Let Go (album của Avril Lavigne)

Let Go là album phòng thu đầu tay của nghệ sĩ thu âm người Canada Avril Lavigne, phát hành ngày 4 tháng 6 năm 2002 bởi Arista Records. Trong suốt một năm sau khi ký hợp đồng với hãng đĩa, Lavigne đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm ra định hướng âm nhạc cho bản thân. Sau đó, Lavigne tái định cư tại Los Angeles, California, nơi cô bắt đầu thu âm những bài hát đầu tiên cho album; tuy nhiên thể loại âm nhạc mà cô định hướng lúc bấy giờ lại không nhận được sự chấp thuận từ Arista. Sau đó, Lavigne đã hợp tác với đội sản xuất The Matrix, những người đã hiểu được tầm nhìn của cô cho album đầu tay.

Let Go
Album phòng thu của Avril Lavigne
Phát hành4 tháng 6 năm 2002
Thu âmTháng 5, 2001 – Tháng 3, 2002
Thể loại
Thời lượng48:41
Hãng đĩaArista
Sản xuất
Thứ tự album của Avril Lavigne
Let Go
(2002)
Under My Skin
(2004)
Đĩa đơn từ Let Go
  1. "Complicated"
    Phát hành: 14 tháng 5 năm 2002 (2002-05-14)
  2. "Sk8er Boi"
    Phát hành: 27 tháng 8 năm 2002 (2002-08-27)
  3. "I'm with You"
    Phát hành: 19 tháng 11 năm 2002 (2002-11-19)
  4. "Losing Grip"
    Phát hành: 1 tháng 4 năm 2003 (2003-04-01)

Sau khi phát hành, Let Go được ghi nhận là album nhạc pop đầu tay thành công nhất năm 2002. Nó đa phần nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, mặc dù quá trình sáng tác của Lavigne đã vấp phải nhiều ý kiến trái chiều. Với thành công của album, Lavigne đã nhận được tám đề cử giải Grammy xuyên suốt hai năm 2003 và 2004, bao gồm Nghệ sĩ mới xuất sắc nhấtAlbum giọng pop xuất sắc nhất. Về mặt thương mại, album đứng đầu các bảng xếp hạng ở nhiều quốc gia, bao gồm Úc, Canada, New Zealand và Vương quốc Anh, nơi cô trở thành nữ nghệ sĩ hát đơn trẻ nhất có một album đạt vị trí quán quân. Ngoài ra, nó cũng lọt vào top 5 ở Đức, Italia, Hà Lan, Na Uy và Hoa Kỳ, cũng như xuất hiện trong top 10 ở hầu hết những quốc gia nó xuất hiện. Tính đến nay, Let Go đã bán được hơn 20 triệu bản trên toàn thế giới,[1] trở thành album bán chạy nhất trong sự nghiệp của Lavigne.[2]

Bốn đĩa đơn đã được phát hành từ album, trong đó đĩa đơn đầu tiên "Complicated" đã trở thành một bản hit toàn cầu, đứng đầu nhiều bảng xếp hạng trên thế giới và đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100. Hai đĩa đơn tiếp theo, "Sk8er Boi" và "I'm with You" đều lọt vào top 10 ở Hoa Kỳ cũng như nhiều thị trường lớn khác. Tuy nhiên, đĩa đơn cuồi cùng, "Losing Grip" chỉ gặt hái một số thành công ít ỏi trên các bảng xếp hạng. Hai đĩa đơn "Complicated" và "I'm with You" đã liên tục gặt hái những đề cử giải Grammy cho Bài hát của nămTrình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất, trong khi "Sk8er Boi" và "Losing Grip" cũng nhận được đề cử ở hạng mục Trình diễn giọng rock nữ xuất sắc nhất. Để quảng bá cho Let Go, Lavigne bắt tay thực hiện chuyến lưu diễn đầu tay Try To Shut Me Up Tour vào năm 2003.

Phát hành và quảng báSửa đổi

 
Avril Lavigne trong một buổi biểu diễn quảng bá cho album.

