Liệu pháp trúng đích hoặc liệu pháp trúng đích phân tử là một trong những phương thức chính của điều trị y tế (dược lý) cho bệnh ung thư, những phương pháp khác là liệu pháp hormonhóa trị liệu gây độc tế bào. Như một hình thức y học phân tử, nhắm mục tiêu các khối điều trị sự tăng trưởng của tế bào ung thư bằng cách can thiệp vào mục tiêu cụ thể các phân tử cần thiết cho chất sinh ung thưkhối u tăng trưởng,[1] chứ không phải bằng cách đơn giản can thiệp vào tất cả các tế bào phân chia nhanh chóng (ví dụ với truyền thống hóa trị). Bởi vì hầu hết các tác nhân cho liệu pháp trúng đích là dược phẩm sinh học, thuật ngữ liệu pháp sinh học đôi khi đồng nghĩa với liệu pháp trúng đích khi được sử dụng trong bối cảnh điều trị ung thư (và do đó phân biệt với hóa trị liệu, đó là liệu pháp gây độc tế bào). Tuy nhiên, các phương thức có thể được kết hợp; liên hợp kháng thể-thuốc cơ chế sinh học và độc tế bào thành một liệu pháp trúng đích.

Bệnh nhân và các bệnh của họ được định hình để xác định phương pháp điều trị hiệu quả nhất cho trường hợp cụ thể của họ.

Các liệu pháp điều trị ung thư được nhắm mục tiêu dự kiến sẽ hiệu quả hơn các hình thức điều trị cũ và ít gây hại hơn cho các tế bào bình thường. Nhiều liệu pháp trúng đích là ví dụ về liệu pháp miễn dịch (sử dụng cơ chế miễn dịch cho mục tiêu điều trị) được phát triển bởi lĩnh vực miễn dịch ung thư. Vì vậy, là chất điều hòa miễn dịch, chúng là một loại chất điều biến phản ứng sinh học.

Các liệu pháp trúng đích thành công nhất là các thực thể hóa học nhắm mục tiêu hoặc ưu tiên nhắm mục tiêu một protein hoặc enzyme mang đột biến hoặc thay đổi di truyền khác dành riêng cho tế bào ung thư và không tìm thấy trong mô chủ bình thường. Một trong những liệu pháp trúng đích phân tử thành công nhất là Gleevec, một chất ức chế kinase có ái lực đặc biệt với protein gây ung thư Bcr-Abl, một yếu tố thúc đẩy mạnh mẽ của bệnh u bướu trong bệnh bạch cầu tủy xương mạn tính. Những ví dụ khác gồm có erlotinib (Tarceva) ở người bệnh ung thư phổi có đột biến EGFR hay sorafenib (Nexavar), được chấp thuận trong điều trị ung thư gan, thận và tuyến giáp.

Có các liệu pháp trúng đích cho ung thư đại trực tràng, ung thư đầu và cổ, ung thư vú, đa u tủy, ung thư hạch, ung thư tuyến tiền liệt, khối u ác tính và các bệnh ung thư khác.[2]

Biomarkers thường được yêu cầu để hỗ trợ lựa chọn bệnh nhân có khả năng đáp ứng với một liệu pháp trúng đích nhất định.[3]

Các thí nghiệm dứt khoát cho thấy liệu pháp trúng đích sẽ đảo ngược kiểu hình ác tính của các tế bào khối u liên quan đến việc điều trị các tế bào biến đổi Her2/neu bằng kháng thể đơn dòng in vitro và in vivo bởi phòng thí nghiệm của Mark Greene và báo cáo từ năm 1985.[4]

Một số người đã thách thức việc sử dụng thuật ngữ này, nói rằng các loại thuốc thường liên quan đến thuật ngữ này không đủ chọn lọc.[5] Cụm từ thỉnh thoảng xuất hiện trong trích dẫn sợ hãi: "liệu pháp trúng đích".[6] Các liệu pháp trúng đích cũng có thể được mô tả là "hóa trị" hoặc "hóa trị không gây độc tế bào", vì "hóa trị" chỉ có nghĩa là "điều trị bằng hóa chất". Nhưng trong sử dụng thông thường và y học thông thường, "hóa trị" hiện nay chủ yếu được sử dụng đặc biệt cho hóa trị liệu độc tế bào "truyền thống".

Các loại sửa

Các loại chính của liệu pháp trúng đích hiện nay là các phân tử nhỏkháng thể đơn dòng.

