Binh chủng Nhảy dù Việt Nam Cộng hòa

Binh chủng Nhảy Dù Quân lực Việt Nam Cộng hòa là lực lượng tác chiến đổ bộ đường không của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Khởi đầu là các đơn vị nhảy dù được quân đội Liên hiệp Pháp huấn luyện, sau phục vụ cho Quân đội Quốc gia Việt Nam, từ khi thành lập đến khi tan rã đơn vị nhảy dù phát triển quân số đến quy mô cấp sư đoàn với tên gọi chính thức: Sư đoàn Nhảy dù Việt Nam Cộng hòa - (hay tên gọi tiếng Anh: Vietnamese Airborne Division, VNAD) và trở thành đơn vị Tổng trừ bị trực thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là binh chủng có tính cơ động cao nhất của Quân lực Việt Nam Cộng hòa vì được hỗ trợ không vận từ máy bay vận tải DHC-4C-130 của Không lực Việt Nam Cộng hòa với khả năng đổ bộ trên mọi vùng chiến sự thuộc toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa. Khác với Thủy quân lục chiến được yếm trợ hỏa lực tối đa hay Biệt động quân được hỗ trợ quân vận liên tục, binh chủng Nhảy dù thiên về kỹ thuật chiến đấu cá nhân với khả năng dùng không vận bay qua chốt phòng ngự, cũng như chuyên được sử dụng để đụng độ với các đơn vị bộ binh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Bộ Tư lệnh sư đoàn đặt tại trại Hoàng Hoa Thám ngay cạnh Sân bay Tân Sơn Nhất.

  • Bài ca chính thức: Sư đoàn Nhảy dù hành khúc.
  • Thánh tổ: Tổng lãnh thiên thần Michael
  • Đặc điểm nhận dạng: quân phục rằn ri với phù hiệu Sư đoàn Nhảy dù bên tay áo trái, nón beret (bê-rê, mũ nồi) màu đỏ có gắn phù hiệu Dù.
Binh chủng Nhảy Dù
Phù hiệu
Hoạt động1955 - 1975
Quốc gia Việt Nam Cộng hòa
Phục vụ Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Phân loạiLực lượng vũ trang
Tên khácThiên binh Thiên thần sát cộng
Khẩu hiệuHộ quốc thần tốc
Từ trên trời giáng xuống
Tham chiến- Trận Mậu Thân
- Chiến dịch Campuchia
- Mùa hè đỏ lửa
Các tư lệnh
Chỉ huy
nổi tiếng
- Đỗ Cao Trí
- Nguyễn Văn Vỹ
- Cao Văn Viên
- Nguyễn Khánh
- Dư Quốc Đống
- Nguyễn Chánh Thi
- Nguyễn Khoa Nam
- Đoàn Văn Quảng
- Lê Quang Lưỡng
Quân kỳ

Lịch sử hình thành

 
Một áp phích tổng động viên thời Quốc gia Việt Nam.

Những đơn vị tiền thân

Mặc dù nhanh chóng tái kiểm soát được phần lớn Đông Dương, người Pháp vẫn vấp phải cuộc kháng chiến quyết liệt của những người bản xứ theo chủ nghĩa dân tộc dưới sự lãnh đạo của Việt Minh. Trước viễn cảnh cuộc chiến lâu dài với Việt Minh, các chỉ huy của lực lượng viễn chinh Pháp đã quyết định thành lập những đơn vị chiến đấu người bản xứ nhằm tăng cường và bổ sung thêm binh lực. Ngày 1 tháng 1 năm 1948, đơn vị nhảy dù đầu tiên gồm phần lớn là người Việt là Đại đội 1 Nhảy dù Dông Dương [1ere Compagnie Indochinoise Parachutiste - CIP] được thành lập, Đại đội trưởng người Pháp là Đại úy Grillet-Paysan. Liền sau đó là các Đại đội Nhảy dù Đông Dương 2, 3, 5 và Đại đội Nhảy dù Lê Dương (Compagnie Indochinoise Parachutiste Légion Etrangère) được thành lập. Mỗi một Đại đội Nhảy dù được biệt phái làm Đại đội thứ 4 cho mỗi các Tiểu đoàn 1, 2, 3 và 5 Biệt kích Nhảy dù Thuộc địa Pháp (BCCP - Bataillon Colonial de Commandos Parachutistes) và Tiểu đoàn 1 Nhảy dù Lê dương (1er BEP).

Phần lớn chỉ huy các đơn vị Nhảy dù này đều là người Pháp, kể cả ở cấp Trung đội. Chỉ duy nhất có Đại đội 3 Nhảy dù Đông Dương (3ème CIP), tiền thân là Đại đội Nhảy dù Bắc Kỳ (Compagnie Tonkinoise Parachutiste) thành lập tháng 5 năm 1948 do Đại úy Nguyễn Văn Vỹ chỉ huy (vì vậy đơn vị này còn được gọi là Compagnie Vỹ). Thậm chí, chỉ có mỗi Thiếu úy Đoàn Văn Quảng là sĩ quan Trung đội trưởng người Việt duy nhất trong Đại đội này.

