Nguyễn Văn Phùng
Nguyễn Văn Phùng (sinh ngày 25 tháng 12 năm 1938) là một nhà giáo; nhà báo người Việt Nam dưới bút danh Ngân Sơn.[Chú giải 1][1][2][3] Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ tỉnh Nghệ Tĩnh (sau này là tỉnh Nghệ An), Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ Sơn La.[4][5] Ông nguyên là Giám đốc Đài Phát thanh và Truyền hình Nghệ An.[6]
Nguyễn Văn Phùng | |
---|---|
Sinh | Quỳnh Bá, Quỳnh Lưu, Nghệ An | 25 tháng 12, 1938
Quốc tịch | Việt Nam |
Nghề nghiệp | Nhà báo |
Tiểu sử
sửaÔng sinh ngày 25 tháng 12 năm 1938 tại xã Quỳnh Bá, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An trong một gia đình gồm 5 người con. Lớn lên trong gia đình nông dân nghèo nhưng sớm được tiếp xúc với giáo dục nên năm lên 6 tuổi, ông được theo học lớp Đồng ấu của trường Pháp Việt (1944). Sau cách mạng Tháng Tám, ông tiếp tục theo học hệ giáo dục mới đến năm 1951, ông tốt nghiệp chương trình tiểu học (lớp nhất).
Thời gian học tiểu học ông đã tham gia nhiều hoạt động phong trào thiếu nhi cứu quốc ở địa phương. Từ năm 1952-1956, ông theo học trường Trường phổ thông cấp 2 huyện Quỳnh Lưu ở quê nhà. Trong thời gian này, ông đã tham gia nhiều phong trào và hoạt động ở địa phương trong dịp hè như Bình dân học vụ, tính thuế nông nghiệp, tham gia làm đường Quốc lộ 37 và đào Kênh nhà Lê ở Quỳnh Thọ để phục vụ quân sự phối hợp với tổng phản công đánh thực dân Pháp ở các chiến trường.
Tháng 9 năm 1956, ông theo học trường Sư phạm Liên khu 4 do thầy Nguyễn Văn Sỹ làm hiệu trưởng. Ông làm lớp trưởng lớp 16 do thầy Trần Đình Tiêu làm chủ nhiệm. Ngoài ra ông còn tham gia Ban thường vụ Đoàn trường (1956-1957). Tháng 6 năm 1957, ông được cử làm đại biểu lên thăm bác Hồ trong dịp Người về thăm quê.
Quá trình công tác
sửaNgày 15 tháng 8 năm 1953, ông gia nhập Đoàn thanh niên Cứu quốc và được bầu làm Bí thư Chi đoàn Thanh niên Cứu quốc trường phổ thông cấp 2 huyện Quỳnh Lưu. Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 25 tháng 12 năm 1959 tại Đảng bộ xã Quỳnh Hoa. Từ đó ông đã giữ rất nhiều chức vụ quan trọng của Đảng và các đoàn thể.
Sau khi tốt nghiệp trường Sư phạm Liên khu 4, ông được Ty giáo dục Nghệ An bố trí về làm giáo viên trường tiểu học xã Quỳnh Bá (1957-1959). năm 1959-1960, ông được Phòng giáo dục huyện Quỳnh Lưu điều về dạy tại trường tiểu học xã Quỳnh Hoa. Trong thời gian dạy học ở đây, ông tham gia Ban chấp hành xã đoàn và Ban chấp hành huyện đoàn Quỳnh Lưu.
Năm 1960-1961, Ty giáo dục Nghệ An tiếp tục chỉ định ông đi học tại trường Trung cấp Sư phạm Nghệ An. Tại đây ông tham gia Ban chấp hành đoàn trường. Ông là đaị biểu đi dự hội nghị cải tiến công cụ toàn miền Bắc tổ chức ở Thanh Nam cùng với thầy Lê Văn Đệ. Tháng 7 năm 1961, sau khi tốt nghiệp ra trường, Tỉnh ủy Nghệ An đã điều động ông về công tác tại ban thiếu niên học sinh tỉnh Nghệ An.