Album được phát hành vào ngày 4 tháng 6 năm 2002 tại Canada và Mỹ. Sau đó, vào ngày 22 tháng 7, Let Go được phát hành trên toàn thế giới, và đến ngày 26 tháng 8 album mới được phát hành tại một số nước châu Âu, trong đó có Anh và Ireland. Phiên bản DataPlay của album được phát hành trong tháng 9 năm 2002. Arista đã thành lập một thỏa thuận với DataPlay trước đó vào năm 2002, bao gồm Let Go cùng với một số album của ca sĩ nhạc rock Santana và ca sĩ Whitney Houston trong việc phát hành.[3]

Mặc dù âm nhạc của Lavigne đã được hướng mục tiêu đến các khán giả thanh thiếu niên, một chiến lược tiếp thị nhằm vào sự thành công trong sự nghiệp của cô đã được triển khai;[4] Lavigne đã biểu diễn trong một chương trình ngày lễ do đài phát thanh tài trợ cho nhiều ca sĩ trên khắp nước Mỹ,[5] chiến lược tiếp thị này có thể đem lại doanh thu cao hơn cho album trong cả quý. Cô bắt tay vào thực hiện chuyến lưu diễn diễn quảng bá đầu tiên của mình, Try To Shut Me Up Tour, bắt đầu vào ngày 23 tháng 1 năm 2003 và kết thúc vào ngày 4 tháng 6 năm 2003. Đi lưu diễn cùng với Lavigne là ban nhạc của cô - tay trống Matthew Brann, tay bass Mark Spicoluk, và hai tay guitar Jesse Colburn và Evan Taubenfeld - nhóm nhạc mà cô đã tập hợp lại sau khi ký hợp đồng với Arista.[6] Trong chuyến lưu diễn, cô biểu diến tất cả các bài hát trong Let Go, các bài hát ở mặt B, phiên bản hát lại của "Knockin' on Heaven's Door" bởi Bob Dylan và "Basket Case" bởi Green Day.[7]

Lavigne đã quay phim lại buổi biểu diễn của cô tại Buffalo, New York vào ngày 15 tháng 5 năm 2003, buổi biểu diễn cuối cùng trong chuyến lưu diễn năm tuần của cô ở Bắc Mỹ. DVD của buổi biểu diễn này, My World, được phát hành vào ngày 4 tháng 11 năm 2003, với sự liên doanh giữa Arista Records và 20th Century Fox Home Entertainment. DVD bao gồm toàn bộ buổi biểu diễn, một số cảnh hậu trường, năm video âm nhạc và một CD đính kèm với sáu bài hát trong đó có một bài hát chưa từng được phát hành trước đó, "Why".[8]

Đĩa đơnSửa đổi

  • "Complicated" được phát hành bởi Arista với vai trò là đĩa đơn đầu tiên của album, và đồng thời cũng là một lời tự giới thiệu của Lavigne đối với tất cả mọi người ở mọi nhóm tuổi.[9] Video âm nhạc cho đĩa đơn này có cảnh Lavigne và ban nhạc của mình quậy phá trong một trung tâm mua sắm. "Complicated" là một bài hát nổi tiếng, đạt được vị trí quán quân trên bảng xếp hạng của nhiều quốc gia trên toàn thế giới, đồng thời được đề cử hai Giải Grammy cho hạng mục Bài hát của NămTrình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất.
  • "Sk8er Boi", đĩa đơn tiếp theo của album lại thiên về thể loại nhạc pop-punk.[9] Sự phát hành của "Sk8er Boi" đã tạo ra nhiều sự bất đồng ý kiến giữa các giám đốc đài phát thanh. Tuy nhiên, ấn tượng ban đầu của họ đã thay đổi khi các thính giả đã giúp thay đổi suy nghĩ của họ. Đĩa đơn đã nhanh chóng chứng minh sự thành công của nó, cho thấy nó phù hợp với những thính giả hậu-sinh viên cũng như lứa tuổi thanh thiếu niên, và nhờ đó nhanh chóng đạt được ngôi vị quán quân trên đài phát thanh mainstream của Mỹ.[10]
  • "I'm with You", bản ballad hiếm hoi trong albumđược phát hành vào cuối tháng 11 năm 2002, hướng vào ngày nghỉ lễ để nhắc nhở các bậc cha mẹ về album để, nếu họ không tự mua nó, thì cũng mua nó cho những đứa trẻ trong gia đình mình.[9][10] "I'm with You" nhanh chóng trở thành một bài hát nổi tiếng khác của Lavigne khi đạt được vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, vị trí quán quân trên đài mainstream, top 10 ở Anh và Canada. Bài hát không được phát hành chính thức ở Úc nhưng đã được phát sóng trên đài phát thanh và truyền hình. Bài hát đồng thời cũng nhận được hai đề cử Giải Grammy ở cùng hạng mục giống như "Complicated". Việc sắp xếp các đĩa đơn, với việc "I'm With You" làm đĩa đơn thứ ba được coi là một "sự lựa chọn gây tranh cãi", rằng "I'm With You" "theo suy nghĩ của nhiều người là một bài hát có tiềm năng lớn nhất trong album", và có thể đã giúp cho Lavigne trở thành một nghệ sĩ trưởng thành hơn nếu nó được phát hành đầu tiên.[10] Theo như Reid, "Một số người đã không thực sự nhận ra được điều đó. Và với video đầu tiên, đã có một số lo ngại cho rằng có lẽ vì nó quá trẻ con và tinh nghịch, nó có thể xa lánh những người yêu nhạc khó tính".[10]
  • "Losing Grip" được chọn làm đĩa đơn thứ tư từ album, "như để bắc cầu sang album phòng thu tiếp theo của cô", mà Lavigne tuyên bố là sẽ "nặng rock hơn" album đầu tay.[10] Tuy nhiên, đây lại là đĩa đơn kém thành công nhất của album.

