I-12 là một tàu ngầm lớp Type A (巡潜甲型潜水艦 Junsen Kō-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, thuộc phân lớp Type A Cải tiến 1 (Type A2). Nhập biên chế năm 1944, thủy thủy đoàn I-12 đã phạm tội ác chiến tranh khi giết hại những người sống sót từ một con tàu bị đánh chìm. Nó bị một tàu quét mìn và một tàu tuần tra Hoa Kỳ đánh chìm tại vùng biển giữa HonoluluSan Francisco vào ngày 13 tháng 11, 1944.

Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 620
Xưởng đóng tàu Kawasaki, Kobe
Đặt lườn 5 tháng 11, 1942
Hạ thủy 3 tháng 8, 1943
Nhập biên chế 25 tháng 5, 1944
Số phận Bị các tàu chiến Hoa Kỳ đánh chìm phía Đông Thái Bình Dương, 13 tháng 11, 1944
Xóa đăng bạ 10 tháng 8, 1945
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Type A2
Trọng tải choán nước
  • 2.981 tấn (2.934 tấn Anh) (nổi) [1]
  • 4.239 tấn (4.172 tấn Anh) (ngầm) [1]
Chiều dài 113,7 m (373 ft 0 in) chung[1]
Sườn ngang 11,7 m (38 ft 5 in)[1]
Mớn nước 5,89 m (19 ft 4 in)[1]
Công suất lắp đặt
  • 9.400 bhp (7.000 kW) (diesel)[1]
  • 2.400 hp (1.800 kW) (điện)[1]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 22.000 nmi (41.000 km; 25.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi)[1]
  • 75 nmi (139 km; 86 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)
Thủy thủ đoàn 114
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E14Y
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay
Lịch sử phục vụ
Một phần của: Hải đội Tàu ngầm 11[3]
Chỉ huy:
  • Kaneo Kudo[3]
  • 25 tháng 5, 1944 – 13 tháng 11, 1943

Thiết kế và chế tạo

sửa

Thiết kế

sửa

Type A2 là một phiên bản của Type A1 với động cơ diesel công suất yếu hơn nhằm rút ngắn thời gian đóng tàu. I-12 là chiếc duy nhất thuộc phân lớp Type A Cải tiến 1 (Type A2) được hoàn tất, những chiếc tiếp theo được đóng theo thiết kế cải biến như là Type AM. Giống như Type A1 dẫn trước, I-12 được trang bị để hoạt động như soái hạm của hải đội tàu ngầm.[4] Nó có trọng lượng choán nước 2.981 tấn (2.934 tấn Anh) khi nổi và 4.239 tấn (4.172 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 113,7 m (373 ft 0 in), mạn tàu rộng 11,7 m (38 ft 5 in) và mớn nước sâu 5,89 m (19 ft 4 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[4] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 114 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.22 Model 10 công suất 4.700 mã lực phanh (3.505 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.200 mã lực (895 kW).[1] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 17,5 hải lý trên giờ (32,4 km/h; 20,1 mph) và 6,2 hải lý trên giờ (11,5 km/h; 7,1 mph) khi lặn dưới nước,[5] tầm xa hoạt động 22.000 hải lý (41.000 km; 25.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 75 nmi (139 km; 86 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[6]

I-12 có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 18 quả ngư lôi Kiểu 95.[1] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in),[1][2] và hai khẩu pháo phòng không 25 mm Type 96 nòng đôi.[6] Giống như Type A1, hầm chứa máy bay của Type A2 được tích hợp vào tháp chỉ huy và hướng ra phía trước. Máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, trong khi khẩu hải pháo trên boong đặt phía sau. Cách sắp xếp này giúp chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên.[6]

Chế tạo

sửa

I-12 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 620 tại xưởng tàu của hãng KawasakiKobe vào ngày 5 tháng 11, 1942.[3][7] Nó được đổi tên thành I-12 vào ngày 5 tháng 7, 1943,[3][7] rồi được hạ thủy vào ngày 3 tháng 8, 1943,[3][7] rồi hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 25 tháng 5, 1944,[3][7] dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Kaneo Kudo.[3]