Năm 1962, ông được cử đi học công tác thanh thiếu niên tại trường Điện ảnh Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội.
Tháng 8 năm 1965, ông là Phó ban thiếu niên học sinh, Ủy viên ban chấp hành tỉnh đoàn. Ông được đề bạt làm Ủy viên thường trực Ủy ban thiếu niên nhi đồng tỉnh Nghệ An
Trong thời gian công tác ở Tỉnh đoàn Nghệ An, ông đã tham mưu đề xuất và tổ chức thành công 3 sự kiện lớn: "Triển lãm Thiếu nhi Nghệ An với 5 điều Bác Hồ dạy", Đại hội Cháu ngoan Bác Hồ tỉnh Nghệ An lần thứ nhất (12 tháng 9 năm 1964) ở trường Nông lâm Nghi Kim và Đại hội Cháu ngoan Bác Hồ tỉnh Nghệ An lần thứ hai (26 tháng 3 năm 1967) ở xã Kim Liên, Nam Đàn.
Tháng 10 năm 1967 đến tháng 10 năm 1969, ông được tỉnh cử đi học trường Sư phạm Hà Nội 1. Thời gian này Đế quốc Mĩ ném bom miền Bắc rất ác liệt, nhà trường phải sơ tán về vùng Đoàn Đào, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên, sau về vùng Thượng Cát, Từ Liêm, Hà Nội.
Tốt nghiệp Đại học sư phạm, ông được tỉnh điều về công tác ở Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Nghệ An, chuyên viên khoa giáo theo dõi ngành giáo dục, y tế do ông Nguyễn Văn Giản làm trưởng ban. Thời gian này tỉnh ủy sơ tán về xã Hiến Sơn, huyện Đô Lương.
Năm 1970 ông được cử đi bồi dưỡng 3 tháng về công tác khoa giáo ở Đại Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội.
Tháng 9 năm 1975, ông được cử đi học trường Nguyễn Ái Quốc 1 ở Hải Dương. Ông được bầu làm bí thư chi bộ 5. Tháng 9 năm 1977, sau khi tốt nghiệp ra trường, ông được bố trí về Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh phụ trách tuyên truyền thời sự, văn hóa văn nghệ (lúc này đã sáp nhập hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh thành tỉnh Nghệ Tĩnh)
Để đối phó với chiến tranh xâm lược ở hai đầu biên giới, theo lệnh khẩn cấp của trung ương, ngày 18 tháng 6 năm 1978, Nghệ Tĩnh đã điều động 84 cán bộ chính trị tăng cường cho tỉnh Sơn La. Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh đã quyết định cử ông làm trưởng đoàn.
Từ năm 1978-1981, ông làm Trưởng phòng tuyên truyền và đến tháng 1 năm 1982, ông được tỉnh đề bạt làm Phó ban thường trực Tuyên giáo tỉnh ủy Sơn La. Ông còn tham gia đảng ủy khối dân chính Đảng và trực tiếp làm bí thư chi bộ nhiều khóa.
Tháng 7 năm 1984, ông được tỉnh cử đi học Trường quản lý Kinh tế trung ương tại quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ở tỉnh ủy Sơn La, ông đã cùng các bác Nguyễn Đình Lực, Lường Long (Trưởng ban) lãnh đạo ban tuyên giáo hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị. Ông đã góp phần đáng kể vào việc bồi dưỡng đào tạo một số cán bộ trẻ trong ban trưởng thành cán bộ cốt cán sau này như Tòng Thị Phóng, Thào Xuân Sùng, Cầm Thị Phụi, Lò Văn Hiến, Hoàng Tuyên, Cao Minh Châu.
Ngày 6 tháng 1 năm 1986, ông được hai tỉnh đồng ý cho chuyển về quê công tác ở ban tuyên giáo Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh.
