Thành viên:Khangdora2809/nháp/Công nhận các cặp cùng giới ở Việt Nam

Lịch sử

sửa

Giai đoạn trước năm 2000

sửa

Việc xác định bản thân là người đồng tính hay các hành vi đồng tính chưa từng bất hợp pháp trong lịch sử Việt Nam.[1][2][3] Luật pháp Việt Nam cũng thường được cho là chịu ảnh hưởng từ Trung Quốc, tuy nhiên, vào năm 1740, khi nhà Thanh xử phạt đối với hành vi giao cấu giữa những người cùng giới – đây là lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc xử phạt hành vi này, nhưng trong bộ luật của nhà Nguyễn sau đó đã không đề cập xử phạt hành vi này. Khi thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam, các vấn đề có liên quan đến quan hệ tình dục cùng giới cũng không được đề cập tương tự.[3] Đến giai đoạn chiến tranh Việt Nam, ở khu vực miền Nam Việt Nam do chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiểm soát, Dân luật 1972 cũng không đề cập đến vấn đề hôn nhân cùng giới.[4] Tương tự ở miền Bắc do chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát, trong Sắc lệnh số 97/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh hay Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 của nước này cũng không đề cập cụ thể đến việc kết hôn giữa những người cùng giới tính.[5][6]

Sau khi Việt Nam thống nhất, Luật Hôn nhân và Gia đình 1959 cũng đã được áp dụng trên cả nước.[7] Cho đến năm 1986, Việt Nam cũng đã thay đổi Luật Hôn nhân và Gia đình mới, tuy nhiên, các vấn đề liên quan đến hôn nhân cùng giới vẫn chưa được đề cập.[8] Trong giai đoạn 1997–1998, nhiều địa phương ở phía Nam của Việt Nam đã xuất hiện việc công khai tổ chức đám cưới cùng giới.[9][10][11] Thậm chí có cặp đôi còn bị ép buộc ký cam kết không chung sống cùng nhau.[10] Một trong số các đám cưới đã có cặp đôi xin giấy phép nhưng đã bị chính quyền địa phương từ chối. Đến tháng 6 năm 1998, vấn đề kết hôn cùng giới được trình ra Quốc hội và Việt Nam chính thức cấm kết hôn cùng giới.[11][12] Sang năm 2000, khi Luật Hôn nhân và Gia đình mới được thông qua, việc cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính tiếp tục được đề cập.[13]

Giai đoạn bị cấm

sửa

Sau khi Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 được thông qua trong kỳ họp thứ 7 Quốc hội Việt Nam khóa X và chính thức có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2001, Việt Nam chính thức cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính.[13] Đồng thời một năm sau đó, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cũng đã liệt kê "đồng tính luyến ái" là một "tệ nạn xã hội".[11] Ngoài ra, luật Bình đẳng giới 2006 được thông qua cũng chỉ đề cập bình đẳng giữa nam và nữ, chứ không áp dụng cho người phi dị giới.[14]

Trước đó, năm 2007, Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường Việt Nam (iSEE) được thành lập với trọng tâm nghiên cứu về nhóm dân tộc thiểu số và cộng đồng LGBT bởi Lê Quang Bình.[15] Một năm sau đó, Viện cũng đã thành lập Nhóm Kết nối và Chia sẻ Thông tin (ICS) để vận động quyền LGBT tại Việt Nam.[16] Tổ chức này sau đó đã được nâng cấp thành Trung tâm ICS.[17] Các tổ chức liên quan đến cộng đồng LGBT như Hội phụ huynh và người thân của LGBT Việt Nam (PFLAG Vietnam) đã được thành lập vào năm 2011.[18] Cũng trong năm 2011, một cuộc hội thảo về quyền của người đồng tính đầu tiên đã được tổ chức tại Việt Nam với chủ đề "Thúc đẩy và bảo vệ Quyền của cộng đồng LGBT" và được đăng tải công khai trên báo Đảng Cộng sản Việt Nam.[19]

Nỗ lực hợp pháp hóa

sửa
 
Châu Á
Hoạt động tình dục cùng giới hợp pháp
  Hôn nhân hợp pháp
  Hôn nhân cùng giới nước ngoài được công nhận
  Kết hợp dân sự
  Sống chung không đăng ký
  Không có sự công nhận của các cặp cùng giới
  Hạn chế về tự do ngôn luận
Hoạt động tình dục cùng giới bất hợp pháp
  Không được thi hành hoặc không rõ ràng
  Hình phạt
  Tù chung thân
  Tử hình