Năm 1949, Đại đội Nhảy dù Liên đoàn Phòng vệ Nam Việt "Escadron Parachutiste Garde du Việt Nam Sud-EPGVNS" được thành lập tại Thủ Đức, là một đơn vị biệt lập xuất nguồn từ "Liên đoàn Phòng vệ Cộng hòa Nam Việt" (Garde Répubiique de Cochinchine). Đại úy Richard (người Pháp) làm chỉ huy Đại đội, và đến tháng 6 năm 1951 Trung úy Nguyễn Khánh từ Trung đoàn Ngự lâm quân chuyển về làm Đại đội Phó.

Sau khi quy chế về Quân đội Quốc gia Việt Nam được hình thành, ngày 1 tháng 8 năm 1951, Tiểu đoàn 1 Nhảy dù Việt Nam được thành lập tại Chí Hòa, Sài Gòn, xây dựng từ Đại đội 1 Nhảy dù Đông Dương và Đại đội Nhảy dù Phòng vệ Nam Việt. Tiểu đoàn có 2 Trung tâm Huấn luyện tại Căn cứ Tân Sơn Nhất, Sài Gòn và tại Phi trường Bạch Mai, Hà Nội. Lần lượt tiếp theo sau đó các Tiểu đoàn Nhảy dù số 3, 4, 5, 7 và 6 được thành lập trong thời gian 1952-1954, trở thành những Tiểu đoàn Nhảy dù thuộc biên chế Quân đội Quốc gia Việt Nam, dù trên thực tế chiến đấu dưới sự điều động của quân đội Liên hiệp Pháp.

Đệ nhất Cộng hòa

Ngày 29/9/1954 Pháp bàn giao quân đội lại cho chính phủ Việt Nam. Trong các trận đánh với quân đối phương, tiểu đoàn 4,7 bị thiệt hại nặng và giải tán để lấy quân số bổ sung cho Bộ chỉ huy và đội yểm trợ. Liên đoàn Nhảy dù được thành lập từ 4 Tiểu đoàn 1, 3, 5 và 6. Chỉ huy trưởng Liên đoàn là Thiếu tá Đỗ Cao Trí. Liên đoàn có khoảng 4.000 người gồm Bộ chỉ huy, các Tiểu đoàn 1, 3, 5, 6 và Tiểu đoàn Trợ chiến (Gồm các Đại đội Quân y, Công Binh, Kỹ thuật và Súng cối, một Phân đội Truyền tin và một Trung đội Tiếp tế thả dù). Đến giữa năm 1955 toàn bộ Liên đoàn đã đóng quân tại Sài Gòn, Trung tâm Huấn luyện Nhảy Dù cũng được thành lập tại căn cứ Tân Sơn Nhất.

Ngày 1/9/1956 Trung tá Nguyễn Chánh Thi thay thế Đại tá Đỗ Cao Trí nhận chức vụ Chỉ huy trưởng. Năm 1959 Liên đoàn đổi tên thành Lữ đoàn Nhảy dù. Ngày 12/11/1960 Trung tá Cao Văn Viên được cử giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Lữ đoàn, thay thế Đại tá Nguyễn Chánh Thi tham gia đảo chính bất thành.

Năm 1961 Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 8 Nhảy dù được thành lập. Năm 1962 Liên đoàn Nhảy dù tổ chức thành 2 Chiến đoàn Nhẩy Dù. Thiếu tá Dư Quốc Đống là Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 1 gồm các Tiểu đoàn 1, 3 và 8, đóng tại Căn cứ Hoàng Hoa Thám. Thiếu tá Đỗ Kế Giai là Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 2 gồm các Tiểu đoàn 5, 6 và 7, đóng tại Tam Hiệp, Biên Hòa.

Đệ nhị Cộng hòa

Năm 1964 Đại tá Cao Văn Viên được đặc cách thăng Thiếu tướng ngay tại mặt trận sau chiến thắng Hồng Ngự, bổ nhiệm về Bộ Tổng Tham mưu, Trung tá Dư Quốc Đống lên giữ chức vụ Tư lệnh Lữ đoàn Nhảy Dù.

Giữa năm 1965 Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù và Tiểu đoàn Pháo binh được thành lập. Đơn vị Quân y được nâng cấp thành Tiểu đoàn Quân y.

Ngày 1/12/1965 Lữ đoàn Nhảy Dù tổ chức nâng cấp thành Sư đoàn. (Bộ Tư lệnh Sư đoàn được đặt tại trại Hoàng Hoa Thám, Tân Bình, Gia Định). Các Chiến đoàn 1 và 2 đổi tên thành Lữ đoàn, do Trung tá Hồ Trung Hậu (Lữ đoàn 1) và Trung tá Đào Văn Hùng[1] chỉ huy (Lữ đoàn 2). Lữ đoàn 3 Nhẩy Dù được thành lập, Trung tá Nguyễn Khoa Nam là Lữ đoàn trưởng.