Những bài hát khácSửa đổi

Một số bài hát khác trong album đã được phát hành với vai trò là các đĩa đơn trên đài phát thanh địa phương. "Mobile" thì được phát hành trên đài phát hành của Úc và New Zealand. Sau đó bài hát lại được xuất hiện trong bộ phim The Medallion năm 2003, trong bộ phim Wimbledon năm 2004, và một xuất hiện ngắn ngủi trong bộ phim Just Married. Năm 2011, một video âm nhạc của bài hát đã được tuồn lên mạng.

Ngoài ra "Things I'll Never Say" được phát hành trên đài phát thanh của Ý. "Unwanted" được phát thành trên đài phát thanh Anh. Còn bài hát "Tomorrow" thì lại được xuất hiện trong một tập phim của bộ phim truyền hình Smallville mùa thứ hai của hãng Warner Bros..

Danh sách bài hátSửa đổi

STTTựa đềSáng tácSản xuất[11]Thời lượng
1."Losing Grip"Avril Lavigne, Clif MagnessMagness3:53
2."Complicated"Lavigne, The MatrixThe Matrix4:03
3."Sk8er Boi"Lavigne, The MatrixThe Matrix3:23
4."I'm with You"Lavigne, The MatrixThe Matrix3:42
5."Mobile"Lavigne, MagnessMagness3:31
6."Unwanted"Lavigne, MagnessMagness3:40
7."Tomorrow"Lavigne, Curtis Frasca, Sabelle BreerFrasca, Breer*3:48
8."Anything But Ordinary"Lavigne, The MatrixThe Matrix4:10
9."Things I'll Never Say"Lavigne, The MatrixThe Matrix3:43
10."My World"Lavigne, MagnessMagness3:26
11."Nobody's Fool"Lavigne, Peter ZizzoZizzo3:56
12."Too Much to Ask"Lavigne, MagnessMagness3:44
13."Naked"Lavigne, Frasca, BreerMagness, Frasca, Breer*3:28
Track bổ sung tại Nhật
STTTựa đềSáng tácThời lượng
14."Why"Avril Lavigne, Peter Zizzo3:59

(*) Hỗ trợ sản xuất

Xếp hạngSửa đổi

Thành công trên các bảng xếp hạngSửa đổi

Tiền nhiệm:
Escapology của Robbie Williams
Album quán quân Liên hiệp Anh
11 tháng 1 năm 2003 – 31 tháng 1 năm 2003
Kế nhiệm:
Justified của Justin Timberlake
Tiền nhiệm:
The Last Time của John Farnham
Album quán quân ARIA Albums Chart
9 tháng 12 năm 2002 – 26 tháng 1 năm 2003
Kế nhiệm:
8 Mile (nhạc phim) của Nhiều nghệ sĩ