Thập niên 2010

sửa

Năm 2012 là năm đầu tiên VietPride, một ngày hội tự hào của cộng đồng LGBT được diễn ra và tổ chức công khai tại Việt Nam.[20] Cũng trong năm này, một đám cưới đồng tính nữ tại Cà Mau và sau đó một đám cưới đồng tính nam ở Kiên Giang đã trở thành chủ đề gây tranh cãi khi bị chính quyền địa phương cản trở việc tổ chức đám cưới.[21][22] Trước việc này, vào tháng 5, Bộ Tư pháp Việt Nam đã ban hành công văn 3460/BTP–PLDSKT thu thập ý kiến về Luật Hôn nhân và Gia đình 2000, bao gồm việc kết hôn và chung sống giữa những người cùng giới tính trước kỳ họp Quốc hội khóa XIII.[23] Bộ Y tế Việt Nam cũng đã lên tiếng công khai và cho rằng nên hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới. Ngoài ra, Viện Nghiên cứu thanh niên thuộc Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cũng đề xuất việc bổ sung hôn nhân cùng giới vào Luật Hôn nhân và Gia đình bao gồm việc cho phép kết hôn, đảm bảo hôn nhân và gia đình của các cặp đôi này theo quy định của pháp luật và không được can thiệp vào cuộc sống vợ chồng của người đồng tính. Trong khi đó, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam... lại đề xuất việc không nên thừa nhận hôn nhân cùng giới khi Việt Nam chưa xác định được số người đồng tính, không phù hợp với phong tục Việt Nam hay làm "xói mòn giá trị truyền thống".[24][25] Ngoài ra, đại diện Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cũng khẳng định việc kết hôn là phải để "giải quyết nhu cầu sinh lý và nòi giống" và không cần thay đổi luật.[26]

Trước thềm sửa đổi Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã gọi vấn đề hôn nhân cùng giới là một "thực tế xã hội" và "vấn đề toàn cầu". Đồng thời nên đưa vấn đề này vào Luật Hôn nhân và Gia đình để thảo luận. Tuy nhiên, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Giàng Seo Phử lại phản đối việc này do cho rằng nó "chưa phù hợp với truyền thống". Ông khẳng định, cho dù có công nhận thì trong người vẫn thấy "gờn gợn", mặc dù vậy, ông cho rằng vẫn nên đảm bảo quyền lợi cho họ.[27] Ngoài ra, Nguyễn Minh Thuyết – Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng cũng đã cho rằng "tình cảm" và "tâm lý" chính thức là những cản trở lớn nhất trong công cuộc hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới tại Việt Nam chứ không phải do quy định của pháp luật. Ông cũng nói thêm, việc hợp pháp hóa xã hội Việt Nam sẽ chỉ "được" chứ không mất gì.[28][14] Đến tháng 7 năm 2013, Vụ trưởng Vụ Pháp luật dân sự – kinh tế thuộc Bộ Tư pháp Dương Đăng Huệ đã đề xuất việc bãi bỏ quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính trong Luật Hôn nhân và Gia đình 2000, tuy nhiên, sẽ có thêm quy định về việc "Nhà nước không thừa nhận việc kết hôn giữa những người cùng giới tính". Ông cho rằng, việc thay đổi này "đã là sự thay đổi thái độ của nhà nước".[29] Vào ngày 24 tháng 9 năm 2013, Nghị định 110/2013/NĐ-CP chính thức được ban hành và bãi bỏ quy định về việc xử phạt tổ chức đám cưới cùng giới tại Việt Nam.[30] Nghị định có hiệu lực từ ngày 12 tháng 11 cùng năm công bố. Trong trường hợp chính quyền địa phương can thiệp hoặc cản trở đám cưới, người dân được phép sử dụng Nghị định để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình.[31]

Vào tháng 11 năm 2013, Việt Nam thông qua Hiến pháp mới, Điều 64 trong Hiến pháp 1992 đã được thay thế bằng Điều 36 trong Hiến pháp 2003 với quy định về hôn nhân được đổi mới bao gồm việc, "Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau".[a] Trước khoảng thời gian này, một chiến dịch vận động xã hội kêu gọi ủng hộ nhân nhân cùng giới mang tên Tôi Đồng Ý cũng đã được tổ chức kéo dài từ ngày 13 đến ngày 27 tháng 10 năm 2013.[32] Chiến dịch được tổ chức công tại Hà Nội với sự tham gia của ca sĩ Thu Minh, cô là một nghệ sĩ đầu tiên công khai ủng hộ chiến dịch vận động xã hội.[33] Tổng cộng chiến dịch đã thu về 47.000 chữ ký điện tử nhằm kêu gọi vận động Quốc hội Việt Nam hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới.[34][35] Vào đầu năm 2014, khi Dự luật Hôn nhân và gia đình được đưa ra bàn luận ở Ủy ban thường vụ Quốc hội đã đề xuất xóa bỏ Điều 16 khi giải quyết hậu quả của việc chung sống giữa các cặp đôi cùng giới. Đồng thời, chuyển hướng bổ sung khoản 2, Điều 8 về việc "Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính".[36] Trong lúc này trong Quốc hội cũng có đề xuất về việc cho phép kết hợp dân sự giữa các cặp đôi cùng giới.[36][37]

 
Một trong các chiến dịch vận động quyền LGBT tại Việt Nam diễn ra tại Hà Nội năm 2014.