 
Lính dù Hoàng Ngọc Giao (Tiểu đoàn 5) chuẩn bị thực hiện một phi vụ nhảy toán

Tiểu đoàn 11 Nhảy dù được thành lập năm 1967. Tiểu đoàn Yểm trợ KBC 4759 (Tiền thân là Tiểu đoàn Trợ chiến) được thành lập ngày 1/11/1968, có 6 Đại đội là: Đại đội Chỉ huy và Công vụ, Đại đội kỹ thuật, Đại đội Tài chính, Đại đội Vận tải, Đại đội Tiếp liệu, Đại đội Bảo trì và 4 Phân đội Tiếp vận Hành quân, yểm trợ với 4 Lữ đoàn tác chiến. Đồn trú trong Căn cứ Hoàng Hoa Thám. Tiểu đoàn trưởng đầu tiên là Thiếu tá Tống Hồ Hàm.[2] Tiểu đoàn trưởng cuối cùng là Thiếu tá Võ Văn Thu.

Năm 1968, Sư đoàn Nhảy dù đã hoàn chỉnh với 3 Lữ đoàn gồm 9 Tiểu đoàn tác chiến, 3 Đại đội Trinh sát và 3 Tiểu đoàn Pháo binh. Dù bị thiệt hại khá nặng qua các chiến dịch trong Tet Offensive, đơn vị vẫn kịp thời được bổ sung và giữ vững đội hình.

Đầu năm 1974, thành lập Lữ đoàn 4 với các Tiểu đoàn trực thuộc tân lập gồm: 3 Tiểu đoàn 12, 14 và 15. Đồng thời thành lập thêm 3 Tiểu đoàn biệt lập trực thuộc Bộ Tư lệnh Sư đoàn: Tiểu đoàn 16, 17 và 18.

Nhảy dù là một đơn vị đặc biệt, Tổng trừ bị của QLVNCH

Sư đoàn Nhảy dù là một đơn vị tinh nhuệ và thiện chiến của Quân lực Việt Nam Việt Nam Cộng hòa, đặt dưới quyền điều động trực tiếp của Bộ Tổng Tham mưu. Quân nhân trong Sư đoàn từ binh sĩ đến sĩ quan đều là thành phần tình nguyện sau khi mãn khóa quân trường, tuy nhiên vẫn phải qua một quá trình tuyển chọn rất kỹ lưỡng mới được gia nhập vào binh chủng. Đặc biệt đa phần lực lượng là con em Công giáo, trong số đó cũng có khá nhiều người miền bắc di cư năm 1954. Được huấn luyện nhẩy dù và ôn tập tác chiến rất chu đáo, trang bị vũ khí tối tân.

Những trận chiến và biến cố lớn

Từ khi thành lập đến khi hoàn thiện, Sư đoàn Nhảy dù liên tiếp đối đầu với những đơn vị mạnh của đối phương. Sư đoàn tham gia chiến tranh cục bộ, những trận chiến Mậu Thân, Việt Nam hóa chiến tranh với những thương vong cực lớn và cũng được chính đối phương đánh giá cao.

Năm 1971, Sư đoàn Nhảy dù đã tham gia Chiến dịch Lam Sơn 719. Dù có Không quân Mỹ yểm trợ, Sư đoàn vẫn mắc bẫy đối phương và bị Sư đoàn 320 (F320A) Quân đội Nhân dân VN tiêu diệt mất Lữ đoàn 3, bắt sống Lữ đoàn trưởng Nguyễn Văn Thọ.[3] Quân Nhảy dù bị đánh thiệt hại rất nặng trong chiến dịch này.

Năm 1972, sau Mùa hè đỏ lửa Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng giữ chức vụ Sư đoàn trưởng. Đầu năm 1974 Lữ đoàn 4 Nhảy dù được thành lập, Trung tá Lê Minh Ngọc[4] là Lữ đoàn trưởng. Ngày 20 tháng 4 năm 1975, Lữ đoàn phó là Trung tá Nguyễn Đình Ngọc[5] lên thay và chỉ huy Lữ đoàn 4 phòng thủ Sài Gòn.

Năm 1974, Lữ đoàn 1 và 2 Nhảy dù đã cùng với Sư đoàn 3 Bộ binh tiến hành tái chiếm lại Thượng Đức, một tiền đồn quan trọng của Việt Nam Cộng hòa đã bị Sư đoàn 304 Quân đội Nhân dân VN đánh chiếm trước đó.

  • Tái chiếm lần thứ nhất vào ngày 19-9-1974.
  • Tái chiếm lần thứ hai vào ngày 11-11-1974. Đến cuối năm, đơn vị Nhảy dù thất bại và rút ra ngoài gần hết quân, chỉ để lại 2 Tiểu đoàn cầm cự lẻ tẻ.

