HMS Onslaught (G04)

chiến hạm của hải quân Mỹ

HMS Onslaught (G04/D04) là một tàu khu trục lớp O của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nguyên được đặt tên HMS Pathfinder, nó được đổi tên đang khi được chế tạo, và đưa vào hoạt động năm 1941. Sống sót qua cuộc xung đột, nó được chuyển giao cho Pakistan năm 1951, tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Pakistan như là chiếc Tughril, được cải biến thành một tàu frigate nhanh chống tàu ngầm Kiểu 16 năm 1957; ngừng hoạt động năm 1975 và bị tháo dỡ năm 1977.

HMS Onslaught FL17021
Tàu khu trục HMS Onslaught (G04) trong Thế Chiến II
Lịch sử
RN EnsignAnh Quốc
Đặt hàng 3 tháng 9 năm 1939
Xưởng đóng tàu Fairfield Shipbuilding and Engineering Company, Govan, Scotland
Đặt lườn 14 tháng 1 năm 1941
Hạ thủy 9 tháng 10 năm 1941
Nhập biên chế 19 tháng 6 năm 1942
Số phận Chuyển cho Pakistan, 6 tháng 3 năm 1951
Lịch sử
Pakistan
Tên gọi Tughril
Trưng dụng 6 tháng 3 năm 1951
Số phận Tháo dỡ 1977
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu khu trục O
Trọng tải choán nước
  • 1.810 tấn Anh (1.840 t) (tiêu chuẩn)
  • 2.270 tấn Anh (2.310 t) (đầy tải)
Chiều dài 345 ft (105 m)
Sườn ngang 35 ft (11 m)
Mớn nước 9 ft (2,7 m)
Động cơ đẩy
Tốc độ 36,75 hải lý trên giờ (68,06 km/h; 42,29 mph)
Tầm xa 3.850 nmi (7.130 km; 4.430 mi) ở tốc độ 20 hải lý trên giờ (37 km/h; 23 mph)
Thủy thủ đoàn tối đa 176
Vũ khí

Thiết kế và chế tạo sửa

Onslaught được đặt hàng trong Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh cho hãng Fairfield Shipbuilding and Engineering Company tại Govan, Scotland vào ngày 3 tháng 9 năm 1939. Con tàu được đặt lườn vào ngày 14 tháng 1 năm 1941 và hạ thủy vào ngày 9 tháng 10 năm 1941. Con tàu được cộng đồng dân cư Isle of Wight đỡ đầu trong khuôn khổ chiến dịch vận động gây quỹ Tuần lễ Tàu chiến năm 1942. Nó nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia vào ngày 19 tháng 6 năm 1942.

Lịch sử hoạt động sửa

Chiến tranh Thế giới thứ hai sửa

Sau khi nhập biên chế, Onslaught được phân về Chi hạm đội Khu trục 17 trong thành phần Hạm đội Nhà, và tham gia hoạt động hộ tống vận tải trong suốt cuộc chiến tranh, bao gồm các Đoàn tàu Vận tải Bắc Cực, và tham gia Trận Đại Tây Dương.[1] Nó cũng tham gia nhiệm vụ tuần tra trong eo biển Manche vào lúc diễn ra cuộc Đổ bộ Normandy năm 1944.

Sau chiến tranh sửa

Onslaught tiếp tục nằm trong biên chế sau ngày chiến thắng, và đến tháng 9 năm 1945 được bố trí nhiệm vụ huấn luyện tại Trường Tác xạ Portsmouth HMS Excellent. Đến tháng 12, nó được biệt phái để tham gia Chiến dịch Deadlight, hoạt động phá hủy các tàu ngầm U-boat Đức Quốc xã đã đầu hàng tại Khu vực Tiếp cận Tây Bắc. Từ năm 1946 đến năm 1949, nó được sử dụng như một tàu mục tiêu huấn luyện tàu ngầm tại Clyde. Nó được cho ngừng hoạt động vào đầu năm 1950 và đưa vào danh sách loại bỏ; tuy nhiên, nó lại được chuyển giao cho Hải quân Pakistan vào ngày 3 tháng 3 năm 1951 và được đổi thành Tugril.[2]

Phục vụ cùng Hải quân Pakistan sửa

Vào năm 1957, con tàu được cải biến thành một tàu frigate nhanh chống tàu ngầm Kiểu 16 tại Liverpool, và tiếp tục trong danh sách hoạt động cho đến năm 1975.[3] Ký hiệu lườn của nó được đổi từ F204 sang F261 năm 1963. Con tàu bị tháo dỡ năm 1977.

Tham khảo sửa

Chú thích sửa

  1. ^ http://www.naval-history.net/xGM-Chrono-10DD-47O-HMS_Onslaught.htm
  2. ^ Blackman 1963, tr. 195
  3. ^ Critchley 1982, tr. 16

Thư mục sửa

  • Blackman, Raymond V B (1964). Jane's Fighting Ships 1963-64. London, UK: Sampson Low, Marston & Co. Ltd.
  • Critchley, Mike (1982). British Warships Since 1945: Part 3: Destroyers. Liskeard, UK: Maritime Books. ISBN 0-9506323-9-2.
  • Colledge, J. J.; Warlow, Ben (1969). Ships of the Royal Navy: the complete record of all fighting ships of the Royal Navy (Rev. ed.). London: Chatham. ISBN 978-1-86176-281-8. OCLC 67375475.
  • Raven, Alan; John, Roberts (1978). War Built Destroyers O to Z Classes. London: Bivouac Books. ISBN 9780856800108.
  • Whitley, M.J. (1988). Destroyers of World War 2. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-326-1.