Phân tử nhỏ sửa

 
Cơ chế của imatinib

Các chất ức chế tyrosine kinase (Tyrosine Kinase Inhibitors - TKIs) sửa

  • Các chất ức chế Bcr-Abl, gồm imatinib, dasatinib, nilotinib, bosutinib, ponatinib và asciminib. Imatinib là hoạt chất đầu tiên trong nhóm này (phê duyệt năm 2001)[7], theo sau đó là sự phát triển và phê duyệt của dasatinib (phê duyệt 2006), nilotinib (2007) và bosutinib (2012) để giải quyết bài toán kháng imatinib.[8] Ponatinib ức chế đa đột biến Bcr-Abl, kể cả đột biến T315I gây kháng các loại thuốc trước.[9] Asciminib là chất ức chế Bcr-Abl mới nhất (phê duyệt 2021) và có cơ chế hoạt động khác hoàn toàn so với các hoạt chất trên: asciminb gắn với vị trí myristoyl của ABL1, không phải vị trí gắn ATP.[10]
  • Các chất ức chế thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR-TKIs), gồm các thuốc erlotinib, gefitinib, afatinib, dacomitinibosimertinib. Các thuốc trong nhóm này ức chế miền tyrosine kinase của EGFR, từ đó ngăn chặn các tín hiệu xuôi dòng của EGFR. Những hoạt chất trong nhóm này được chia làm 3 thế hệ 1,2 và 3. EGFR-TKIs thế hệ 1 (gefitinib và erlotinb) ức chế có thể đảo ngược các thụ thể mand đột biến ở exon 19, exon 21 và ức chế yếu hơn EGFR thể hoang dã. Thế hệ 2 (afatinib và dacomitinib) ức chế không đảo ngược các thụ thể EGFR mang các đột biến ở ex.19, ex.21, các đột biến không thường gặp (v.d G719X) và HER-2. Thế hệ 3 (osimertinib, và có thể sau này sẽ có lazertinib) ức chế chọn lọc thụ thể EGFR mang các đột biến nhạy thuốc và đột biến T790M kháng với EGFR-TKIs thế hệ 1 và 2.[11]
  • Các chất ức chế VEGFR, tiêu biểu là sorafenib. Lần đầu tiến bước vào thử nghiệm lâm sàng năm 1999, sorafenib ban đầu được kỳ vọng là chất ức chế đường truyền tín hiệu RAF-MEK-ERK và ức chế các khối u chứa đột biến KRAS / RAF, hóa ra cũng là chất ức chế mạnh các thụ thể liên quan đến sự tân sinh mạch như VEGFR và PDGFR, giải thích cho hiệu quả in vivo ở nhiều khối u không đáp ứng với sorafenib in vitro.[12] Nhiều thuốc trong nhóm này cũng ức chế sự hoạt động của các thụ thể khác, ví dụ vandetanib (ZD6474) ức chế VEGFR, EGFR và RET.[13]
  • Các chất ức chế HER-2/neu, gồm lapatinib, neratinib và tucatinib. Lapatinib và neratinib cũng đồng thời ức chế EGFR ở một mức độ nhất định.[14]
  • Các chất ức chế ALK, gồm crizotinib, ceritinib, alectinib, brigatinib và lorlatinib.
  • Các chất ức chế TRK, gồm larotrectinib và entrectinib. Entrectinib còn là chất ức chế ALK và ROS1.[15]
  • Các chất ức chế BTK, gồm ibrutinib, acalabrutinib, zanubrutinib và pirtobrutinib.
  • Các chất ức chế chọn lọc FGFR, gồm erdafitinib, pemigatinib và futibatinib. Infigratinib - chất ức chế chọn lọc FGFR thứ 2 được FDA phê duyệt - đang bị dừng phân phối bởi nhà sản xuất do những khó khăn trong việc tuyển bệnh nhân tham gia nghiên cứu xác nhận.[16]
  • Các chất ức chế RET, gồm praseltinib và selpercatinib.
  • Các chất ức chế MET, gồm tepotinib và capmatinib.

