Hoàng Quốc Việt

chính khách người Việt Nam, cố Chủ tịch Tổng Công đoàn Lao động, cố Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao, cố Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc
(Đổi hướng từ Hạ Bá Cang)

Hoàng Quốc Việt (19051992) là một chính khách, đảm nhiệm các vai trò Bí thư Tổng bộ Việt Minh, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ.

Hoàng Quốc Việt
Chức vụ
Nhiệm kỳ31 tháng 1 năm 1977 – 12 tháng 5 năm 1983
6 năm, 101 ngày
Tiền nhiệmBản thân là
Chủ tịch đầu tiên
Kế nhiệmHuỳnh Tấn Phát
Nhiệm kỳ25 tháng 8 năm 1960 – 3 tháng 7 năm 1976
15 năm, 313 ngày
Chủ tịchHồ Chí Minh
Tôn Đức Thắng
Tiền nhiệmBùi Lâm
Kế nhiệmTrần Hữu Dực
Phó viện trưởng
Nhiệm kỳ15 tháng 1 năm 1950 – 11 tháng 5 năm 1978
28 năm, 116 ngày
Tiền nhiệmChủ tịch đầu tiên
Kế nhiệmNguyễn Văn Linh
Nhiệm kỳ6 tháng 4 năm 1975 – 19 tháng 7 năm 1992
17 năm, 104 ngày
Thông tin chung
Quốc tịch Việt Nam
Sinh(1905-05-28)28 tháng 5, 1905
Bắc Ninh, Liên bang Đông Dương
Mất25 tháng 12, 1992(1992-12-25) (87 tuổi)
Hà Nội, Việt Nam
Đảng chính trịĐảng Cộng sản Việt Nam

Tiểu sử sửa

Ông tên thật là Hạ Bá Cang, sinh ngày 28 tháng 5 năm 1905, tại Đáp Cầu, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh, tức là phường Đáp Cầu, thành phố Bắc Ninh của ngày nay.

Ông tham gia các phong trào cách mạng từ năm 1925, cùng hoạt động với Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự. Năm 1925, học năm thứ ba Trường Kĩ nghệ Thực hành ở Hải Phòng, tham gia phong trào bãi khoá và biểu tình phản đối chính quyền thực dân kết án tử hình nhà yêu nước Phan Bội Châu. Bị đuổi học, Hoàng Quốc Việt lên mỏ Phấn Mễ (Thái Nguyên) làm thợ nguội rồi về làm ở mỏ Mạo Khê (Quảng Yên) và Nhà máy cơ khí Carông (Hải Phòng). Năm 1928, tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1929, ông bị đuổi ra khỏi nhà máy, sau đó được tổ chức cử vào Nam Kỳ hoạt động cách mạng bí mật.

Năm 1930 ông vào Nam Kỳ và được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông từng bị Pháp bắt (khi được cử cùng Phạm Hữu Lầu ra bắc họp hội nghị thực hiện việc hợp nhất Đảng), và xử tù chung thân cùng với Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng... nhưng đến năm 1936 thì được trả tự do. Ngày ngày 14 tháng 5 năm 1930, ông bị bắt tại nhà số 6, phố Touran, thành phố Hải Phòng, còn Phạm Hữu Lầu bị bắt tại Hải Phòng ngày ngày 24 tháng 7 năm 1930.

Ông trở về hoạt động cách mạng ở Hà Nội, cùng một số đồng chí của mình khôi phục tổ chức Đảng và các tổ chức cách mạng ở Bắc Kỳ, phát động đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ.