Đến tháng 5 năm 2014, Ủy ban thường vụ Quốc hội chính thức trình Quốc hội Việt Nam khóa XIII về Dự thảo luật Hôn nhân và Gia đình với việc không công nhận hôn nhân cùng giới, bãi bỏ lệnh cấm và thay đổi thành "nhà nước không thừa nhận kết hôn giữa những người cùng giới tính".[38][39] Sau khi Dự thảo luật trình Quốc hội được công bố, iSEE đã yêu cầu chính phủ Việt Nam khôi phục Điều 16 của dự luật ban đầu với việc "Quyền và nghĩa vụ đối với con cái, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của các bên trong mối quan hệ chung sống của các cặp cùng giới sẽ được giải quyết theo thỏa thuận của các bên; nếu không có thỏa thuận, sẽ được giải quyết theo các quy định của Bộ luật Dân sự và các luật liên quan khác". Đồng thời, tổ chức này cũng xem việc không công nhận hôn nhân cùng giới đã trái với Hiến pháp mới của Việt Nam khi quy định "mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội".[39][40]

Trước đó trong phiên họp thứ 25 của Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc vào ngày 24 tháng 3 năm 2014, Việt Nam đã bỏ phiếu ủng hộ trong việc "kêu gọi cộng đồng quốc tế tích cực bảo vệ quyền của nhóm người đồng tính, song tính và chuyển giới".[40] Vào ngày 19 tháng 6 năm 2014, Luật Hôn nhân và Gia đình mới chính thức được thông qua trong kỳ họp thứ 7,[41][42][43] và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2015.[41] Đồng nghĩa với việc hôn nhân đồng giới không còn bị cấm nhưng cũng không được hợp pháp tại Việt Nam,[43] tuy nhiên, về mặt hình thức, việc tổ chức đám cưới cùng giới được nhà nước cho phép.[4] Trong Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc lần thứ 3 đối với Việt Nam diễn ra vào ngày 22 tháng 1 năm 2019, Iceland, Hà LanCanada đề xuất Việt Nam hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới.[44] Tuy nhiên, đến ngày 4 tháng 7, Việt Nam đã "ghi nhận" (từ chối) các đề xuất này.[45]

Trong khoảng thời gian này, ngày hội tự hào vẫn thường xuyên được diễn ra mỗi năm tại Việt Nam không chỉ ở Hà Nội, nơi đầu tiên tổ chức ngày hội tự hào mà sau đó nó còn được lan truyền sang 36 tỉnh, thành khác ở Việt Nam bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh nhằm thúc đẩy quyền LGBT, trong đó có việc hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới.[46]

Thập niên 2020

sửa

Mặc dù pháp luật không còn cấm nhưng do không được hợp pháp cũng như không có các quyền liên quan như quyền nhân thân, quyền tài sản nên các cặp đôi cùng giới tại Việt Nam thường xuyên bị phân biệt đối xử từ gia đình, nơi làm việc cũng như định kiến xã hội ở trong trường học, bệnh viện. Các vấn đề định kiến này diễn ra mạnh mẽ cho văn hóa bảo thủ của Việt Nam dựa trên các quan niệm về truyền thống trong xu hướng tính dục và bản dạng giới.[47] Nhiều trường hợp tự tử, trầm cảm cũng xuất hiện tại Việt Nam như vào năm 2020, một cặp đôi LGBT đã tự tử trong một nhà nghỉ trước các áp lực từ gia đình ở Hà Nội;[47][48] hay năm 2021, tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng xảy ra một trường hợp một cặp nữ sinh trung học phổ thông tự tử cũng do áp lực từ gia đình.[49]

Ngày 10 tháng 8 năm 2022, chiến dịch Tôi Đồng Ý đã được iSEE và trung tâm ICS phát động trở lại với chủ đề "Hôn nhân không khuôn mẫu" với mục đích nhằm hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới tại Việt Nam.[50][51] Khoảng 3 tháng sau khi phát động chiến dịch, Tôi Đồng Ý đã thu về gần 45.000 chữ ký ủng hộ.[52]

Pháp luật

sửa

Nghiên cứu

sửa
 
"Love is Love" tại một tòa nhà nằm ở Thành phố Thủ Đức.