Ngày 4 tháng 2 năm 1987, ông được tỉnh ủy Nghệ Tĩnh bổ nhiệm làm Phó ban thường trực ban Tuyên giáo do ông Đặng Duy Báu làm trưởng ban.
Ngày 10 tháng 11 năm 1988, ông được tỉnh cử tham gia đoàn đại biểu tỉnh Nghệ Tĩnh do ông Nguyễn Văn Giản - Chủ tịch UBND tỉnh làm trưởng đoàn sang dự lễ kỉ niệm 70 năm Cách mạng tháng mười Nga và thăm tỉnh Ulyanovsk, quê hương của Lenin.
Tháng 10 năm 1991, tỉnh Nghệ Tĩnh chia làm 2 tỉnh, ông được bổ nhiệm làm Bí thư Ban cán sự, Bí thư đảng ủy, Giám đốc kiêm Tổng biên tập Đài Phát thanh và Truyền hình Nghệ An
Tháng 12 năm 1994, ông tham gia đoàn cán bộ ngành truyền hình của Việt Nam sang tham quan, nghiên cứu nghiệp vụ tại Thái Lan và tham gia lớp bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí do hội Nhà báo Việt Nam và Đại sứ quán Pháp tại Hà Nội tổ chức.
Ngoài ra ông còn được học tập và nghiên cứu dài ngày tại Học viện kinh tế trung ương khóa 9 năm 1984 và Học viện Hành chính quốc gia khóa 1994 về quản lý hành chính nhà nước.
Thời gian | Chức vụ (Đảng, chính quyền, đoàn thể,...) | Đơn vị công tác | Số năm giữ chức vụ |
---|---|---|---|
1950-1952 | Đội trưởng Đội thiếu niên Tiền phong | Đội thiếu niên tiền phong xã Quỳnh Bá | 2 năm |
8/1953-1954 | Bí thư chi đoàn Thanh niên cứu quốc | Trường phổ thông cấp 2 huyện Quỳnh Lưu | 1 năm |
1954-1956 |
|
2 năm | |
9/1956-9/1957 | Thường vụ đoàn trường[7][8][9][10] | Trường sư phạm Liên khu 4 | 1 năm |
9/1957-9/1960 |
|
3 năm | |
9/1960-6/1961 | Trưởng lớp A-Xã hội | Trường sư phạm cấp hai Nghệ An | 1 năm |
1961-1969 | Phó ban thiếu niên học sinh, Ủy viên ban chấp hành tỉnh đoàn, thường trực Ủy ban Thiếu niên nhi đồng tỉnh Nghệ An[11][12] | Tỉnh đoàn Nghệ An | 9 năm |
10/1967-10/1969 | Lớp trưởng đoàn K3, bí thư Chi bộ nhà trường | Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1 | 2 năm |
11/1969-9/1975 | Chuyên viên Ban tuyên giáo Tỉnh ủy[13][14][15][16] | Tỉnh ủy Nghệ An | 6 năm |
9/1975-9/1977 | Bí thư chi bộ chi 5 | Trường Nguyễn Ái Quốc 1 TW | 2 năm |
9/1977-5/1978 | Chuyên viên Ban tuyên giáo Tỉnh ủy | Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh | 1 năm |
6/1978-10/1985 | Trưởng đoàn cán bộ tỉnh Nghệ Tĩnh tăng cường Tây Bắc - Phó ban thường trực, ban Tuyên giáo[17] | Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tỉnh Sơn La | 7 năm |
2/1987-5/1991 | Phó ban trực kiêm bí thư chi bộ,[18] ban Tuyên giáo tỉnh ủy; Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ các cơ quan cấp tỉnh[19][20] | Ban Tuyên giáo tỉnh ủy tỉnh Nghệ Tĩnh | 4 năm |
6/1992-3/1996 | Bí thư Ban cán sự, Bí thư đảng ủy, Giám đốc kiêm Tổng biên tập[21] | Đài Phát thanh và Truyền hình Nghệ An | 4 năm |
Sau khi ông về hưu vào tháng 4 năm 1996[Chú giải 2], ông còn tham gia Hội cựu giáo chức tỉnh Nghệ An[22] và là thường trực Hội cựu giáo chức Nghệ An khóa 1. Ông cũng là Trưởng ban liên lạc Cựu cán bộ Nghệ Tĩnh công tác tại Sơn La và Ban liên lạc cựu giáo sinh trường sư phạm Liên khu 4.