Thuốc ức chế serine/threonine kinase sửa

  • Các chất ức chế mTOR, gồm sirolimus (rapamycin) và các dẫn xuất của nó như everolimustemsirolimus.
  • Các chất ức chế BRAF, gồm vemurafenib, dabrafenib và encorafenib
  • Các chất ức chế MEK, gồm cobimetinib, trametinib, binimetinib và selumetinib
  • Các chất ức chế CDK4/6, gồm palbociclib, ribociclibabemaciclib. Chúng ngăn CDK4 và CDK6 phosphoryl hóa protein retinoblastoma,do đó gây ngừng chu kỳ tế bào.[17] Nhờ khả năng gây ngưng chu kỳ tế bào, các hoạt chất trong nhóm này cũng có thể làm giảm độc tính của hóa trị lên tủy xương với ví dụ tiêu biểu là trilaciclib.[18]

Thuốc ức chế các mục tiêu khác sửa

  • Các chất ức chế PI3K, như idelalisib, umbralisib, duvelisib, copanlisib và alpelisib
  • Các chất ức chế Proteasome, gồm bortezomib, carfilzomib và ixazomib
  • Các chất ức chế Histone Deacetylase (HDAC) gồm vorinostat, romidepsin, belinostatpanobinostat.
  • Các chất ức chế Bcl, gồm venetoclax
  • Các chất ức chế đường truyền Smoothened, bao gồm vismodegib và sonidegib
  • Các chất ức chế PARP như olaparib, rucaparib, niraparib và talazoparib. Ở các tế bào đột biến BRCA, chúng không thể sửa chữa các hư hại ở gen thông qua BRCA mà phải phụ thuộc vào PARP. Ức chế PARP dẫn đến sự chết tế bào theo chương trình.[19]
  • Các chất ức chế IDH1/IDH2, gồm enasidenib, ivosidenib và olutasidenib. Đột biến ở enzyme isocitrate dehydrogenase khiến isocitrate chuyển hóa thành D-2-hydroxyglutarate thay vì thành α-Ketoglutarate, từ đó ngăn cản sự biệt hóa của tế bào.[20] Ức chế IDH làm giảm lượng D-2-hydroxyglutarate và kích thích sự biệt hóa của tế bào ở các mô hình thí nghiệm.[21]
  • Các chất ức chế KRAS, gồm adagrasib và sotorasib. Trước đấy, KRAS được coi là mục tiêu "undruggable" (mục tiêu sinh học không thể bị nhắm đến bởi các biện pháp trúng đích) do cấu trúc khá "nhẵn nhụi" nên khó có thể tìm được những "hốc" để hoạt chất bám vào và do KRAS có ái lực rất cao với GTP (Guanosine Triphosphat), vốn luôn có hàm lượng dồi dào trong tế bào nên rất khó thiết kế các chất ức chế cạnh tranh.[22] Tuy vậy, vào năm 2013, Kevin Shokat cùng các cộng sự đã thành công tổng hợp một hợp chất liên kết cộng hoá trị với acid amin cystein trong enzyme KRAS mang đột biến G12C.[23] Sau đó, nhiều hợp chất khác có khả năng ức chế KRAS chứa đột biến G12C cũng dần được phát triển như ARV-853[24], ARV 1640[25], AMG510 (Sotorasib)[26] và MRTX849 (Adagrasib)[27].

Kháng thể đơn dòng sửa

Một số đang được phát triển và một số đã được FDA và Ủy ban Châu Âu cấp phép. Ví dụ về các kháng thể đơn dòng được cấp phép bao gồm:

  • Rituximab nhắm mục tiêu CD20 được tìm thấy trên các tế bào B. Nó được sử dụng trong u lympho không Hodgkin
  • Obinutuzumab là kháng thể kháng CD20 thế hệ thứ 2, được xử lý loại bỏ đường fucose ở vùng kết tinh mảnh (Fc) của kháng thể, cũng như gắn với CD20 ở một vị trí khác, làm tăng khả năng gây chết tế bào trực tiếp không thông qua caspase, tăng sự gây độc tế bào phụ thuộc kháng thể và tăng sự thực bào phụ thuộc kháng thể.[30]

Tiến bộ và tương lai sửa

Tại Hoa Kỳ, Chương trình Phát triển Mục tiêu Phân tử (MTDP) của Viện Ung thư Quốc gia nhằm xác định và đánh giá các mục tiêu phân tử có thể là ứng cử viên cho phát triển thuốc.