Năm 1975, Ban Mê Thuột thất thủ, Sư đoàn 23 Bộ binh bị đánh tan ở Nông trại Phước An và sân bay Hòa Bình, phía đông Ban Mê Thuột. Lữ đoàn 3 Nhảy dù đã được điều từ Vùng 1 Chiến thuật vào giữ đèo Phụng Hoàng ngăn đối phương phát triển xuống đồng bằng, đơn vị này kháng cự được một thời gian ngắn và bị tan rã, chỉ có một số kịp di tản xuống phía nam.

Cùng với việc Lữ đoàn 3 Nhảy dù được gửi đến đèo Phụng Hoàng, Lữ đoàn 1 và 2 Nhảy dù được điều về miền đông phòng thủ trước cửa ngõ Sài Gòn. Các đơn vị này đã tham gia trận đánh lớn cuối cùng bên cạnh Sư đoàn 18 Bộ binh và Liên đoàn 81 Biệt cách dù tại Xuân Lộc, đánh trả Quân đoàn 4 gồm các Sư đoàn 341, 6 và 7 của Quân đội Nhân dân VN.

Phần còn lại của lực lượng Nhảy dù đã về Sài Gòn khi Xuân Lộc thất thủ. Họ đã chiến đấu với Sư đoàn 325 và không cản được lữ đoàn xe tăng 203 của Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến về Dinh Độc Lập. Khi Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, các lực lượng lính dù còn lại đã tan rã.

Đơn vị trực thuộc


Stt Đơn vị[6] Stt Đơn vị
1
Lữ đoàn 1[7]
-Tiểu đoàn 1[8]
-Tiểu đoàn 8[9]
-Tiểu đoàn 9[10]
-Đại đội 1 Trinh sát
-Phân đội 1 YTHQ[11]
10
Ban Quân nhạc
2
Lữ đoàn 2[12]
-Tiểu đoàn 5[13]
-Tiểu đoàn 7[14]
-Tiểu đoàn 11[15]
-Đại đội 2 Trinh sát
-Phân đội 2 YTHQ
11
Tiểu đoàn Quân y
3
Lữ đoàn 3[16]
-Tiểu đoàn 2[17]
-Tiểu đoàn 3[18]
-Tiểu đoàn 6[19]
-Đại đội 3 Trinh sát
-Phân đội 3 YTHQ
12
Tiểu đoàn Truyền tin
4
Lữ đoàn 4
-Tiểu đoàn 12
-Tiểu đoàn 14
-Tiểu đoàn 15
-Đại đội 4 Trinh sát
-Phân đội 4 YTHQ
13
Tiểu đoàn Trợ chiến
-Đại đội Chỉ huy
-Đại đội Công vụ
-Đại đội Tài chính
-Đại đội Vận tải
-Đại đội Tiếp liệu
-Đại đội Kỹ thuật
-Đại đội Bảo trì
5
Lữ đoàn 5
(Đang hình thành)
-Tiểu đoàn 16
-Tiểu đoàn 17
-Tiểu đoàn 18
- Đại đội 5 Trinh sát
14
Trung tâm Huấn luyện
Vương Mộng Hồng
6
Bộ chỉ huy
Tổng hành dinh[20]
15
Tiểu đoàn Huấn luyện
Vương Mộng Hồng
7
Đại đội Quân cảnh 204
16
Khối Bổ sung
8
Đại đội Thám báo
Dưới quyền điều động trực tiếp của Tư lệnh Sư đoàn
17
Bệnh viện Đỗ Vinh
9
Biệt đội
Tác chiến Điện tử
18
Bộ chỉ huy Pháo binh
(Trang bị đại bác 105ly)
-Tiểu đoàn 1
-Tiểu đoàn 2
-Tiểu đoàn 3
-Tiểu đoàn 4
-Tiểu đoàn 5 (Đang hình thành)

