4 năm 2024). “Japanese GP: Max Verstappen resumes F1 2024 dominance with win after big Daniel Ricciardo, Alex Albon crash”. Sky Sports (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  99. ^ Bradley, Charles (7 tháng 4 năm 2024). “2024 F1 Japanese GP results: Max Verstappen wins red-flagged race”. Motorsport.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  100. ^ “Tsunoda hails 'insane' RB pit stop as he nets point in Japan”. Formula One (bằng tiếng Anh). 7 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  101. ^ a b c Nichol, James (7 tháng 4 năm 2024). “2024 F1 championship standings after Japanese Grand Prix”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2024.
  102. ^ “Formula 1 announces 2024 Sprint Calendar”. Formula 1 (bằng tiếng Anh). 5 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2024.
  103. ^ Bradley, Charles (19 tháng 4 năm 2024). “2024 F1 Chinese GP sprint qualifying results: Lando Norris takes pole”. Motorsport.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2024.
  104. ^ “Norris claims pole during wet Sprint Qualifying in China”. Formula 1 (bằng tiếng Anh). 19 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2024.
  105. ^ “Chinese GP Sprint Qualifying: Lando Norris beats Lewis Hamilton to pole in dramatic wet finale”. Sky Sports (bằng tiếng Anh). 19 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2024.
  106. ^ a b Bradley, Charles (20 tháng 4 năm 2024). “2024 F1 Chinese GP sprint results: Verstappen wins from fourth on grid”. Motorsport.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2024.
  107. ^ a b Cash, Joe (20 tháng 4 năm 2024). “Verstappen wins first sprint race of the F1 season”. Reuters (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2024.
  108. ^ a b Nichol, Jake (20 tháng 4 năm 2024). “Verstappen grabs historic 100th Red Bull pole for Chinese Grand Prix”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2024.
  109. ^ Golding, Nick (20 tháng 4 năm 2024). “2024 F1 Chinese Grand Prix – Qualifying results”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2024.
  110. ^ “Verstappen charges to victory in action-packed Chinese GP”. Formula 1 (bằng tiếng Anh). 21 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2024.
  111. ^ Richards, Giles (21 tháng 4 năm 2024). “Max Verstappen charges to F1 Chinese GP victory with Lando Norris second”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2024.
  112. ^ a b Nichol, Jake (21 tháng 4 năm 2024). “2024 F1 championship standings after Chinese Grand Prix”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2024.
  113. ^ Benson, Andrew (3 tháng 5 năm 2024). “Verstappen beats Leclerc to Miami sprint pole”. BBC Sport (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2024.
  114. ^ Kalinauckas, Alex (3 tháng 5 năm 2024). “F1 Miami GP: Verstappen on sprint pole, Mercedes out in SQ2”. Motorsport.com. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2024.
  115. ^ “Verstappen charges to Sprint race win over Leclerc”. Formula 1 (bằng tiếng Anh). 4 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
  116. ^ Kalinauckas, Alex (4 tháng 5 năm 2024). “F1 Miami GP: Verstappen fends off Leclerc for pole again”. Autosport. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
  117. ^ Kelly, Sean (5 tháng 5 năm 2024). “Facts and Stats: Verstappen first driver to grab opening six poles since Prost three decades ago”. Formula 1 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
  118. ^ Minh phương (6 tháng 5 năm 2024). “Norris đánh bại Verstappen trên đường đua Miami”. VnExpress. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  119. ^ “Norris beats Verstappen for breakthrough maiden F1 victory”. Formula 1 (bằng tiếng Anh). 5 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  120. ^ a b Nichol, Jake (5 tháng 5 năm 2024). “2024 F1 championship standings after Miami Grand Prix”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  121. ^ Kalinauckas, Alex (18 tháng 5 năm 2024). “F1 Imola GP: Verstappen beats Piastri to pole”. Autosport.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  122. ^ “Verstappen holds off thrilling late charge from Norris to win Emilia-Romagna Grand Prix”. Formula 1 (bằng tiếng Anh). 19 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  123. ^ a b Nichol, Jake (19 tháng 5 năm 2024). “2024 F1 championship standings after Emilia Romagna Grand Prix”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  124. ^ “Leclerc beats Piastri and Sainz to home pole during Monaco qualifying thriller”. Formula 1 (bằng tiếng Anh). 25 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2024.
  125. ^ Unwin, Will (26 tháng 5 năm 2024). “Charles Leclerc wins F1 Monaco GP after avoiding 'monster accident' – as it happened”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  126. ^ “Formula 1 2024 Monaco GP - Race Results”. Motorsport.com (bằng tiếng Anh). 26 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  127. ^ a b Nichol, Jake (26 tháng 5 năm 2024). “2024 F1 championship standings after Monaco Grand Prix”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2024.