Lịch sử hoạt động

sửa

Vào lúc nhập biên chế, I-12 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Yokosuka[7] và được điều động về Hải đội Tàu ngầm 11 trực thuộc Đệ Lục hạm đội.[7] Nó rời Kobe vào ngày 20 tháng 9, thực hành huấn luyện trên đường đi, và đi đến Kure vào ngày 30 tháng 9.[7]

Chuyến tuần tra thứ nhất

sửa

Bị mất

sửa

Vào ngày 13 tháng 11, tàu quét mìn USS Ardent (AM-340)tàu frigate USS Rockford (PF-48) đang hộ tống một đoàn tàu vận tải gồm sáu chiếc đang trên đường từ Honolulu đến San Francisco. Lúc 13 giờ 32 phút, Ardent phát hiện qua sonar một tàu ngầm đang đi ngầm phía trước đoàn tàu.[7][8] Ardent tấn công lúc 12 giờ 41 phút, bắn một loạt 23 đạn súng cối chống ngầm Hedgehog tấn công, rồi đến 12 giờ 46 phút lại bắn một loạt Hedgehog thứ hai[7][8] nhưng đều không trúng mục tiêu.[7] Rockford rời vị trí bảo vệ đoàn tàu để tham gia tấn công, bắn một loạt 13 quả đạn Hedgehog lúc 13 giờ 08 phút; [7] 15 giây sau đó, thủy thủ đoàn lần lượt nghe thấy ba vụ nổ lớn dưới nước, và tiếp nối bằng nhiều vụ nổ nhỏ khác.[7][8] Ardent bắn thêm hai loạt Hedgehog và Rockford thả thêm 13 quả mìn sâu để chắn chắn tiêu diệt được tàu ngầm đối phương.[7][8] Sau khi nghe thấy nhiều vụ nổ nhỏ khác, cả hai chiếc đều mất tín hiệu mục tiêu tại tọa độ 31°55′B 139°45′T / 31,917°B 139,75°T / 31.917; -139.750.[7][8] Họ phát hiện nhiều mảnh vỡ các loại, bọt khí và dầu diesel trồi lên mặt biển, xác nhận tàu ngầm đối phương đã bị phá hủy.[7][8] Cả Ardent lẫn Rockford đều được ghi công đã đánh chìm mục tiêu, có thể là I-12. [7][8]

Đến ngày 16 tháng 11, Bộ tư lệnh Đệ Lục hạm đội ra lệnh cho I-12 quay trở về căn cứ Kure, nhưng chiếc tàu ngầm đã không hồi đáp.[7] Tuy nhiên, do bộ phận tình báo vô tuyến Nhật Bản thu được thông tin một tàu vận tải và một tàu chở dầu Đồng Minh bị đánh chìm giữa Thái Bình Dương từ ngày 20 đến ngày 31 tháng 12,[7] và trông thấy một tàu ngầm Nhật tại khu vực quần đảo Hawaii từ ngày 2 đến ngày 4 tháng 1, 1945, họ tin rằng I-12 vẫn đang hoạt động tuần tra.[7] Đến ngày 31 tháng 1, Hải quân Nhật Bản công bố I-12 có thể đã bị mất giữa Thái Bình Dương[7] với tổn thất toàn bộ 114 thành viên thủy thủ đoàn.[3] Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 8, 1944.[7]

Tham khảo

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Type A2”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ a b c d e f g h “I-12 ex No-620”. ijnsubsite.info. 2018. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
  4. ^ a b Bagnasco (1944), tr. 188.
  5. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  6. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 101.
  7. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (29 tháng 7 năm 2019). “IJN Submarine I-12: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
  8. ^ a b c d e f g Boyd & Yoshida (1995), tr. 209.

Thư mục

sửa
  • Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
  • Boyd, Carl & Yoshida, Akikiko (2002). The Japanese Submarine Force and World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-015-0.
  • Campbell, John (1985). Naval Weapons of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 978-0870214592.
  • Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
  • Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
  • Edwards, Bernard (1997). Blood and Bushido: Japanese Atrocities at Sea 1941–1945. New York: Brick Tower Press. ISBN 1-883283-18-3.
  • Hashimoto, Mochitsura (1954). Sunk: The Story of the Japanese Submarine Fleet 1942 – 1945. Colegrave, E.H.M. (translator). London: Cassell and Company. ASIN B000QSM3L0.
  • Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN 978-1-84603-090-1.

Liên kết ngoài

sửa