Giáo dục

sửa

Trong một báo cáo của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ tại Việt Nam vào năm 2014 đã có 54% người tham gia khảo sát quan ngại về vấn đề trường học không đảm bảo an toàn cho học sinh LGBT. Trong số đó có 45% học sinh bị bạo lực không thể học tập và phải bỏ học. Một phần ba trong số học sinh LGBT bị bạo lực đã có ý định tự tử, trong khi một nửa trong số này đã cố gắng để tự tử.[47] Ngoài ra, trong các nghiên cứu của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền vào năm 2020, Việt Nam không có các chính sách và thực hành giáo dục giới tính, xu hướng tính dục cũng như là bản dạng giới. Chương trình giảng dạy chính trong giáo dục Việt Nam cũng không đề cập đến các vấn đề liên quan đến LGBT và việc thiếu được giáo dục được cho là khiến phần lớn học sinh tại Việt Nam không có những thông tin cần biết về xu hướng tính dụcbản dạng giới. Tổ chức này cũng cho rằng, việc không được giáo dục đã ảnh hưởng đến niềm tin về việc đồng tính là một dạng bệnh tâm thần có thể chẩn đoán. Nhiều người LGBT đã bị quấy rối và phân biệt đối xử tại Việt Nam, cha mẹ đưa con cái của mình đến khám sức khỏe tâm thần và cố gắng để điều trị. Những hiểu lầm trong vấn đề giáo dục giới tính đã thúc đẩy vấn đề bạo lực đối với người LGBT. Một số trường học ở Việt Nam cũng được ghi nhận tình trạng học sinh LGBT bị bạn bè và giáo viên miệt thị và đe dọa bạo lực. Vấn đề bị bắt nạt cũng xuất hiện, tuy nhiên theo các nghiên cứu thì ít xuất hiện hơn.[53]

Tác động kinh tế

sửa

Tác động xã hội

sửa

Văn hóa đại chúng

sửa
 
Tuyên truyền Tháng tự hào tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2024.

Truyền thông

sửa

Trong nước

sửa

Vào năm 2012, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cũng có phát ngôn kêu gọi ủng hộ hôn nhân cùng giới khi tuyên bố, "không thể chấp nhận việc tạo ra định kiến xã hội đối với cộng đồng người đồng tính".[54] Khi thẩm định Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội Trương Thị Mai đã cho rằng việc dỡ bỏ cấm là một trong những bước tiến tiến tới hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới. Bà Mai cũng nói thêm, khi xã hội thay đổi, pháp luật sẽ thừa nhận.[55] Đăng tải trên tạp chí Tri thức trong giai đoạn vấn đề hôn nhân cùng giới được tranh luận sôi nổi, một bài văn của một nữ học sinh trung học phổ thông tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã thu hút sự quan tâm của người hâm mộ khi đề cập trực tiếp đến vấn đề này. Nữ học sinh đã kêu gọi sự ủng hộ của mọi người đối với hôn nhân cùng giới.[56]

Quốc tế

sửa

Tạp chí The Economist đã gọi Việt Nam và Thái Lan là hai quốc gia đi đầu tại Đông Nam Á trong quá trình tự do hóa các quyền LGBT. Cũng như cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã khá thoải mái khi đề cập đến các vấn đề đồng tính luyến ái. Dẫn lời Lê Quang Bình – Viện trưởng Viện iSEE khẳng định các phong trào đòi quyền cho người đồng tính là một trong các phong trào có tổ chức thành công nhất tại Việt Nam trong những năm đầu thập niên 2010 mặc dù lập trường của chính phủ Việt Nam không rõ ràng.[57] Qua tranh luận hôn nhân cùng giới trong các cơ quan Nhà nước Việt Nam, tạp chí The Diplomat cho rằng đã có sự tranh luận trong nội độ Đảng Cộng sản Việt khi Bộ Tư pháp và Bộ Y tế ủng hộ hôn nhân cùng giới, trong khi đó, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam lại là cơ quan phản đối mạnh mẽ nhất. Tờ báo cũng cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam có thể tận dụng việc hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới để có lợi cho Đảng để minh chứng cho quyền tự do ngôn luận và quyền tự do hội họp ở Việt Nam. Các vấn đề liên quan đến cởi mở các quyền LGBT cũng đã giúp Việt Nam tạo ra thiện chí quốc tế, tuy nhiên, một số khác cho rằng Đảng đang đánh lạc hướng để đàn áp những người bất đồng chính kiến. Mặc dù vậy, việc Việt Nam hợp pháp cũng có thể tạo nên một hình mẫu cho các nước trong khu vực.[54]

Giám đốc Quyền LGBT của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Graeme Reid vào năm 2020 cũng đã đưa ra các nhận định cho rằng, chính phủ Việt Nam đã bày tỏ sự ủng hộ đối LGBT "trong những năm gần đây", tuy nhiên, việc thực thi các chính sách vẫn được cho là rất chậm trễ.[58] Đề cập đến Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 của Việt Nam, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền cũng cho rằng, Việt Nam nên xóa bỏ "sự mơ hồ" trong chính sách. Brad Adams, Giám đốc Tổ chức Theo dõi Nhân Quyền châu Á cho rằng, Việt Nam nên đi đầu ở châu Á về quyền của người LGBT.[59]