Chứng nhậnSửa đổi

Quốc gia Chứng nhận Doanh số
Argentina (CAPIF)[74] 2× Bạch kim 80.000^
Úc (ARIA)[75] 7× Bạch kim 490.000^
Áo (IFPI Austria)[76] Bạch kim 40,000*
Bỉ (BEA)[77] Vàng 25,000*
Brasil (Pro-Música Brasil)[78] 2× Bạch kim 250,000*
Canada (Music Canada)[79] Kim cương 1.000.000^
Đan Mạch (IFPI Danmark)[80] Bạch kim 40,000^
Phần Lan (Musiikkituottajat)[81] Vàng 16,256[81]
Pháp (SNEP)[83] 2× Vàng 373,800[82]*
Đức (BVMI)[84] 3× Vàng 450,000^
Hy Lạp (IFPI Greece)[85] Vàng 10.000^
Hồng Kông (IFPI Hong Kong)[86] Bạch kim 20.000*
Hungary (Mahasz)[87] Vàng 10.000^
Ireland (IRMA)[88] 8× Bạch kim 120.000^
Ý (FIMI)[89] Kim cương 500.000*
Nhật Bản (RIAJ)[90] Kim cương 1,500,000[91]
México (AMPROFON)[92] Vàng 75.000^
Hà Lan (NVPI)[93] Bạch kim 80.000^
New Zealand (RMNZ)[94] 5× Bạch kim 75.000^
Na Uy (IFPI)[95] Bạch kim 30,000*
Ba Lan (ZPAV)[96] Vàng 35.000*
Bồ Đào Nha (AFP)[97] Bạch kim 40.000^
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[98] Bạch kim 100.000^
Thụy Điển (GLF)[99] Bạch kim 40,000^
Thụy Sĩ (IFPI)[100] 2× Bạch kim 80,000^
Taiwan (RIT)[101] 5× Bạch kim 150,000 
Anh (BPI)[102] 5× Bạch kim 1,785,000^
Hoa Kỳ (RIAA)[104] 6× Bạch kim 6,900,000[103]
Tổng hợp
Châu Âu (IFPI)[105] 2× Bạch kim 2.000.000*

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Giải thưởng và đề cửSửa đổi

Năm Giải thưởng Hạng mục Kết quả
2002 Giải thưởng âm nhạc Billboard Album xuất sắc nhất Đề cử
2003 Giải thưởng Juno Album nhạc Pop xuất sắc nhất Đoạt giải
Album xuất sắc nhất năm Đoạt giải
Giải thưởng Đĩa vàng (Hồng Kông) 10 Album xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải thưởng Đĩa vàng (Nhật Bản) Album Rock & Pop của năm Đoạt giải
Giải thưởng âm nhạc Brasil Album xuất sắc nhất Đoạt giải
Giải Sự lựa chọn của Giới trẻ Lựa chọn Âm nhạc: Album Đoạt giải
Premios Oye! Main English Female Đoạt giải
Giải Grammy Album giọng pop xuất sắc nhất Đề cử