Chỉ huy Sư đoàn, Lữ đoàn, Tiểu đoàn tháng 4/1975

Stt Cấp bậc Họ và tên Chức vụ
1
Chuẩn tướng
Lê Quang Lưỡng
Tư lệnh[21]
2
Đại tá
Trương Vĩnh Phước[22]
Võ khoa Thủ Đức K4[23]
Tư lệnh phó
3
Văn Bá Ninh[24]
Võ bị Đà Lạt K6
Tham mưu trưởng
Cấp bậc
Tiểu đoàn trưởng
4
Trung tá
Nguyễn Văn Đĩnh
Võ bị Đà Lạt K15
Lê Hồng
Đặc biệt Đồng đế K4
Chỉ huy trưởng
Lữ đoàn 1
Chỉ huy phó
Thiếu tá
Thiếu tá
Thiếu tá
Đại úy
Ngô Tùng Châu - Tiểu đoàn 1
Nguyễn Viết Thanh[25] - Tiểu đoàn 8
Lê Mạnh Đường[26] - Tiểu đoàn 9
Võ Văn Đức - Đại đội 1 Trinh sát
5
Đại tá
Trung tá
Nguyễn Thu Lương[27]
Võ khoa Thủ Đức K4
Trần Văn Sơn
Võ khoa Thủ Đức K8
Chỉ huy trưởng
Lữ đoàn 2
Chỉ huy phó
Thiếu tá
Thiếu tá
Thiếu tá
Đại úy
Võ Trọng Em - Tiểu đoàn 5
Nguyễn Lô[28] - Tiểu đoàn 7
Lê Văn Phương[29] - Tiểu đoàn 11
Mai Văn Sang - Đại đội 2 Trinh sát
6
Trung tá
Trần Đăng Khôi[30]
Võ bị Đà Lạt K16
Bùi Quyền[31]
Võ bị Đà Lạt K16
Chỉ huy trưởng
Lữ đoàn 3
Chỉ huy phó
Thiếu tá
Thiếu tá
Thiếu tá
Đại úy
Trần Công Hạnh[32] - Tiểu đoàn 2
Lã Quý Trang[33] - Tiểu đoàn 3
Trần Tấn Hòa[34] - Tiểu đoàn 6
Nguyễn Viết Hoạch - Đại đội 3 Trinh sát
7
Lê Minh Ngọc
Võ bị Đà Lạt K16
Nguyễn Đình Ngọc
Võ bị Đà Lạt K19
Chỉ huy trưởng
Lữ đoàn 4
Chỉ huy phó
Thiếu tá
Thiếu tá
Thiếu tá
Trung úy
Nguyễn Văn Nghiêm[35] - Tiểu đoàn 12
Nguyễn Đức Tâm[36] - Tiểu đoàn 14
Nguyễn Văn Phú - Tiểu đoàn 15
Trần Chí Mỹ - Đại đội 4 Trinh sát
8
Lữ đoàn 5
(Đang hình thành)
Trung tá
Thiếu tá
Thiếu tá
Phạm Kim Bằng[37] - Tiểu đoàn 16
Hồng Thu - Tiểu đoàn 17
Lê Hữu Chí - Tiểu đoàn 18
9
Đại tá
Trung tá
Nguyễn Văn Tường[38]
Võ khoa Thủ Đức K4
Nguyễn Văn Lước
Võ khoa Thủ Đức K7
Chỉ huy trưởng
Pháo binh
Chỉ huy phó
Thiếu tá
Nguyễn Bá Trí - Tiểu đoàn 1/PB
Nguyễn Ngọc Triệu[39] - Tiểu đoàn 2/PB
Nguyễn Văn Thông[40] - Tiểu đoàn 3/PB
Đặng Hữu Minh - Tiểu đoàn 4/PB