Xem thêm sửa

Tham khảo sửa

  1. ^ “Definition of targeted therapy - NCI Dictionary of Cancer Terms”.
  2. ^ “Targeted Cancer Therapies”. National Cancer Institute.
  3. ^ Syn, Nicholas Li-Xun; Yong, Wei-Peng; Goh, Boon-Cher; Lee, Soo-Chin (ngày 1 tháng 8 năm 2016). “Evolving landscape of tumor molecular profiling for personalized cancer therapy: a comprehensive review”. Expert Opinion on Drug Metabolism & Toxicology. 12 (8): 911–922. doi:10.1080/17425255.2016.1196187. ISSN 1744-7607. PMID 27249175.
  4. ^ Perantoni AO, Rice JM, Reed CD, Watatani M, Wenk ML (tháng 9 năm 1987). “Activated neu oncogene sequences in primary tumors of the peripheral nervous system induced in rats by transplacental exposure to ethylnitrosourea”. Proc. Natl. Acad. Sci. U.S.A. 84 (17): 6317–6321. doi:10.1073/pnas.84.17.6317. PMC 299062. PMID 3476947.

    Drebin JA, Link VC, Weinberg RA, Greene MI (tháng 12 năm 1986). “Inhibition of tumor growth by a monoclonal antibody reactive with an oncogene-encoded tumor antigen”. Proc. Natl. Acad. Sci. U.S.A. 83 (23): 9129–9133. doi:10.1073/pnas.83.23.9129. PMC 387088. PMID 3466178.