Tham khảoSửa đổi

  1. ^ “The Official Avril Lavigne Site”. http://www.avrillavigne.com/us/bio. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp); |url= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  2. ^ “Avril Lavigne Ends North American Run of Shows with Two Dates In Washington Beginning May 9”. transworldnews.com. ngày 4 tháng 5 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2008.
  3. ^ Brian, Garrit (ngày 5 tháng 8 năm 2002). “Santana, Whitney, Lavigne Head To DataPlay”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2009.[liên kết hỏng]
  4. ^ Eliscu, Jenny (ngày 20 tháng 3 năm 2003). “Little Miss Can't Be Wrong”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2009.
  5. ^ Carpenter, Troy (ngày 4 tháng 12 năm 2002). “Avril's First Headlining Trek To Begin In Europe”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2009.[liên kết hỏng]
  6. ^ SuChin Pak & D'Angelo, Joe. “Avril Lavigne: The Real Deal”. MTV. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2009.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  7. ^ Benson, John (ngày 1 tháng 5 năm 2003). “Avril Lavigne / ngày 15 tháng 4 năm 2003 / Cleveland (CSU Convocation Center)”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2009.[liên kết hỏng]
  8. ^ Brett Sporich; The Hollywood Reporter; Carpenter, Troy (ngày 18 tháng 9 năm 2003). “Fox/Arista Prep Avril, Neptunes DVDs”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2009.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)[liên kết hỏng]
  9. ^ a b c Willman, Chris (ngày 1 tháng 11 năm 2002). “Avril Lavigne The Anti-Britney”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2009.
  10. ^ a b c d e Willman, Chris (ngày 5 tháng 11 năm 2002). 'Boi,' Oh Boy”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2009.
  11. ^ a b “Avril Lavigne – Let Go”. Discogs. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2010.
  12. ^ "Australiancharts.com – Avril Lavigne – Let Go". Hung Medien.
  13. ^ "Austriancharts.at – Avril Lavigne – Let Go" (bằng tiếng Đức). Hung Medien.
  14. ^ "Ultratop.be – Avril Lavigne – Let Go" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien.
  15. ^ "Ultratop.be – Avril Lavigne – Let Go" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien.
  16. ^ "Avril Lavigne Chart History (Canadian Albums)". Billboard.
  17. ^ "Danishcharts.dk – Avril Lavigne – Let Go". Hung Medien.
  18. ^ “Hits of the World” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  19. ^ "Dutchcharts.nl – Avril Lavigne – Let Go" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien.
  20. ^ "Avril Lavigne: Let Go" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland.
  21. ^ "Lescharts.com – Avril Lavigne – Let Go". Hung Medien.
  22. ^ “Avril Lavigne - Offizielle Deutsche Charts” (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  23. ^ “Greek Albums Chart”. IFPI Greece. ngày 8 tháng 6 năm 2003. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2014.
  24. ^ "Album Top 40 slágerlista – 2003. 6. hét" (bằng tiếng Hungaria). MAHASZ. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2014.
  25. ^ "GFK Chart-Track Albums: Week 3, 2003". Chart-Track. IRMA.
  26. ^ "Italiancharts.com – Avril Lavigne – Let Go". Hung Medien.
  27. ^ “Hits of the World” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2017.
  28. ^ "Charts.nz – Avril Lavigne – Let Go". Hung Medien.
  29. ^ "Norwegiancharts.com – Avril Lavigne – Let Go". Hung Medien.
  30. ^ "Portuguesecharts.com – Avril Lavigne – Let Go". Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  31. ^ 4 tháng 1 năm 2003/40/ "Official Scottish Albums Chart Top 100". Official Charts Company.
  32. ^ "Swedishcharts.com – Avril Lavigne – Let Go". Hung Medien.
  33. ^ "Swisscharts.com – Avril Lavigne – Let Go". Hung Medien.
  34. ^ "Avril Lavigne | Artist | Official Charts". UK Albums Chart.
  35. ^ "Avril Lavigne Chart History (Billboard 200)". Billboard.
  36. ^ “ARIA Chart Sales – ARIA End of Decade Albums/Top 100” (PDF). ARIA Charts. Bản gốc (PDF) lưu trữ 17 Tháng 1 2016. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2010. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archive-date= (trợ giúp)
  37. ^ “The Noughties' Official UK Albums Chart Top 100”. Music Week. London, England: United Business Media: 19. ngày 30 tháng 1 năm 2010.
  38. ^ “2009: The Year in Music” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  39. ^ “Greatest of All Time: Billboard Top 200 Albums”. Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2015.
  40. ^ “ARIA Charts - End Of Year Charts - Top 100 Albums 2002”. ARIA. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  41. ^ “Austriancharts.at – Jahreshitparade 2002”. Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  42. ^ “Jaaroverzichten 2002” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  43. ^ “Rapports annueles 2002” (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  44. ^ “TOP20.dk © 2002”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  45. ^ “Jaaroverzichten - Album 2002” (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  46. ^ “Myydyimmät ulkomaiset albumit vuonna 2002” (bằng tiếng Phần Lan). YLE. IFPI Finland. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  47. ^ “Classement Albums - année 2002” (bằng tiếng Pháp). SNEP. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2015.
  48. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts 2002” (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  49. ^ a b “Irish Albums Charts”. Irish Recorded Music Association. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2017.
  50. ^ “Gli album più venduti del 2002”. Hit Parade Italia. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  51. ^ “2002年 アルバム年間TOP100” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  52. ^ “Top Selling Albums of 2002”. RIANZ. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  53. ^ “Årslista Album – År 2002” (bằng tiếng Thụy Điển). Swedish Recording Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  54. ^ “Swiss Year-end Charts 2002”. Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  55. ^ “End of Year Album Chart Top 100 - 2002”. OCC. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  56. ^ “2002: The Year in Music” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  57. ^ “Top 50 Global Best Selling Albums for 2002” (PDF). International Federation of the Phonographic Industry. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2017.