Chỉ huy Lữ đoàn và Đơn vị Yểm trợ qua các thời kỳ

Stt Đơn vị Họ và tên Cấp bậc Tại chức Chú thích
Lữ đoàn 1
Đơn vị tác chiến
Năm 1961, thành lập với danh xưng ban đầu là Chiến đoàn 1, đến năm 1968 đổi tên thành Lữ đoàn 1
1
Dư Quốc Đống
Võ bị Đà Lạt K5
Thiếu tá[41]
1961-1964
2
Bùi Kim Kha[42]
Võ bị Đà Lạt K8
1964-1966
Năm 1970 là Đại tá Tham mưu trưởng Sư đoàn Dù
3
Hồ Trung Hậu
Thủ Đức K4
1966-1967
4
Lê Quang Lưỡng
Võ khoa Thủ Đức K4
1967-1972
5
Lê Văn Ngọc[43]
Võ khoa Thủ Đức K5
Trung tá
1972-1974
Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng sau cùng của Tỉnh Quảng Ngãi
6
Nguyễn Văn Đỉnh
Võ bị Đà lạt K15
1974-1975
Lữ đoàn 2
Đơn vị tác chiến
Thành lập Chiến đoàn và đổi tên thành Lữ đoàn cùng thời điểm với Lữ đoàn 1
1
Đỗ Kế Giai
Võ bị Đà Lạt K5
Thiếu tá
1961
2
Hồ Tiêu[44]
Võ bị Địa phương
Trung Việt Huế K2
1961-1963
Là Đại tá Tư lệnh sau cùng của Binh chủng Lực lượng Đặc biệt (Giải tán năm 1970)
3
Đỗ Kế Giai
1963-1964
4
Trương Quang Ân
Đà Lạt K7
1964-1965
5
Ngô Xuân Nghị[45]
Võ bị Đà Lạt K8
1965-1966
Sau cùng là Đại tá Chánh Sở Công tác Nha Kỹ thuật Bộ Tổng tham mưu
6
Đào Văn Hùng
Trường HSQ Pháp
1966-1968
Sau cùng là Trung tá Tham mưu phó Bộ Tư lệnh Sư đoàn Dù
7
Trần Quốc Lịch
Võ khoa Thủ Đức K4p
Trung tá
1968-1972
8
Nguyễn Thu Lương
Võ khoa Thủ Đức K4
Đại tá
1972-1974
9
Lê Minh Ngọc[46]
Võ bị Đà Lạt K16
Trung tá
1974
10
Nguyễn Thu Lương
Đại tá
1974-1975
11
Đào Thiện Tuyển
Võ bị Đà Lạt K14
Trung tá
3/1975
Ngày 16/3/1975, Đại tá Lương bị địch bắt tại mặt trận Phan Rang, Trung tá Tuyển được chỉ định thay thế làm Lữ trưởng đến 30/4/1975
Lữ đoàn 3
Đơn vị tác chiến
Năm 1966, thành lập với danh xưng ban đầu là Chiến đoàn 3, đổi tên thành Lữ đoàn cùng thời điểm với Lữ đoàn 1 và 2
1
Nguyễn Khoa Nam
Thủ Đức K3
Trung tá
1966-1970
2
Nguyễn Văn Thọ[47]
Võ khoa Thủ Đức K4
1970-1971
Bị địch bắt làm tù binh trong trận Hạ Lào Lam Sơn 719 năm 1971
3
Trương Vĩnh Phước[48]
Võ khoa Thủ Đức K4
1971-1972
4
Văn Bá Ninh
Võ bị Đà Lạt K6
1972-1974
5
Lê Văn Phát[49]
Võ khoa Thủ Đức K4
1974-1975
6
Trần Đăng Khôi[50]
Võ bị Đà Lạt K16
1975
Lữ đoàn 4
(Tân lập)
Đơn vị tác chiến
7
Lê Minh Ngọc
Võ bị Đà Lạt K16
1974-1975
Pháo binh
Đơn vị Yểm trợ
Năm 1965, Lữ đoàn Dù được nâng cấp Sư đoàn đồng thời thành lập Tiểu đoàn Pháo binh (mỗi Lữ đoàn có 1 Pháo đội yểm trợ). Thiếu tá Huỳnh Long Phi được cử làm Tiểu đoàn trưởng. Đến năm 1968, thành lập thêm 2 Tiểu đoàn nữa đồng thời thành lập Bộ chỉ huy Pháo binh. Thiếu tá Phi vẫn là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Dù đầu tiên (đổi tên thành Tiểu đoàn 1 Pháo binh) kiêm Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Pháo binh Sư đoàn Dù.
1
Huỳnh Long Phi[51]
Võ khoa Thủ Đức K4
Thiếu tá
1965-1971
Năm 1972, tử nạn trực thăng trong khi thi hành nhiệm vụ, được truy thăng Đại tá
2
Nguyễn Văn Tường
Võ khoa Thủ Đức K4
Trung tá
1971-1975
Cấp bậc sau cùng là Đại tá
Trợ chiến
Tiểu đoàn Yểm trợ
Đơn vị này, năm 1954 Binh chủng Nhảy dù của Quân đội Liên hiệp Pháp bàn giao cho Quân đội Quốc gia, đã cử 1 sĩ quan VN chỉ huy. Năm 1955 cơ cấu lại thành Tiểu đoàn Trợ chiến Nhảy dù. Năm 1968 đổi tên thành Tiểu đoàn Yểm trợ Nhảy dù
1
Trịnh Xuân Nghiêm[52]
Võ bị Đà Lạt K3
Đại úy
1954
Sau cùng là Đại tá Tham mưu trưởng Trường Chỉ huy & Tham mưu (từ năm 1972)
2
Nguyễn Thọ Lập[53]
Võ bị Đà Lạt K5
1954-1956
Sau cùng là Đại tá Trung đoàn trưởng Trung đoàn 15, SĐ 9 BB. Giải ngũ năm 1973.
3
Nguyễn Thành Chuẩn[54]
Võ bị Đà Lạt K6
1956-1960
Năm 1959, các đơn vị trực thuộc Tiểu đoàn Trợ chiến được chuyển trực thuộc Bộ Tư lệnh Lữ đoàn Nhảy dù. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn Trợ chiến trở thành Bộ chỉ huy Căn cứ (trại) Hoàng Hoa Thám, Đến năm 1965 trở thành Bộ chỉ huy Tổng hành dinh Sư đoàn Nhảy dù. Do đó Tiểu đoàn trưởng Trợ chiến kiêm Chỉ huy trưởng Trại Hoàng Hoa Thám và sau đó là Chỉ huy trưởng Tổng hành dinh Sư đoàn (Thời điểm này Tiểu đoàn Trợ chiến tạm thời giải tán). Đại úy Chuẩn sau cùng là Đại tá Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 3 và mấy ngày cuối cùng nhận chức Tư lệnh Sư đoàn 101 Biệt động quân tân lập
4
Hồ Tiêu
Võ bị Địa phương
Trung Việt K2
1960-
5
Nguyễn Đức Huy[55]
Võ bị Đà Lạt K10
Trung tá
1968
Bắt đầu từ ngày Tiểu đoàn Trợ chiến được tái lập và đổi tên thành Tiểu đoàn Yểm trợ. Sau cùng là Đại tá Trưởng phòng 4 Sư đoàn Dù
6
Tống Hồ Hàm
Võ bị Đà Lạt K18
1968-1970
7
Lê Đức Trang
Thiếu tá
1970-1971
Sau cùng là Trung tá
8
Nguyễn Ngọc Bắc
1971-1973
Sau cùng là Trung tá thuộc phòng 4 Sư đoàn dù
9
Võ Văn Thu
1973-1975