Tác phẩm
sửaSách
sửa- Lịch sử xã Quỳnh Bá (2002), Nhà xuất bản Nghệ An ấn hành, cùng với các tác giả khác như Võ Văn Hoành, Võ Văn Tiếp, Ngô Văn Phú,...[23][24]
Bài báo
sửa- Nguyễn Văn Phùng (tháng 9 năm 1996). “Nghĩ về những bước đi”. Phát thanh - Truyền hình Nghệ An. Vinh: Nhà xuất bản Nghệ An: 13–14.
- Nguyễn Văn Phùng (2004). “Chống tham nhũng – một việc làm chẳng mấy thuận lợi”. Phát thanh - Truyền hình Nghệ An vững bước trên con đường phát triển. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao động - Xã hội. tr. 98-100.
Khen thưởng
sửa- Huân chương Lao động hạng 2.
- Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng[Chú giải 3]
- Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhì[Chú giải 4]
- Huy chương kháng chiến hạng nhất- Gia đình có công với cách mạng[Chú giải 5]
- Huy chương Vì thế hệ trẻ
- Huy chương Vì sự nghiệp Văn hóa tư tưởng của Đảng
- Huy chương vì sự nghiệp báo chí Việt Nam; Vì sự nghiệp Tiếng nói Việt Nam; Vì sự nghiệp Truyền hình Việt Nam
- Huy chương vì sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh Sơn La
- Bằng khen Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; Trung ương hội cựu giáo chức Việt Nam; Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An
- Kỉ niệm chương Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; Tuyên giáo; Báo chí; Phát thanh-Truyền hình; Giáo dục;...
Tham khảo
sửaChú thích
sửa- ^ Căn cứ hồ sơ gốc lưu tại phòng Quản lý hồ sơ cán bộ, Ban tổ chức Tỉnh uỷ tỉnh Nghệ An
- ^ Theo quyết định số 26 ngày 22/1/1999 của Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An
- ^ Quyết định số 6647/QĐTW ngày 7/11/2019
- ^ Quyết định số 727-KT/HĐNN ngày 21/8/1985. Vào sổ vàng số 469
- ^ Quyết định số 73 QĐ/CTN do chủ tịch nước Trần Đức Lương kí ngày 6/1/2006. Vào sổ vàng số 249
Nguồn
sửa- ^ Bùi Thị Ngọc (2020). Lịch sử Ngành Tuyên giáo Đảng bộ tỉnh Nghệ An (1930-2020). Nghệ An: Nhà xuất bản Nghệ An. tr. 268, 279. ISBN 978-604-964-613-3.
- ^ Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Hà Tĩnh (2020). Ngành Tuyên giáo Đảng bộ Hà Tĩnh, 90 năm xây dựng và trưởng thành. Hà Tĩnh. tr. 198.
- ^ Bạch Hưng Đào, Bùi Ngọc Tam, Phạm Đình Nguyên, Nguyễn Yêm, Ngô Xuân Lan (2 tháng 7 năm 2005). 75 năm công tác tuyên giáo Đảng bộ Nghệ An, 1930-2005. Nghệ An: Nhà xuất bản Nghệ An. tr. 260, 86. OCLC 228033667.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ Bùi Ngọc Tam (1999). Lịch sử Đảng bộ Nghệ An. 2. Nghệ An: Nhà xuất bản Nghệ An.
- ^ Sự kiện lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1954-1975). Nghệ An: Nhà xuất bản Nghệ An. 1995.