Quan điểm công chúng

sửa

Quan điểm công chúng về hôn nhân cùng giới ở Việt Nam (2014).[b]

  Ủng hộ (33.7%)
  Không chắc chắn (13.4%)
  Phản đối (52.9%)

Vào tháng 6 năm 2012, khi Bộ Tư pháp có công văn cho phép thu thập ý kiến để sửa đổi Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 thì đã có một cuộc khảo sát nhanh được diễn ra với 71,1% người đồng tính tại Việt Nam mong muốn Nhà nước thừa nhận hôn nhân cùng giới. Trong giai đoạn này, nhiều nhóm luật sư cũng kêu gọi pháp luật nên cởi mở về vấn đề hôn nhân cùng giới và xem đây như là một hiện tượng tự nhiên không thể chối bỏ.[23] Ngoài ra tháng 12 cùng năm, một khảo sát được thực hiện bởi Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường Việt Nam đã cho thấy 37% dân số Việt Nam ủng hộ hôn nhân cùng giới, trong khi 58% phản đối.[60] Trong bối cảnh tranh luận về việc hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới, nhiều tờ báo như VnExpress, Đài Tiếng nói Việt Nam... cũng đã có các cuộc khảo sát về hôn nhân cùng giới và tỷ lệ ủng hộ luôn ở mức trên 50%.[61] Trong đó VnExpress có đến 80% người khảo sát ủng hộ.[62] Đến tháng 3 năm 2014, điều tra quốc gia về "Quan điểm xã hội với hôn nhân cùng giới" được Viện Xã hội học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học - Xã hội Việt Nam, Viện Chiến lược và Chính sách Y tế, và Viện Nghiên cứu xã hội, Kinh tế và Môi trường thực hiện tại 8 tỉnh thành ở Việt Nam gồm: Hà Nội, Quảng Ninh, Nghệ An, Đà Nẵng, Đắk Lắk, Thành phố Hồ Chí Minh, An GiangSóc Trăng với sự tham gia của 5.300 người dân. Trong đó, 33,7% ủng hộ và 52,9% phản đối việc hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới, 41,2% ủng hộ và 46,7% không ủng hộ việc công nhận quyền sống chung như vợ chồng giữa những người cùng giới tính theo dạng "kết hợp dân sự" hoặc "đăng ký sống chung như vợ chồng".[63][64][65]

Quan điểm công chúng về hôn nhân cùng giới ở Việt Nam (2023) theo Pew Research Center.

  Ủng hộ mạnh (30%)
  Phần nào ủng hộ (35%)
  Không chắc chắn (5%)
  Phần nào phản đối (16%)
  Phản đối mạnh (14%)

Trong khoảng thời gian từ tháng 12 năm 2015 đến tháng 1 năm 2016, Hiệp hội Đồng tính, Song tính, Chuyển giới và Lưỡng tính Quốc tế đã thực hiện một khảo sát qua mạng internet với 96.331 phản hồi từ 65 quốc gia (không rõ số người phản hồi từ Việt Nam). Trong số các phản hồi từ Việt Nam, 45% cho rằng hôn nhân cùng giới nên được hợp pháp hóa, 25% cho rằng không nên và 30% phản hồi "không biết".[66] Đến năm 2023, một khảo sát của Pew Research Center, thực hiện từ tháng 6 đến tháng 9 qua phỏng vấn mặt-đối-mặt ở Việt Nam, cho thấy 65% người tham gia ủng hộ hôn nhân cùng giới (30% "mạnh" và 35% "phần nào"), trong khi 30% phản đối (14% "mạnh" và 16% "phần nào"). Tỷ lệ ủng hộ của những người theo đạo PhậtKitô giáo là 71%, ở những người không theo tôn giáo nào là 59%.[67] Số người tham gia khảo sát là 2.255 người từ 225 đơn vị lấy mẫu (không cố định đơn vị lấy mẫu) là các xã phường, được thiết kế chọn mẫu đa tầng, xác suất ứng với vùng địa lý, phân tầng theo vùng và mức độ đô thị hóa.[68]

Chú thích

sửa

Ghi chú

sửa
  1. ^ Dựa trên Điều 64 Hiến pháp Việt Nam 1992Điều 36 Hiến pháp Việt nam 2013.
  2. ^ Số liệu được thống kê theo điều tra quốc gia của Viện Hàn lâm Khoa học - Xã hội Việt Nam.