Tướng lãnh xuất thân từ binh chủng

Stt Họ và tên Cấp bậc Thời gian phục vụ Chú thích
1
Nguyễn Khánh
Võ bị Viễn Đông[56]
Đại tướng
1949-1952
Trung úy, Đại úy Đại đội trưởng Đại đội Biệt lập Dù, Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 Nhảy dù
2
Cao Văn Viên
Võ bị Địa phương
Cap St Jacques
[57]
Tư lệnh thứ 3
1960-1964
Trung tá, Đại tá, Thiếu tướng Tư lệnh Lữ đoàn Nhảy dù
3
Đỗ Cao Trí
Võ bị Nước Ngọt[58]
Tư lệnh đầu tiên
1950-1956
Trung úy Trung đội trưởng, Đại đội trưởng Đại đội Biệt lập Dù, Đại úy, Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 Dù (1950-1954), Thiếu tá, Trung tá, Đại tá tư lệnh Liên đoàn Nhảy dù (1954-1956)
4
Nguyễn Chánh Thi
Võ bị Địa phương
Cap St Jacques

Tư lệnh thứ 2
Trung tướng
1951-1960
Thiếu úy, Trung úy Đại đội trưởng đại đội biệt kích của Tiểu đoàn 1 Nhảy dù (1951-1954), Đại úy Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Dù (1955), Thiếu tá Tư lệnh phó Liên đoàn Dù (1955-1956), Thiếu tá, Trung tá, Đại tá Tư lệnh Liên đoàn Dù (1956-1960)
5
Dư Quốc Đống
Võ bị Đà Lạt K5[59]
Tư lệnh thứ 4
1952-1972
Thiếu úy Trung đội trưởng, Trung úy Đại đội trưởng (1952-1960), Đai úy Tiểu đoàn trưởng (1960-1962), Thiếu tá Chiến đoàn trưởng (1962-1963), Trung tá Tư lệnh phó Lữ đoàn dù (1963-1964), Đai tá quyền Tư lệnh Lữ đoàn Dù (1964), Chuẩn tướng, Thiếu tướng, Trung tướng Tư lệnh Lữ đoàn, Sư đoàn Dù (1964-1972)
6
Nguyễn Văn Vỹ
Võ bị Tông Sơn Tây[60]
1949-1950
Đại úy Đại đội trưởng Đại đội 3 Nhảy dù Đông Dương thuộc Tiểu đoàn 3 Biệt kích Nhảy dù, khi sáp nhập qua Quân đội Quốc gia, chuyển sang bộ binh
7
Phan Trọng Chinh
Võ bị Đà Lạt K5
1952-1960
Thiếu úy Trung đội trưởng, Trung úy Đại đội trưởng Dù, Đại úy Tiểu đoàn trưởng đầu tiên Tiểu đoàn 3 Dù, Thiếu tá Tham mưu trưởng Liên đoàn Dù (Năm 1960, ngày 11/11 tham gia cuộc đảo chính do Đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu, bị xử tù cho đến sau cuộc đảo chính 1/11/1963 được phục hồi quân ngũ và chuyển qua bộ binh
8
Ngô Quang Trưởng
Võ khoa Thủ Đức K4[61]
1954-1966
Thiểu uý Trung đội trưởng, Trung úy Đại đội trưởng thuộc Tiểu đoàn 5 Dù (1954-1961), Đại úy, Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 (1961-1964), Trung tá Tham mưu trưởng Lữ đoàn Dù, Trung tá, Đại tá Tư lệnh phó Sư đoàn Dù (1964-1966)
9
Đoàn Văn Quảng
Võ bị Pháp[62].
Thiếu tướng
1945-1953
Thiếu úy, Trung úy, Đại úy chỉ huy Trung đội, Đại đội trong đơn vị Dù, sau Chỉ huy trưởng Biệt động đội và thời gian sau chuyển qua Lực lượng Đặc biệt.
10
Phạm Văn Phú
Võ bị Đà Lạt K8
1953-1954
Thiếu úy Trung đội trưởng, Trung úy, Đại úy Đại đội trưởng thuộc Tiểu đoàn 5 Dù. Năm 1954, bị Việt Minh bắt làm tù binh. Năm 1955 được thả, chuyến qua bộ binh, thời gian sau chuyến sang Lực lượng Đặc biệt
11
Trương Quang Ân
Võ bị Đà Lạt K7
1963-1965
Thiếu úy Trung đội trưởng, Trung úy Đại đội trưởng, Đại úy Trưởng ban 3 trong Tiểu đoàn 5 Dù, Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 8 Dù tân lập (1953-1962) Thiếu tá, Trung tá Tham mưu trưởng Lữ đoàn Dù, Trung tá Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 1 Dù (1962-1956). Sau là Đại tá, Chuẩn tướng Tư lệnh Sư đoàn 23 bộ binh. Năm 1968, tử nạn được truy thăng Thiếu tướng
12
Đỗ Kế Giai
Võ bị Đà Lạt K5
1952-1965
