I-35 là một tàu ngầm tuần dương lớp Type-B (巡潜乙型潜水艦 Junsen Otsu-gata sensuikan?) được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã từng hoạt động tiếp liệu và triệt thoái lực lượng trong khuôn khổ Chiến dịch quần đảo Aleut, trước khi được điều tham gia phản công trong Chiến dịch quần đảo Gilbert. I-35 bị các tàu khu trục Hoa Kỳ USS MeadeUSS Frazier đánh chìm gần Tarawa vào ngày 23 tháng 11, 1943.

Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm số 148
Xưởng đóng tàu Mitsubishi, Kobe
Đặt lườn 2 tháng 9, 1940
Hạ thủy 24 tháng 9, 1941
Đổi tên I-45, 24 tháng 9, 1941
Đổi tên I-35, 1 tháng 11, 1941
Hoàn thành 31 tháng 8, 1942
Nhập biên chế 31 tháng 8, 1942
Xóa đăng bạ 10 tháng 4, 1944
Số phận Bị các tàu khu trục USS MeadeUSS Frazier đánh chìm gần Tarawa, 23 tháng 11, 1943
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Type B1
Trọng tải choán nước
  • 2.625 tấn (2.584 tấn Anh) (nổi) [1]
  • 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) (ngầm) [1]
Chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in) chung [1]
Sườn ngang 9,3 m (30 ft 6 in)[1]
Mớn nước 5,14 m (16 ft 10 in)[1]
Công suất lắp đặt
  • 12.400 bhp (9.200 kW) (diesel)[1]
  • 2.000 hp (1.500 kW) (điện)[1]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 14.000 nmi (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph) (nổi)[1]
  • 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph)
Độ sâu thử nghiệm 100 m (330 ft)
Thủy thủ đoàn 94
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E14Y
Hệ thống phóng máy bay 1 × máy phóng máy bay

Thiết kế và chế tạo

sửa

Thiết kế

sửa

Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát.[3] Chúng có trọng lượng choán nước 2.631 tấn (2.589 tấn Anh) khi nổi và 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in), mạn tàu rộng 9,3 m (30 ft 6 in) và mớn nước sâu 5,1 m (16 ft 9 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[3] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 94 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Type B1 trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.2 Model 10 công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW).[1] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h; 27,2 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[4] tầm xa hoạt động của Type B1 là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[5]

Những chiếc Type B1 có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 17 quả ngư lôi Kiểu 95.[1] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in),[1][2] và hai pháo phòng không 25 mm Type 96.[5] Hầm chứa máy bay được tích hợp vào tháp chỉ huy và hướng ra phía trước. Máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, trong khi khẩu hải pháo trên boong đặt phía sau. Cách sắp xếp này giúp chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên.[5]

Chế tạo

sửa

I-35 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 148 tại xưởng tàu của hãng MitsubishiKobe vào ngày 2 tháng 9, 1940.[6][7] Nó được đổi tên thành I-45 đồng thời được hạ thủy vào ngày 24 tháng 9, 1940,[6][7] rồi đổi tên thành I-35 vào ngày 1 tháng 11, 1941.[6][7] Con tàu hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 31 tháng 8, 1942,[6][7] dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Hải quân Yamamoto Hideo.[6]

Lịch sử hoạt động

sửa

Ngay khi nhập biên chế, I-35 được phối thuộc cùng Quân khu Hải quân Kure.[6] Nó cùng tàu ngầm chị em I-34tàu tiếp liệu tàu ngầm Santos Maru được điều về Hải đội Tàu ngầm Kure trực thuộc Quân khu Hải quân Kure vào ngày 1 tháng 9,[8] đồng thời đảm nhiệm vai trò soái hạm của Chuẩn đô đốc Tadashige Daigo, Tư lệnh Hải đội Tàu ngầm Kure, cho đến ngày 4 tháng 9, khi nó được chiếc I-34 thay phiên.[7][8] Sau một giai đoạn thực hành huấn luyện, đến ngày 15 tháng 11, I-35 cùng với I-34 được điều động trực thuộc Đệ Ngũ hạm đội,[7][8] rồi khởi hành từ Kure vào ngày 28 tháng 11 và đi đến căn cứ Ōminato ở phía Bắc Honshū ba ngày sau đó.[7][8]

Chiến dịch quần đảo Aleut

sửa

I-35 cùng với I-34 khởi hành từ Ōminato vào ngày 2 tháng 12 cho một chuyến đi vận chuyển hàng tiếp liệu cho lực lượng Nhật Bản đồn trú trên đảo Kiska, thuộc quần đảo Aleut.[7] Sau khi đến nơi và chất dỡ hàng tiếp liệu vào ngày 8 tháng 12,[7] nó hoạt động tuần tra tại khu vực Bắc Thái Bình Dương ở vị trí khoảng 20 nmi (37 km) về phía Nam đảo Amukta.[7] I-35 kết thúc chuyến tuần tra vào ngày 14 tháng 12, và quay trở về căn cứ Paramushiro thuộc quần đảo Kuril vào ngày 20 tháng 12.[7] Nó rời Paramushiro vào ngày 25 tháng 12 cho một chuyến đi tiếp liệu khác đến Kiska,[7] đến nơi và chất dỡ hàng tiếp liệu vào ngày 31 tháng 12,[7] rồi tiếp tục tuần tra trong biển Bering về phía Bắc đảo Adak.[7]