  128. ^ 'I've missed this feeling!' – Russell hails Mercedes progress after Canada pole as he vows to 'go for it' on race day” ['Tôi đã nhớ cảm giác này!' - Russell ca ngợi sự tiến bộ của Mercedes sau vị trí pole ở Canada khi anh thề sẽ 'cố gắng' vào ngày đua]. Formula 1 (bằng tiếng Anh). 9 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2024.
  129. ^ a b “Verstappen beats Norris to victory in thrilling wet/dry Canadian GP” [Verstappen đánh bại Norris để giành chiến thắng tại Giải đua ô tô Công thức 1 Canada gay cấn trong điều kiện thời tiết khô lẫn ướt]. Formula 1 (bằng tiếng Anh). 9 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2024.
  130. ^ a b “2024 F1 championship standings after Canadian Grand Prix”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). 9 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2024.
  131. ^ Kanal, Samarth (23 tháng 6 năm 2024). “Verstappen hangs on to win Spanish GP Norris 'should've won'. The Race (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2024.
  132. ^ a b Nichol, Jake (23 tháng 6 năm 2024). “Championship standings after 2024 F1 Spanish Grand Prix” [Bảng xếp hạng Giải đua xe Công thức 1 2024 sau Giải đua ô tô Công thức 1 Tây Ban Nha]. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2024.
  133. ^ “Russell claims surprise win in Austria after Verstappen and Norris dramatically collide in battle for the lead”. Formula 1 (bằng tiếng Anh). 30 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2024.
  134. ^ a b Golding, Nick (30 tháng 6 năm 2024). “2024 F1 championship standings after Austrian Grand Prix”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2024.
  135. ^ Coleman, Madeline (6 tháng 7 năm 2024). “George Russell takes British GP pole, leads all-British top three in qualifying”. The New York Times (bằng tiếng Anh). ISSN 0362-4331. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2024.
  136. ^ Coleman, Madeline (7 tháng 7 năm 2024). “Lewis Hamilton wins British Grand Prix after 945-day F1 victory drought”. The New York Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2024.
  137. ^ a b Golding, Nick (7 tháng 7 năm 2024). “2024 F1 championship standings after British Grand Prix”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2024.
  138. ^ a b “2024 F1 championship standings after Belgian Grand Prix”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). 28 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2024.
  139. ^ Saunders, Nate (25 tháng 8 năm 2024). “Dutch GP: Lando Norris beats Max Verstappen, wins at Zandvoort” [GP Hà Lan: Lando Norris đánh bại Max Verstappen và giành chiến thắng tại Zandvoort]. ESPN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2024.
  140. ^ a b “2024 F1 championship standings after Dutch Grand Prix”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). 25 tháng 8 năm 2024. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2024.
  141. ^ a b “2024 F1 championship standings after Italian Grand Prix”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). 1 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2024.
  142. ^ “Piastri edges out Leclerc for dramatic Azerbaijan GP win” [Piastri đánh bại Leclerc để giành chiến thắng kịch tính tại Giải đua ô tô Công thức 1 Azerbaijan 2024]. Formula 1 (bằng tiếng Anh). 15 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2024.
  143. ^ Edmonson, Laurence (22 tháng 9 năm 2024). “McLaren's Lando Norris dominates Singapore GP over Max Verstappen” [Lando Norris của McLaren thống trị Giải đua ô tô Công thức 1 Singapore trước Max Verstappen]. ESPN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2024.
  144. ^ “Norris dominates Singapore GP to cut Verstappen's title lead” [Norris thống trị Giải đua ô tô Công thức 1 Singapore để thu hẹp khoảng cách với Verstappen]. Formula 1 (bằng tiếng Anh). 22 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2024.
  145. ^ Golding, Nick (22 tháng 9 năm 2024). “2024 F1 Singapore Grand Prix - results”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2024.
  146. ^ “2024 F1 championship standings after Singapore Grand Prix”. RacingNews365 (bằng tiếng Anh). 22 tháng 9 năm 2024. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2024.
  147. ^ “Sainz surges to Mexico victory ahead of Norris and Leclerc as Verstappen hit with two penalties for Norris moves”. Formula 1 (bằng tiếng Anh). 27 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2024.
  148. ^ “Verstappen wins chaotic Sao Paulo GP after recovery from P17”. Formula 1 (bằng tiếng Anh). 3 tháng 11 năm 2024. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2024.
  149. ^ “Beginner's guide to the F1 weekend”. Formula 1 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2024.
  150. ^ Cooper, Sam (23 tháng 2 năm 2023). “Wet races, half points and a new fan engagement activity – the FIA rule changes analysed” (bằng tiếng Anh). Yahoo! Sports. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2024.
  151. ^ “The beginner's guide to the F1 Drivers' Championship”. Formula 1 (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2024.

Liên kết ngoài

sửa