Tham khảo

sửa
  1. ^ Aronson, J. (1999).
  2. ^ Proschan, F. (1998).
  3. ^ a b Frank (2000). “On the Legality of Homosexuality in Vietnam...” [Về tính pháp lý của đồng tính luyến ái ở Việt Nam]. The VN-GBLF E-Mail Forum. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2024.
  4. ^ a b ————— (1972). “Bộ Dân luật năm 1972” (PDF). Nam Việt Nam. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2024 – qua Thông tin Pháp luật Dân sự.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
  5. ^ “Cải cách quyền dân sự năm 1950: Trọng trách của Ngành Tư pháp trước quyền lợi của nhân dân”. Bộ Tư pháp Việt Nam. 13 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2024.
  6. ^ Xuân Thủy (29 tháng 12 năm 1959). “Luật Hôn nhân và Gia đình 1959”. Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khóa I. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2024 – qua Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp.
  7. ^ ————— (14 tháng 6 năm 2022). “Quy định về đăng ký kết hôn qua các thời kỳ và một số vấn đề áp dụng pháp luật hiện nay”. Sở Tư pháp Thừa Thiên Huế. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2024.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
  8. ^ Trường Chinh (3 tháng 1 năm 1987). “Luật số 21/LCT/HĐNN7 của Quốc hội: Luật Hôn nhân và gia đình”. Quốc hội Việt Nam. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2024 – qua Báo Chính phủ.
  9. ^ Uyên San (22 tháng 11 năm 2016). “Những đám cưới cổ tích của những người 'cùng dấu'. Báo Pháp luật Việt Nam. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2024.
  10. ^ a b Jakob Pastoetter (1997–2001).
  11. ^ a b c Atkins, C. J. (22 tháng 6 năm 2018). “The new revolution in socialism: LGBTQ rights in Vietnam and Cuba” [Cuộc cách mạng mới trong chủ nghĩa xã hội: Quyền LGBTQ ở Việt Nam và Cuba]. People's World (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  12. ^ Mai Hà (12 tháng 11 năm 2011). “Đằng sau hôn nhân... của người đồng tính”. Báo An ninh Thủ đô. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2024.
  13. ^ a b Nông Đức Mạnh (9 tháng 6 năm 2000). “Luật Hôn nhân và Gia đình 2000”. Quốc hội Việt Nam. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2024 – qua Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp.
  14. ^ a b Phan Dương (11 tháng 5 năm 2013). “Lỗ hổng pháp lý tước quyền công dân của người đồng tính”. VnExpress. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  15. ^ Thu Cúc (2 tháng 1 năm 2015). “Đi tìm sự tử tế”. Báo Nhân Dân. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2024.
  16. ^ ICS & iSEE (2011), tr. 9.
  17. ^ ————— (2023). “Lịch sử - Sứ mệnh của ICS”. Trung tâm ICS. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
  18. ^ Bạch Dương (18 tháng 2 năm 2017). “PFLAG - chốn bình yên cho những đứa con "khác người". Báo Lao động. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2024.
  19. ^ ————— (24 tháng 4 năm 2011). “Cộng đồng người đồng tính Việt Nam đóng góp cho diễn đàn nhân dân ASEAN 2011”. Báo Đảng Cộng sản Việt Nam. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2024.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
  20. ^ Trung tâm CSAGA (6 tháng 5 năm 2020). “[VietPride 2012] Từ Stockholm đến Hà Nội: Pride không biên giới”. Trung tâm ICS. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  21. ^ Minh Anh (19 tháng 2 năm 2012). “Xôn xao đám cưới đồng tính nữ ở Cà Mau”. VietNamNet. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  22. ^ T.Thái (29 tháng 5 năm 2012). “Xử phạt hành chính đám cưới đồng tính ở Hà Tiên”. Báo Tuổi Trẻ. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  23. ^ a b Khánh Hòa (17 tháng 6 năm 2012). “71,1% người đồng tính muốn được pháp luật thừa nhận”. Báo An ninh Thủ đô. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  24. ^ Lan Anh (15 tháng 4 năm 2013). “Bộ Y tế ủng hộ kết hôn đồng tính”. Báo Tuổi Trẻ. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  25. ^ Phan Dương (17 tháng 4 năm 2013). “Việt Nam có thể không cấm kết hôn đồng giới”. VnExpress. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  26. ^ Phan Dương (13 tháng 7 năm 2012). “Cửa cho hôn nhân đồng tính vẫn còn khép chặt”. VnExpress. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  27. ^ P.Thảo (14 tháng 8 năm 2013). “Thủ tướng: "Không thể "né" hôn nhân đồng giới". Báo Dân Trí. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  28. ^ P.Thảo (10 tháng 5 năm 2013). "Công nhận hôn nhân đồng giới, xã hội không mất gì". Báo Dân Trí. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  29. ^ P.Thảo (27 tháng 7 năm 2013). "Không "cấm" hôn nhân đồng giới - sự thay đổi thái độ của nhà nước". Báo Dân Trí. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  30. ^ ————— (3 tháng 10 năm 2013). “Vietnam to remove fines on same-sex marriage” [Việt Nam xóa bỏ phạt tiền với hôn nhân cùng giới]. Báo Tuổi Trẻ (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