Đến ngày 7 tháng 1, 1943, I-35 được lệnh đi đến khu vực về phía Đông Bắc đảo Attu để truy tìm các tàu tuần dương Hoa Kỳ được nhìn thấy trong khu vực. [7] Không tìm thấy tàu chiến đối phương, nó quay trở lại tuần tra tại khu vực phía Nam Kiska từ ngày 10 tháng 1, ghé đến Kiska trong các ngày 1718 tháng 1, rồi tiếp tục tuần tra về phía Nam Kiska và Amchitka.[7] Vào ngày 23 tháng 1, lúc đang trên đường vận chuyển tiếp liệu đến Kiska, tàu tuần dương hạng nhẹ Kisotàu khu trục Wakaba trông thấy một mục tiêu mà họ cho là một tàu ngầm Hoa Kỳ, nên lo sợ nhiệm vụ của họ đã bị đối phương phát hiện, nên hủy bỏ chuyến đi và quay trở lại căn cứ. Mục tiêu mà họ trông thấy có thể chỉ là I-35.[7] Chiếc tàu ngầm chuyển sang tuần tra khu vực phía Bắc Amchitka vào ngày 30 tháng 1, rồi đến ngày 14 tháng 2 lại ghé đến Kiska để đưa một sĩ quan tham mưu Lực lượng Phòng vệ phía Bắc đến Attu.[7] Nó kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Nhật Bản.[7]

Vào ngày 27 tháng 3, I-35 khởi hành từ Yokosuka để quay trở lại khu vực Bắc Thái Bình Dương, đi đến Paramushiro vào ngày 1 tháng 4,[7] nơi nó được điều sang Đội tàu ngầm 15.[6][7] Nó rời Paramushiro vào ngày 3 tháng 4 cho chuyến đi tiếp liệu thứ ba đồng thời vận chuyển các sĩ quan tham mưu Lực lượng Căn cứ 51 đến Kiska, đến nơi vào ngày 8 tháng 4.[7] Sau khi chất dỡ hàng hóa, nó lên đường ngay trong ngày cho chặng quay trở về, về đến Paramushiro vào ngày 13 tháng 4.[7] Chiếc tàu ngầm rời Paramushiro vào ngày 16 tháng 4 cho một chuyến đi tiếp liệu khác, lần này đi đến đảo Attu,[7] nơi nó chuyển giao tiếp liệu, đạn dược và nhiều sĩ quan Lục quân vào ngày 20 tháng 4;[7] nó về đến Paramushiro vào ngày 24 tháng 4.[7] Chuyến đi tiếp liệu thứ tư đến Kiska diễn ra từ ngày 27 tháng 4 đến ngày 5 tháng 5.[7]

Khi phía Đồng Minh tiến hành Chiến dịch Landcrap nhằm tái chiếm Attu, I-35 lên đường vào ngày 11 tháng 5 để tuần tra ngoài khơi Attu.[7] Vào ngày 13 tháng 5, tàu khu trục Hoa Kỳ USS Phelps, vốn đang hộ tống cho thiết giáp hạm USS Pennsylvania, đã tấn công với hai lượt mìn sâu vào một mục tiêu dò được qua sonar, có thể là I-34 hoặc I-35, tuy nhiên không có tàu ngầm nào bị mất trong sự cố này.[7][8]

Đến sáng ngày 15 tháng 5, trong hoàn cảnh thời tiết sương mù, I-35 phát hiện Pennsylvania đang canh phòng trong khi tàu vận tải tấn công USS J. Franklin Bell đang chất dỡ hàng hóa ngoài khơi khơi vịnh Holtz, Attu.[7] I-35 phóng ngư lôi tấn công một mục tiêu mà nó cho là một tàu tuần dương hạng nhẹ, và nghe thấy hai tiếng nổ.[7] Lúc 11 giờ 40 phút, bốn quả ngư lôi đã sượt qua phía đuôi Pennsylvania và bên cạnh J. Franklin Bell.[7] Hai tàu khu trục đã phản công, thả 58 quả mìn sâu và gây hư hại đáng kể cho chiếc tàu ngầm.[7] Nó ghé đến Paramushiro từ ngày 19 đến ngày 27 tháng 5, rồi lên đường quay trở về Kure, đến nơi vào ngày 2 tháng 6.[7] Chiếc tàu ngầm tiếp tục đi đến Kobe vào ngày 17 tháng 6 để sửa chữa.[7]

Chiến dịch quần đảo Gilbert

sửa

Tham khảo

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s “Type B1”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ a b Bagnasco (1944), tr. 189.
  4. ^ Chesneau (1980), tr. 200.
  5. ^ a b c Carpenter & Polmar (1986), tr. 102.
  6. ^ a b c d e f g “I-35 ex I-45 ex No-148”. ijnsubsite.info. 12 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2024.
  7. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag ah ai Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2019). “IJN Submarine I-35: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2024.
  8. ^ a b c d e Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2019). “IJN Submarine I-34: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2024.

Thư mục

sửa

Liên kết ngoài

sửa