- ^ Bộ Văn hóa Thông tin (tháng 8 năm 1995). 50 năm ngành văn hóa và thông tin Việt Nam, 28-8-1945--28-8-1995. Hà Nội: Bộ Văn hóa Thông tin. tr. 174. OCLC 43207042.
- ^ “NHỚ VỀ TRƯỜNG SƯ PHẠM LIÊN KHU IV”. Cổng thông tin điện tử Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Nghệ An. 30 tháng 7 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2020.
- ^ Nguyễn, Đình Noãn (tháng 6 năm 2015). “Một trường học chất lượng cao trong kháng chiến”. Tạp chí KH-CN Nghệ An: 39–42. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2020.
- ^ Nguyễn Đình Noãn (30 tháng 10 năm 2007). “Ơn sâu, nghĩa nặng”. Báo Nghệ An. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2020.
- ^ Lương Vĩnh Khang (5 tháng 12 năm 2013). “Một mái trường bậc đại học ở Thanh Hoá thời ấy”. Văn nghệ Công An. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2020.
- ^ Nguyễn Sỹ Đề (2020). Kỷ yếu cán bộ cơ quan Tỉnh đoàn Nghệ Tĩnh. Nghệ An: Nhà xuất bản Nghệ An. tr. 86.
- ^ Bùi Ngọc Tam (chủ biên); Nguyễn Như Khôi (2001). Lịch sử Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào thanh niên Nghệ An (1925-2000). Nghệ An: Nhà xuất bản Thanh niên. tr. 174.
- ^ Quang Minh (20 tháng 9 năm 2019). “Giới thiệu về Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Nghệ An”. Cổng thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh Nghệ An. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2020.
- ^ Thanh Quỳnh (30 tháng 7 năm 2020). “Gặp mặt cán bộ Tuyên giáo Nghệ An qua các thời kỳ”. Cổng thông tin điện tử tỉnh Nghệ An. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2020.
- ^ Bạch Hưng Đào, Bùi Ngọc Tam, Phạm Đình Nguyên, Nguyễn Yêm, Ngô Xuân Lan (2 tháng 7 năm 2005). 75 năm công tác Tuyên giáo Đảng bộ Nghệ An. Nhà xuất bản Nghệ An. tr. 179–201.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
- ^ Nhiều tác giả. Văn kiện, tài liệu Đảng bộ Nghệ An., lưu trữ tại văn phòng Tỉnh ủy Nghệ An
- ^ Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Sơn La (2010). Lịch sử Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Sơn La (1946-2005). Sơn La: Nhà xuất bản Chính trị-Hành chính. tr. 145–171, 247, 258.
- ^ Hồ Văn Sơn, Bùi Ngọc, Trịnh Thị Thùy, Phạm Thị Hằng, Phạm Ngọc Chi, Nguyễn Châu Sa (2014). Lịch sử Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh Nghệ An (1954 - 2014) (Sơ thảo) (PDF). Nghệ An: Nhà xuất bản Nghệ An. tr. 321. ISBN 978-604-906-243-8.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ Bùi Ngọc Tam (1998). Lịch sử Đảng bộ Nghệ An. 1. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
- ^ Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Nghệ An (2005). 75 năm công tác Tuyên giáo Đảng bộ tỉnh Nghệ An. Nghệ An: Nhà xuất bản Nghệ An. tr. 198, 260.
- ^ Tô, Huy Rứa (1998). Thư tịch báo chí Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. tr. 130. OCLC 42736868.
- ^ Phạm Huy Đức (11 tháng 4 năm 2022). “Kỷ niệm 15 năm thành lập Hội CGC Nghệ An (16-4-2007 - 16-4-2022): ĐẠI HỘI I, NHIỆM KỲ 2007-2012”. Sở GD&ĐT tỉnh Nghệ An. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2023.[liên kết hỏng]
- ^ “Lịch sử Quỳnh Bá”. Thư viện Quốc gia Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2020.
- ^ “Lịch sử xã Quỳnh Bá”. WorldCat. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2021.