HMS Balfour (K464) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc USS McAnn (DE-73), một tàu hộ tống khu trục lớp Buckley, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Tên nó được đặt theo George Balfour, hạm trưởng chỉ huy chiếc tàu chiến tuyến HMS Conqueror (1773) và đã từng tham gia cuộc Chiến tranh Độc lập Hoa Kỳ.[1][2][3] Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu, hoàn trả cho Hoa Kỳ năm 1945, và cuối cùng bị bán vào năm 1946.

Tàu frigate HMS Balfour (K464), ngày 11 tháng 8 năm 1944
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi DE-73
Đặt hàng 1942
Xưởng đóng tàu Bethlehem-Hingham Steel Shipyard, Hingham, Massachusetts
Đặt lườn 19 tháng 4, 1943
Hạ thủy 10 tháng 7, 1943
Ngừng hoạt động Chuyển giao cho Anh Quốc, 10 tháng 6, 1943
Đổi tên McAnn, 18 tháng 5, 1943
Xóa đăng bạ 5 tháng 12, 1945
Tái đăng bạ Được Anh hoàn trả, 25 tháng 10, 1945
Số phận Bán cho Học viện Hàng hải New York, 28 tháng 10, 1946
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Balfour (K464)
Đặt tên theo George Balfour
Nhập biên chế 17 tháng 10, 1943
Số phận Hoàn trả cho Hoa Kỳ, 25 tháng 10, 1945
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Phân lớp Buckley
Trọng tải choán nước
  • 1.400 tấn Anh (1.422 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.740 tấn Anh (1.768 t) (đầy tải)
Chiều dài 306 ft (93 m)
Sườn ngang 37 ft (11 m)
Mớn nước
  • 9 ft 6 in (2,90 m) (tiêu chuẩn)
  • 11 ft 3 in (3,43 m) (đầy tải)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước Foster-Wheeler kiểu Express "D"
  • 2 × turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp)
  • 2 × động cơ điện công suất trục 12.000 shp (8,9 MW)
  • 2 × chân vịt ba cánh mangan-đồng nguyên khối đường kính 8 ft 6 in (2,59 m)
Tốc độ 23 hải lý trên giờ (43 km/h; 26 mph)
Tầm xa
  • 3.700 nmi (6.900 km) ở tốc độ 15 kn (28 km/h; 17 mph)
  • 6.000 nmi (11.000 km) ở tốc độ 12 kn (22 km/h; 14 mph)
Sức chứa 350 tấn dầu đốt
Thủy thủ đoàn tối đa 15 sĩ quan, 198 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar dò tìm mặt biển Kiểu SL trên cột ăn-ten
  • Radar dò tìm không trung Kiểu SA (chỉ trên một số chiếc)
  • Sonar Kiểu 128D hay Kiểu 144 trong vòm thu vào được.
  • Ăn-ten định vị MF trước cầu tàu
  • Ăn-ten định vị cao tần Kiểu FH 4 trên đỉnh cột ăn-ten chính
Vũ khí

Thiết kế và chế tạo sửa

Buckley là một trong số sáu lớp tàu hộ tống khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo nhằm đáp ứng nhu cầu hộ tống vận tải trong Thế Chiến II, sau khi Hoa Kỳ chính thức tham chiến vào cuối năm 1941. Chúng hầu như tương tự nhau, chỉ với những khác biệt về hệ thống động lực và vũ khí trang bị. Động cơ của phân lớp Backley bao gồm hai turbine hơi nước General Electric để dẫn động hai máy phát điện vận hành hai trục chân vịt, và dàn vũ khí chính bao gồm 3 khẩu pháo pháo 3 in (76 mm)/50 cal.[4][5]