Năm 1937, ông được cử làm Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ. Năm 1938, do bị chính quyền trục xuất khỏi Hà Nội, Hoàng Quốc Việt về hoạt động ở Bắc Ninh, Bắc Giang. Năm 1941, ông tham dự Hội nghị VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Hồ Chí Minh chủ trì, được cử vào Ban Chấp hành Trung ương và được bầu làm Ủy viên Thường vụ Trung ương. Ông tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa tháng Tám, sau đó được cử vào Nam công tác, làm Ủy viên Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam (đến 16/7/1946, được thay bởi Nguyễn Văn Duẩn).[1]

Tại Đại hội II Đảng Cộng sản Việt Nam (1951), ông lại được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị, Trưởng ban Dân vận - Mặt trận, và giữ cương vị Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam.

Vào tháng 9 năm 1956 trong chiến dịch sửa sai về vụ Cải cách ruộng đất, Hoàng Quốc Việt, với trách nhiệm Trưởng ban chỉ đạo thí điểm tỉnh Thái Nguyên, bị cho ra khỏi Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam.

Năm 1960, ông được bầu làm Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, tham gia Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội trưởng Hội Hữu nghị Việt - Trung. Tháng 12 năm 1976, trong Đại hội IV Đảng Cộng sản Việt Nam, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương. Ông tiếp tục giữ nhiều chức vụ: Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1977), Chủ tịch danh dự Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1983), Đại biểu Quốc hội từ khóa V-VIII.

Ông mất ngày 25 tháng 12 năm 1992, an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch, thành phố Hà Nội.

Vợ ông là bà Khuất Thị Bảy, em của ông Khuất Duy Tiến, Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội những năm 50.

Tác phẩm sửa

  • "Chặng đường nóng bỏng" (Hồi ký), Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, 1985
  • "Con đường theo Bác" (Hồi ký), Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 1990

Vinh danh sửa

Ông đã được Nhà nước trao tặng Huân chương Sao vàng cùng nhiều huân chương khác.

Tên ông được Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đặt cho tuyến đường nối từ đường Bưởi (đường vành đai 2) đến đường Phạm Văn Đồng (đường vành đai 3), quận Cầu Giấy.

Tại thành phố Bắc Ninh có một công viên và tượng đài Hoàng Quốc Việt để tưởng niệm ông, một ngôi trường cấp III mang tên Trường THPT Hoàng Quốc Việt.

Tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng có đường mang tên ông tại phường Phú Thuận, quận 7.

Tại Thành phố Cần Thơ có đường mang tên ông tại phường An Bình, quận Ninh Kiều.

Tại Thành phố Huế có đường mang tên ông nằm trên địa bàn phường An Đông, về phía Đông Nam Kinh thành Huế, khởi đầu từ đường Trường Chinh (tiếp giáp cầu Kiểm Huệ), hướng đi Cầu Ngói Thanh Toàn, đến hết địa phận thành phố gặp ngã ba Tôn Thất Cảnh (tại thôn Lang Xá Cồn), dài 1500m.

Tại Thành phố Hạ Long, tên ông được đặt cho con đường lớn nằm ở cửa ngõ thành phố tại phường Hùng Thắng, nơi đang xây dựng khu đô thị mới và khu du lịch với nhiều chung cư, khách sạn, nhà hàng, đường Hoàng Quốc Việt nối đường Cái Lân (QL18) với đường Hạ Long.

Tại Thành phố Cẩm Phả, đường Hoàng Quốc Việt kéo dài từ đường Trần Quốc Tảng tới ngã ba Bà Triệu - Lê Thanh Nghị.

Tại phường Mạo Khê, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, nơi ông đã có thời gian đến làm việc tại xưởng cơ khí để "vô sản hóa" thợ mỏ, ngôi trường cấp III năm 1991 khi chuyển từ xã Yên Thọ lên đã được ông đồng ý cho mang tên Trường THPT Hoàng Quốc Việt

Đồng thời, cũng tại phường Mạo Khê, có tuyến đường đẹp từ QL 18 đi qua Trường THCS Mạo Khê II và THPT Hoàng Quốc Việt vào đi thẳng ga Mạo Khê vẫn mang tên phố Hoàng Quốc Việt

Tham khảo sửa

Liên kết ngoài sửa