    Drebin JA, Link VC, Stern DF, Weinberg RA, Greene MI (tháng 7 năm 1985). “Down-modulation of an oncogene protein product and reversion of the transformed phenotype by monoclonal antibodies”. Cell. 41 (3): 697–706. doi:10.1016/S0092-8674(85)80050-7. PMID 2860972.
  5. ^ Zhukov NV, Tjulandin SA (tháng 5 năm 2008). “Targeted therapy in the treatment of solid tumors: practice contradicts theory”. Biochemistry Mosc. 73 (5): 605–618. doi:10.1134/S000629790805012X. PMID 18605984.
  6. ^ Markman M (2008). “The promise and perils of 'targeted therapy' of advanced ovarian cancer”. Oncology. 74 (1–2): 1–6. doi:10.1159/000138349. PMID 18536523.
  7. ^ “How Gleevec Transformed Leukemia Treatment - NCI”. www.cancer.gov (bằng tiếng Anh). 2 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2023.
  8. ^ Roberta Bitencourt, Ilana Zalcberg, Iúri Drumond Louro (2011). “Imatinib resistance: a review of alternative inhibitors in chronic myeloid leukemia”. National Library of Medicine. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2023.
  9. ^ Wehrle, Julius; von Bubnoff, Nikolas (2018). “Ponatinib: A Third-Generation Inhibitor for the Treatment of CML”. Recent Results in Cancer Research. Fortschritte Der Krebsforschung. Progres Dans Les Recherches Sur Le Cancer. 212: 109–118. doi:10.1007/978-3-319-91439-8_5. ISSN 0080-0015. PMID 30069627.
  10. ^ Schoepfer, Joseph; Jahnke, Wolfgang; Berellini, Giuliano; Buonamici, Silvia; Cotesta, Simona; Cowan-Jacob, Sandra W.; Dodd, Stephanie; Drueckes, Peter; Fabbro, Doriano (27 tháng 9 năm 2018). “Discovery of Asciminib (ABL001), an Allosteric Inhibitor of the Tyrosine Kinase Activity of BCR-ABL1”. Journal of Medicinal Chemistry (bằng tiếng Anh). 61 (18): 8120–8135. doi:10.1021/acs.jmedchem.8b01040. ISSN 0022-2623.
  11. ^ Shah, Riyaz; Lester, Jason F. (1 tháng 5 năm 2020). “Tyrosine Kinase Inhibitors for the Treatment of EGFR Mutation-Positive Non–Small-Cell Lung Cancer: A Clash of the Generations”. Clinical Lung Cancer (bằng tiếng Anh). 21 (3): e216–e228. doi:10.1016/j.cllc.2019.12.003. ISSN 1525-7304.
  12. ^ Wilhelm SM, Carter C, Tang L, Wilkie D, Mcnabola A, Rong H, Chen C, Zhang X, Vincent P, Mchugh M, Cao Y, Shujath J, Gawlak S, Eveleigh D, Rowley B, Liu L, Adnane L, Lynch M, Auclair D, Taylor I, Gedrich R, Voznesensky A, Riedl B, Post LE, Bollag G, Trail PA (1 tháng 10 năm 2004). “BAY 43-9006 Exhibits Broad Spectrum Oral Antitumor Activity and Targets the RAF/MEK/ERK Pathway and Receptor Tyrosine Kinases Involved in Tumor Progression and Angiogenesis”. AACR Journals. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2023.
  13. ^ Ryan, A. J.; Wedge, S. R. (tháng 6 năm 2005). “ZD6474 – a novel inhibitor of VEGFR and EGFR tyrosine kinase activity”. British Journal of Cancer (bằng tiếng Anh). 92 (1): S6–S13. doi:10.1038/sj.bjc.6602603. ISSN 1532-1827.
  14. ^ Collins, Denis M.; Conlon, Neil T.; Kannan, Srinivasaraghavan; Verma, Chandra S.; Eli, Lisa D.; Lalani, Alshad S.; Crown, John (tháng 6 năm 2019). “Preclinical Characteristics of the Irreversible Pan-HER Kinase Inhibitor Neratinib Compared with Lapatinib: Implications for the Treatment of HER2-Positive and HER2-Mutated Breast Cancer”. Cancers (bằng tiếng Anh). 11 (6): 737. doi:10.3390/cancers11060737. ISSN 2072-6694.
  15. ^ Ardini, Elena; Menichincheri, Maria; Banfi, Patrizia; Bosotti, Roberta; De Ponti, Cristina; Pulci, Romana; Ballinari, Dario; Ciomei, Marina; Texido, Gemma (tháng 4 năm 2016). “Entrectinib, a Pan-TRK, ROS1, and ALK Inhibitor with Activity in Multiple Molecularly Defined Cancer Indications”. Molecular Cancer Therapeutics. 15 (4): 628–639. doi:10.1158/1535-7163.MCT-15-0758. ISSN 1538-8514. PMID 26939704.
  16. ^ “TRUSELTIQ® (INFIGRATINIB) CAPSULES NOTICE OF PERMANENT DISCONTINUATION OF DISTRIBUTION”. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2023. line feed character trong |tựa đề= tại ký tự số 35 (trợ giúp)
  17. ^ Watt, April C.; Goel, Shom (5 tháng 3 năm 2022). “Cellular mechanisms underlying response and resistance to CDK4/6 inhibitors in the treatment of hormone receptor-positive breast cancer”. Breast Cancer Research. 24 (1): 17. doi:10.1186/s13058-022-01510-6. ISSN 1465-542X. PMC 8898415. PMID 35248122.
  18. ^ Shenghui He, Patrick J. Roberts, Jessica A. Sorrentino, John E. Bisi, Hannah Storrie-White, Renger G. Tiessen, Karenann M. Makhuli, William A. Wargin, Ewoud-Jan van Hoogdalem, Henko Tadema, Jay C. Strum, Rajesh Malik, Norman E. Sharpless (19 tháng 1 năm 2018). “Transient CDK4/6 inhibition protects hematopoietic stem cells from chemotherapy-induced exhaustion”. National Center of Biotechnology Information. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2023.