Những chiếc phân lớp Buckley (TE) có chiều dài ở mực nước 300 ft (91 m) và chiều dài chung 306 ft (93 m); mạn tàu rộng 37 ft 1 in (11,30 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 11 ft 3 in (3,43 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.430 tấn Anh (1.450 t); và lên đến 1.823 tấn Anh (1.852 t) khi đầy tải.[6] Hệ thống động lực bao gồm hai nồi hơi và hai turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp) để vận hành hai trục chân vịt; [4][5] công suất 12.000 hp (8.900 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 23 kn (26 mph; 43 km/h). Con tàu mang theo 359 tấn Anh (365 t) dầu đốt, cho phép di chuyển đến 6.000 nmi (6.900 mi; 11.000 km) ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[6]

Vũ khí trang bị bao gồm pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên ba tháp pháo nòng đơn đa dụng (có thể đối hạm hoặc phòng không), gồm hai khẩu phía mũi và một khẩu phía đuôi. Vũ khí phòng không tầm gần bao gồm hai pháo Bofors 40 mm và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Con tàu có ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm). Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và bốn máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[6][7] Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 200 sĩ quan và thủy thủ.[6]

Con tàu được đặt lườn như là chiếc DE-73 tại xưởng tàu của hãng Bethlehem-Hingham Steel ShipyardHingham, Massachusetts vào ngày 19 tháng 4, 1943,[8][9][10] được đặt tên McAnn vào ngày 18 tháng 5, 1943[2] và được hạ thủy vào ngày 10 tháng 7, 1943.[2][9] Tuy nhiên trước đó nó đã được chuyển giao cho Anh Quốc vào ngày 10 tháng 6, 1943,[2][Note 1] và nhập biên chế cùng Hải quân Anh như là chiếc HMS Balfour (K464) vào ngày 7 tháng 10, 1943[8][2][9] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Cecil Dick Bluett Coventry.[10]

Lịch sử hoạt động sửa

Vào tháng 2, 1944, Balfour gia nhập Đội hỗ trợ 1 và đảm nhiệm hộ tống các đoàn tàu vận tải tại khu vực phía Tây Ireland.[11] Đến tháng 6, nó được điều sang Đội hộ tống 1 và cùng đơn vị này tham gia vào cuộc đổ bộ Normandy, là một trong số sáu đội hộ tống hình thành nên màn chắn khoảng 130 mi (210 km) về phía Tây Lands End, nhằm ngăn chặn tàu ngầm U-boat Đức xâm nhập từ các căn cứ trên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp can thiệp vào cuộc đổ bộ.[12][13]

Các đội hộ tống sau đó di chuyển đến khu vực eo biển Manche, và đến ngày 25 tháng 6, Đội hộ tống 1 đã truy lùng tại khu vực phía Đông Nam Torquay một tàu ngầm U-boat đối phương vốn đã phóng ngư lôi nhắm vào chiếc Goodson (K480), gây hư hại nặng cho chiếc tàu frigate. Balfour đã bắt được tín hiệu sonar của mục tiêu, và tấn công bằng súng cối chống tàu ngầm Hedgehog, đưa đến nhiều vụ nổ dưới nước và một vệt dầu loang lớn. Sau đó nó cùng tàu chị em Affleck (K462) tiếp tục tấn công mục tiêu bằng mìn sâu. Vào lúc đó, BalfourAffleck được ghi công đã đánh chìm được tàu ngầm U-boat U-1191.[14][15]

Tuy nhiên sau này Bộ Hải quân Anh rút lại quyết định này, cho rằng nguyên nhân chiếc tàu ngầm đối phương bị mất chưa được xác định.[15] Các nguồn khác cho rằng hai chiếc tàu frigate đã tấn công nhầm vào xác tàu đắm của chiếc U-269 vốn đã bị đánh chìm cùng ngày trước đó, trong khi U-1191 chỉ thật sự bị đánh chìm sau đó tại eo biển Manche bởi Onslaught (G04), Oribi (G66), Brissenden (L79), Wensleydale (L86), Talybont (L18)Seymour (K563) vào ngày 3 tháng 7.[16]