  31. ^ ————— (13 tháng 11 năm 2013). “Same-sex weddings officially permitted in Vietnam” [Đám cưới cùng giới được cho phép tại Việt Nam]. Một Thế Giới (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024 – qua Vietnamnet.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
  32. ^ ————— (23 tháng 7 năm 2023). “Ly cà phê thứ bảy: Tôi đồng ý”. Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2023.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
  33. ^ Minh Đô (29 tháng 10 năm 2013). “Thu Minh cùng ông xã tích cực ủng hộ hôn nhân đồng giới”. Báo Thanh Niên. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2023.
  34. ^ Tâm Lụa (28 tháng 10 năm 2013). “Hơn 2.000 người ủng hộ hôn nhân đồng giới”. Báo Tuổi Trẻ. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2023.
  35. ^ Quỳnh Trang (27 tháng 10 năm 2013). “Hàng nghìn bạn trẻ ủng hộ LGBT nói "Tôi đồng ý". VietnamPlus. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2023.
  36. ^ a b P.Thảo (13 tháng 1 năm 2014). “Vấn đề hôn nhân đồng giới lại "thổi bùng" tranh luận”. Báo Dân Trí. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  37. ^ Cao Vũ Minh (1 tháng 4 năm 2014). “Nên thừa nhận chế định kết hợp dân sự giữa hai người cùng giới tính”. Viện Nghiên cứu Lập pháp thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2024.
  38. ^ Marianne Brown (30 tháng 5 năm 2014). “Vietnam's Proposed Marriage Law Disappoints LGBT Activists” [Dự luật hôn nhân của Việt Nam làm các nhà hoạt động LGBT thất vọng]. Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  39. ^ a b Andrew Potts (30 tháng 5 năm 2014). “Vietnamese lawmakers back down on giving rights to same-sex couples” [Các nhà lập pháp Việt Nam lùi bước trong việc trao quyền cho các cặp đôi cùng giới]. Gay Star News (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2017.
  40. ^ a b Trung tâm ICS (25 tháng 11 năm 2013). “Hoãn thông qua luật Hôn nhân và Gia đình”. Change.org. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  41. ^ a b ————— (9 tháng 5 năm 2019). “Luật hôn nhân và gia đình năm 2014”. Vụ Gia đình thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
  42. ^ Trương Tấn Sang (6 tháng 6 năm 2014). “Lệnh 07/2014/L-CTN”. Văn phòng Chủ tịch nước. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2024 – qua Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
  43. ^ a b Nguyễn Sinh Hùng (19 tháng 6 năm 2014). “Luật số 52/2014/QH13 của Quốc hội: LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH”. Quốc hội. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2024 – qua Cổng thông tin điện tử Chính phủ.
  44. ^ ————— (2019). “32nd UPR Working Group Sessions - SOGIESC Recommendations - Vietnam” [Phiên họp lần thứ 32 của Nhóm Công tác UPR - Các khuyến nghị về SOGIESC - Việt Nam] (PDF). ILGA. ILGA. tr. 53–56. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2019.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
  45. ^ ————— (2019). “41st session of the Human Rights Council: UPR Outcomes - Vietnam. Statement by LGBTI - UPR Working Group in Vietnam, COC Netherlands and ILGA World” [Phiên họp thứ 41 của Hội đồng Nhân quyền: Kết quả UPR - Việt Nam. Tuyên bố của Nhóm Công tác UPR về LGBTI tại Việt Nam, COC Netherlands và ILGA World] (PDF). ILGA. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2019.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
  46. ^ Minh Vương (12 tháng 8 năm 2016). “Sự kiện Viet Pride diễn ra tại 36 tỉnh thành”. Báo Sài Gòn Giải Phóng. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  47. ^ a b c Nguyen, Thoi (28 tháng 2 năm 2020). “The Fight for LGBT Rights in Vietnam Still Has a Long Way To Go” [Cuộc đấu tranh cho quyền LGBT ở Việt Nam vẫn còn một chặng đường dài phía trước]. The Diplomat (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  48. ^ Vũ Thị Thủy Tiên (2 tháng 1 năm 2020). “Tự tử vì đồng tính: Hồi chuông cảnh báo nỗi bất hạnh từ định kiến”. Tạp chí Người Đưa Tin. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  49. ^ Vũ Phượng (23 tháng 3 năm 2021). “2 nữ sinh rơi lầu ở Q.12: Nếu con lỡ 'có tình cảm', cha mẹ sốc rồi làm gì?”. Báo Thanh Niên. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  50. ^ Tiểu Vi (10 tháng 8 năm 2022). “Cộng đồng LGBT tái khởi động chiến dịch "Tôi đồng ý". Báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2023.