  58. ^ “ARIA Charts - End Of Year Charts - Top 100 Albums 2003”. ARIA. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  59. ^ “Austriancharts.at – Jahreshitparade 2003”. Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  60. ^ “Jaaroverzichten 2003” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  61. ^ “Rapports annueles 2003” (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  62. ^ “TOP20.dk © 2003”. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  63. ^ “Jaaroverzichten - Album 2003” (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  64. ^ a b “2003: The Year in Music” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  65. ^ “Classement Albums - année 2003” (bằng tiếng Pháp). SNEP. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2015.
  66. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts 2003” (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  67. ^ “Archívum Éves összesített listák 2003” (bằng tiếng Hungary). Magyar Hangfelvétel-kiadók Szövetsége. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2013.
  68. ^ “2003年 アルバム年間TOP100” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  69. ^ “Top Selling Albums of 2003”. RIANZ. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  70. ^ “Årslista Album – År 2003” (bằng tiếng Thụy Điển). Swedish Recording Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  71. ^ “Swiss Year-end Charts 2003”. Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  72. ^ “End of Year Album Chart Top 100 - 2003”. OCC. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  73. ^ “Top 50 Global Best Selling Albums for 2003” (PDF). International Federation of the Phonographic Industry. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2017.
  74. ^ “Argentina album certifications – Avril Lavigne – Let Go”. Argentine Chamber of Phonograms and Videograms Producers.
  75. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2003 Albums” (PDF). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  76. ^ “Austrian album certifications – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Nhập Avril Lavigne vào ô Interpret (Tìm kiếm). Nhập Let Go vào ô Titel (Tựa đề). Chọn album trong khung Format (Định dạng). Nhấn Suchen (Tìm)
  77. ^ “Ultratop − Goud en Platina – 2003”. Ultratop & Hung Medien / hitparade.ch.
  78. ^ “Brasil album certifications – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Associação Brasileira dos Produtores de Discos.
  79. ^ “Canada album certifications – Avril Lavigne – Let Go”. Music Canada.
  80. ^ “Denmark album certifications – Avril Lavigne – Let Go”. IFPI Đan Mạch.
  81. ^ a b “Finland album certifications – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland.
  82. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2016.
  83. ^ “France album certifications – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Pháp). Syndicat national de l'édition phonographique.
  84. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Avril Lavigne; 'Let Go')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie.
  85. ^ “Greek album certifications – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Hy Lạp). IFPI Greece.
  86. ^ “IFPIHK Gold Disc Award − 2003”. IFPI Hồng Kông. |url= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  87. ^ “Adatbázis – Arany- és platinalemezek – 2003” (bằng tiếng Hungary). Mahasz.
  88. ^ “Ireland album certifications – Avril Lavigne – Let Go”. Irish Recorded Music Association.
  89. ^ “Italy album certifications – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Ý). Liên đoàn Công nghiệp âm nhạc Ý. Chọn "2003" trong bảng chọn "Anno". Nhập "Let Go" vào ô "Filtra". Chọn "Album e Compilation" dưới phần "Sezione".
  90. ^ “Japanese album certifications – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Nhật). Recording Industry Association of Japan.
  91. ^ McClure, Steve (ngày 9 tháng 8 năm 2003). “Japan Decline Continues”. Billboard. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2013.
  92. ^ “Certificaciones – Avril Lavigne” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas.
  93. ^ “Netherlands album certifications – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Hà Lan). Nederlandse Vereniging van Producenten en Importeurs van beeld - en geluidsdragers.
  94. ^ “New Zealand album certifications – Avril Lavigne – Let Go”. Recorded Music NZ.
  95. ^ “Norway album certifications – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Na Uy). IFPI Na Uy.
  96. ^ “Poland album certifications – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Ba Lan). ZPAV.
  97. ^ “Portugal album certifications – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Associação Fonográfica Portuguesa.
  98. ^ “Spain album certifications – Avril Lavigne – Let Go” (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Chọn lệnh album trong tab "All", chọn năm cấp chứng nhận trong tab "Year". Chọn tuần cấp chứng nhận trong tab "Semana". Nháy chuột vào nút "Search Charts".
  99. ^ “Guld- och Platinacertifikat − År 2003” (PDF) (bằng tiếng Thụy Điển). IFPI Thụy Điển.
  100. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Awards (Avril Lavigne; 'Let Go')”. IFPI Switzerland. Hung Medien.
  101. ^ “Taiwanese album certifications – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Trung). RIT. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2013.
  102. ^ “Britain album certifications – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Chọn albums trong bảng chọn Format. Chọn Multi-Platinum trong nhóm lệnh Certification. Nhập Let Go vào khung "Search BPI Awards" rồi nhấn Enter
  103. ^ Trust, Gary (ngày 6 tháng 9 năm 2015). “Ask Billboard: Avril Lavigne's Best-Selling Songs & Albums”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2015.
  104. ^ “American album certifications – Avril Lavigne – Let Go” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Nếu cần, nhấn Advanced Search, dưới mục Format chọn Album rồi nhấn Search
  105. ^ “IFPI Platinum Europe Awards – 2003”. Liên đoàn Công nghiệp ghi âm quốc tế.

Liên kết ngoàiSửa đổi