Đến xế trưa ngày 18 tháng 7, Balfour tấn công tàu ngầm U-boat U-672 bằng mìn sâu.[17][Note 2] Cho dù U-672 sống sót qua đợt tấn công, nó bị hư hại nặng đến mức phải nổi lên mặt nước vào ngày 19 tháng 7, và bị sĩ quan chỉ huy đánh chìm. Toàn bộ 52 thành viên thủy thủ đoàn đều sống sót và được cứu vớt, trở thành tù binh chiến tranh cho đến khi cuộc xung đột kết thúc. Hoạt động này xảy ra tại eo biển Manche về phía Bắc Guernsey ở tọa độ 50°03′B 02°30′T / 50,05°B 2,5°T / 50.050; -2.500.[18][19][17][20]

Sang tháng 12, Balfour trở thành soái hạm của Đội hộ tống 18 và hoạt động từ căn cứ Greenock.[21] Đến tháng 3-tháng 4, 1945, nó quay trở lại Đội hộ tống 1 và hoạt động từ căn cứ Portsmouth, đối phó hoạt động của tàu ngầm U-boat đối phương trong khu vực eo biển Manche.[22]

Sau khi chiến tranh chấm dứt tại châu Âu, Balfour quay trở về Hoa Kỳ vào ngày 16 tháng 10, 1945, và được chính thức hoàn trả cho Hải quân Hoa Kỳ tại Xưởng hải quân New York vào ngày 25 tháng 10, 1945, nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Nó giữ lại cái tên USS Balfour, nhưng do dư thừa so với nhu cầu về tàu chiến sau khi chiến tranh đã chấm dứt, nó được cho rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 5 tháng 12, 1945, rồi được bán cho tiểu bang New York với trị giá một Đô la Mỹ vào ngày 28 tháng 10, 1946, nhằm sử dụng cho Học viện Hàng hải New York.[2][9][23]

Tham khảo sửa

Ghi chú sửa

  1. ^ Cái tên USS McAnn sau đó được đặt lại cho chiếc USS McAnn (DE-179), một tàu hộ tống khu trục lớp Cannon
  2. ^ Tác giả Blair cho rằng cuộc tấn công sử dụng súng cối chống tàu ngầm Hedgehog.

Chú thích sửa

  1. ^ Manning & Walker 1959, tr. 97.
  2. ^ a b c d e f Naval Historical Center. Balfour (DE-73). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  3. ^ Tynan, Roy (2003). “HMS Balfour K464 (DE 73)”. Captain Class Frigate Association. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  4. ^ a b Whitley 2000, tr. 309–310.
  5. ^ a b Friedman 1982, tr. 143–144, 146, 148–149.
  6. ^ a b c d Whitley 2000, tr. 151.
  7. ^ Elliott 1977, tr. 259.
  8. ^ a b Whitley 2000, tr. 150.
  9. ^ a b c d Yarnall, Paul R (ngày 22 tháng 10 năm 2013). “McAnn (DE 73)/HMS Balfour (K464)”. NavSource.org. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  10. ^ a b Helgason, Guðmundur. “HMS Balfour (K 464)”. uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  11. ^ Rohwer & Hümmelchen 1992, tr. 263.
  12. ^ Rohwer & Hümmelchen 1992, tr. 283.
  13. ^ Blair 2000, tr. 576.
  14. ^ Kemp 1997, tr. 199.
  15. ^ a b Blair 2000, tr. 590.
  16. ^ Helgason, Guðmundur. “U-1191”. U-boat.net. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2021.
  17. ^ a b Blair 2000, tr. 603.
  18. ^ Helgason, Guðmundur. “U-672”. U-boat.net. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2021.
  19. ^ Kemp 1997, tr. 204.
  20. ^ McCartney 2002.
  21. ^ Rohwer & Hümmelchen 1992, tr. 321.
  22. ^ Rohwer & Hümmelchen 1992, tr. 339.
  23. ^ Friedman 1982, tr. 458.

Thư mục sửa

Liên kết ngoài sửa