  51. ^ Trâm Anh (11 tháng 8 năm 2022). “Nhiều nghệ sĩ tham gia chiến dịch ủng hộ hôn nhân cùng giới Tôi đồng ý”. Tạp chí Người Đô Thị. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2023.
  52. ^ Hoàng Giang (7 tháng 11 năm 2023). “Hơn 40.000 chữ ký 'Tôi đồng ý' ủng hộ hợp thức hóa hôn nhân cùng giới”. Trang tin Tiếng chuông, báo Chính phủ. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2023.
  53. ^ Knight, Kyle (12 tháng 2 năm 2020). “My Teacher Said I Had a Disease” [Giáo viên bảo rằng tôi có bệnh]. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (bằng tiếng Anh).
  54. ^ a b David Mann (18 tháng 4 năm 2014). “Leading the Way: Vietnam's Push for Gay Rights” [Dẫn đầu: Việt Nam thúc đẩy quyền của người đồng tính]. The Diplomat (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  55. ^ P. Thảo; Quang Phong (14 tháng 11 năm 2013). “Mang thai hộ khó lường, hôn nhân đồng giới khó cấm”. Báo Dân Trí. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  56. ^ Như Quỳnh (11 tháng 10 năm 2013). “Bài Văn mạnh dạn về đồng tính nhận điểm cao”. Tạp chí Tri thức. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  57. ^ —————. “Fifty shades of pink” [Năm mươi sắc hồng]. The Economist. ISSN 0013-0613. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
  58. ^ ————— (12 tháng 2 năm 2020). “Vietnam: LGBT Youth Unprotected” [Việt Nam: Thanh thiếu niên LGBT không được bảo vệ]. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
  59. ^ ————— (20 tháng 11 năm 2013). “Vietnam: Give Marriage Rights to Same-Sex Couples” [Việt Nam: Trao quyền kết hôn cho các cặp đôi cùng giới]. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
  60. ^ “Survey undermines progress of same-sex marriage in Vietnam”. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2012.
  61. ^ Phương Chi (4 tháng 9 năm 2013). “Hôn nhân đồng giới: Vẫn còn nhiều bàn cãi”. Đài Tiếng nói Việt Nam. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  62. ^ Vương Linh (16 tháng 8 năm 2013). “Người đồng tính tin hôn nhân cùng giới sẽ được thừa nhận”. VnExpress. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2024.
  63. ^ Thu Hằng (26 tháng 3 năm 2014). “Gần 50% người được hỏi ủng hộ quyền chung sống của người đồng tính”. Báo Thanh Niên. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  64. ^ Andrew Potts (2014). “One in three Vietnamese support marriage equality” [Một phần ba người Việt Nam ủng hộ hôn nhân cùng giới]. GayStarNews. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2014.
  65. ^ Diệu Linh (27 tháng 3 năm 2014). “34% người Việt được hỏi ủng hộ hôn nhân đồng tính”. Báo Dân Việt. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2024.
  66. ^ ILGA (2016). “Global Attitudes Survey on LGBT people” (PDF). ILGA. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2017.
  67. ^ Sneha Gubbala; William Miner (2023). “Across Asia, views of same-sex marriage vary widely” [Khắp Châu Á, quan điểm về hôn nhân cùng giới phân hóa rõ rệt]. Pew Research Center. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2023.
  68. ^ Pew Research Center (2023). “Country Specific Methodology” [phương pháp luận cụ thể cho quốc gia]. Pew Research Center. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2023. Câu hỏi về hôn nhân cùng giới được đặt mã QLEGAL/Q47 trong "Religion in East Asia Survey" [Khảo sát Tôn giáo ở Đông Á]

Nguồn

sửa
  • Aronson, J. (1999), Homosex in Hanoi? In: W. L. Leap, ed., Sex, the public sphere, and public sex. Public sex/Gay space [Đồng tính ở Hà Nội? Trong "Tình dục, không gian công cộng và tính dục trong đại chúng. Tính dục đại chúng/Không gian đồng tính" của W. L. Leap (nhà biên tập)], New York: Columbia University Press
  • Proschan, F. (1998), Filial piety and non-procreative male-to-male sex among Vietnamese [Đạo hiếu và tình dục nam-nam không sinh sản ở người Việt Nam], Bài báo trình bày tại Hội nghị thường niên của Hiệp hội Nhân chủng học Hoa Kỳ, Philadelphia, 2–6 tháng 12Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
  • Jakob Pastoetter (1997–2001). “The International Encyclopedia of Sexuality: Vietnam” [Bách khoa toàn thư quốc tế về tính dục: Việt Nam]. The Continuum Publishing Company. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2009.
  • ICS & iSEE (2011). “Mở” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 14 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2023.

Xem thêm

sửa