  19. ^ Zheng, Feiyue; Zhang, Yi; Chen, Shuang; Weng, Xiang; Rao, Yuefeng; Fang, Hongmei (1 tháng 3 năm 2020). “Mechanism and current progress of Poly ADP-ribose polymerase (PARP) inhibitors in the treatment of ovarian cancer”. Biomedicine & Pharmacotherapy (bằng tiếng Anh). 123: 109661. doi:10.1016/j.biopha.2019.109661. ISSN 0753-3322.
  20. ^ Matthew S. Waitkus, Bill Diplas, Hai Yan (13 tháng 8 năm 2019). “Biological role and therapeutic potential of IDH mutations in cancer”. National Center for Biotechnology Information. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2023.
  21. ^ Wouters, Bas J. (tháng 6 năm 2021). “Targeting IDH1 and IDH2 Mutations in Acute Myeloid Leukemia: Emerging Options and Pending Questions”. HemaSphere (bằng tiếng Anh). 5 (6): e583. doi:10.1097/HS9.0000000000000583. ISSN 2572-9241.
  22. ^ Zhu, Chunxiao; Guan, Xiaoqing; Zhang, Xinuo; Luan, Xin; Song, Zhengbo; Cheng, Xiangdong; Zhang, Weidong; Qin, Jiang-Jiang (4 tháng 8 năm 2022). “Targeting KRAS mutant cancers: from druggable therapy to drug resistance”. Molecular Cancer. 21 (1): 159. doi:10.1186/s12943-022-01629-2. ISSN 1476-4598.
  23. ^ Ostrem, Jonathan M.; Peters, Ulf; Sos, Martin L.; Wells, James A.; Shokat, Kevan M. (tháng 11 năm 2013). “K-Ras(G12C) inhibitors allosterically control GTP affinity and effector interactions”. Nature (bằng tiếng Anh). 503 (7477): 548–551. doi:10.1038/nature12796. ISSN 1476-4687.
  24. ^ aacrjournals.org https://aacrjournals.org/cancerdiscovery/article/6/3/316/5722/Selective-Inhibition-of-Oncogenic-KRAS-Output-with. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2023. |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  25. ^ Matthew R. Janes, Jingchuan Zhang, Lian-Sheng Li, Rasmus Hansen, Ulf Peters,1 Xin Guo, Yuching Chen, Anjali Babbar, Sarah J. Firdaus, Levan Darjania, Jun Feng, Jeffrey H. Chen, Shuangwei Li, Shisheng Li, Yun O. Long, Carol Thach, Yuan Liu, Ata Zarieh, Tess Ely, Jeff M. Kucharski, Linda V. Kessler, Tao Wu, Ke Yu, Yi Wang, Yvonne Yao, Xiaohu Deng, Patrick P. Zarrinkar, Dirk Brehmer, Dashyant Dhanak, Matthew V. Lorenzi, Dana Hu-Lowe, Matthew P. Patricelli, Pingda Ren, and Yi Liu. “Targeting KRAS Mutant Cancers with a Covalent G12C-Specific Inhibitor” (PDF). Cell. line feed character trong |các tác giả= tại ký tự số 314 (trợ giúp); line feed character trong |tựa đề= tại ký tự số 30 (trợ giúp)
  26. ^ Lanman, Brian A.; Allen, Jennifer R.; Allen, John G.; Amegadzie, Albert K.; Ashton, Kate S.; Booker, Shon K.; Chen, Jian Jeffrey; Chen, Ning; Frohn, Michael J. (9 tháng 1 năm 2020). “Discovery of a Covalent Inhibitor of KRAS G12C (AMG 510) for the Treatment of Solid Tumors”. Journal of Medicinal Chemistry (bằng tiếng Anh). 63 (1): 52–65. doi:10.1021/acs.jmedchem.9b01180. ISSN 0022-2623.
  27. ^ Fell, Jay B.; Fischer, John P.; Baer, Brian R.; Blake, James F.; Bouhana, Karyn; Briere, David M.; Brown, Karin D.; Burgess, Laurence E.; Burns, Aaron C. (9 tháng 7 năm 2020). “Identification of the Clinical Development Candidate MRTX849 , a Covalent KRAS G12C Inhibitor for the Treatment of Cancer”. Journal of Medicinal Chemistry (bằng tiếng Anh). 63 (13): 6679–6693. doi:10.1021/acs.jmedchem.9b02052. ISSN 0022-2623.
  28. ^ “National Cancer Institute - Keytruda”.
  29. ^ “National Cancer Institute - Pembrolizumab Use in Cancer”.
  30. ^ Freeman, Ciara L.; Sehn, Laurie H. (tháng 7 năm 2018). “A tale of two antibodies: obinutuzumab versus rituximab”. British Journal of Haematology (bằng tiếng Anh). 182 (1): 29–45. doi:10.1111/bjh.15232.
  31. ^ “Therascreen KRAS RGQ PCR Kit – P110030“. Device Approvals and Clearances. U.S. Food and Drug Administration. 2012-07-06.
  32. ^ European medicines Agency (June 2014). “Erbitux® Summary of Product Characteristics (PDF).“ 2015-11-19.
  33. ^ “Cetuximab (Erbitux). About the Center of Drug Evaluation and Research." U.S. Food and Drug Administration. 2015-11-16.
  34. ^ "Merck KGaA: European Commission Approves Erbitux for First-Line Use in Head and Neck Cancer" 2015-11-16
  35. ^ Pollack, Andrew (ngày 31 tháng 3 năm 2009). “F.D.A. Panel Supports Avastin to Treat Brain Tumor”. New York Times. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2009.

Liên kết ngoài sửa