Thiếu úy Trung đội trưởng, Trung úy Đại đội trưởng thuộc Tiểu đoàn 3 Dù (1952-1955), Đại úy, Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6, rồi Tiểu đoàn 5 Dù (1966-1962), Thiếu tá Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 2 Dù (1962-1965). Sau chuyển qua Bộ binh, Biệt động quân.
13
Nguyễn Khoa Nam
Võ khoa Thủ Đức K3
1953-1970
Thiếu úy Trung đội trưởng trong các Tiểu đoàn 7, Tiểu đoàn 3 Dù (1953-1955) Trung úy phục vụ Tiểu đoàn Trợ chiến, Phòng 3 Liên đoàn Dù, (1955-1959), Đại úy Tiểu đoàn phó tiểu đoàn 5 Dù, Trưởng phòng 4 Lữ đoàn Dù, Tham mưu trưởng chiến đoàn 1 Dù, Thiếu tá Tiểu đoàn 5 Dù, Trung tá Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 3 Dù, Đại tá lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Dù (1969-1970)
14
Vũ Văn Giai
Võ bị Đà Lạt K10
Chuẩn tướng
1954-1960
Thiếu úy Trung đội trưởng, Trưởng ban 2, Trung úy Đại đội trưởng trong Tiểu đoàn 5 Dù (1954-1960)
15
Hồ Trung Hậu
Võ khoa Thủ Đức K4
1954-1972
Thiếu úy Trung đội trưởng, Trung úy Đại đội trưởng trong Tiểu đoàn 6 Dù (1954-1958). (Từ 1958-1963, tạm rời khỏi binh chủng, tới năm 1963 trở lại). Thiếu tá phụ tá cho Chỉ huy chiến đoàn 1 Dù, phụ tá cho Tham mưu trưởng Lữ đoàn Dù, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Dù, Trung tá Chiến đoàn trưởng chiến đoàn 1 Dù (1963-1968). Đại tá, Chuẩn tướng Tư lệnh phó Sư đoàn Dù (1968-1972)
16
Trần Quốc Lịch
Võ khoa Thủ Đức K4
1954-1972
Thiếu úy Trung đội trưởng, Trung úy Đại đội trưởng trong Tiểu đoàn 3 Dù. Đại úy Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 1 Dù. Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 Dù (1954-1968). Trung tá, Đại tá Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Dù (1968-1972)
17
Trần Đình Thọ
Võ bị Đà Lạt K6
1952-1953
Thiếu úy trung đội trưởng, Trung úy Đại đội phó trong Tiểu đoàn 3 Dù
18
Lê Văn Tư
Võ bị Đà Lạt K5
1952-1953
Thiếu úy Trung đội trưởng thuộc Tiểu đoàn 1 và 3 Dù
19
Lê Nguyên Vỹ
Võ bị Địa phương
Trung Việt K2
[63]
1954-1955
Thiếu úy Trung đội trưởng trong Tiểu đoàn 6 Dù, sau đó chuyển qua bộ binh
20
Lê Quang Lưỡng
Võ khoa Thủ Đức K4
Tư lệnh sau cùng
1954-1975
Thiếu úy Trung đội trưởng, Trung úy Đại đội trưởng, Đại úy Tiểu đoàn phó trong Tiểu đoàn 5 Dù (1954-1963). Đại úy, Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 Dù (1963-1966). Thiếu tá, Trung tá, Đại tá Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 1, rồi Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 1 Dù (1966-1972). Đại tá Tư lệnh phó, Chuẩn tướng (1972) Tư lệnh Sư đoàn Dù (1972-1975)

Tư lệnh Binh chủng qua các thời kỳ

Stt Họ và tên Cấp bậc Tại chức Chú thích
1
Đỗ Cao Trí
Thiếu tá[41]
Trung tá
(1/1955)
Đại tá
(2/1956)
10/1954-09/1956
Chỉ huy trưởng đầu tiên. Sau cùng là Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn III, năm 1971 tử nạn trực thăng khi đang bay thị sát chiến trường miền đông (bầu trời tỉnh Tây Ninh). Được truy thăng Đại tướng
2
Nguyễn Chánh Thi
Trung tá
Đại tá
(10/1959)
09/1956-11/1960
Tư lệnh Lữ đoàn (1959). Cầm đầu cuộc đảo chính 11/11/1960, thất bại sang Campuchia tỵ nạn. Sau cuộc đảo chính 1/11/1963 được trở về tiếp tục phục vụ quân đội. Sau cùng là Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn I. Liên quan đến vụ biến động miền Trung năm 1966, giải ngũ và lưu vong tại hải ngoại cùng năm
3
Cao Văn Viên
Trung tá
Đại tá
(12/1960)
11/1960-09/1964
Sau đảo chính 1/11/1963 bị ngưng chức Tư lệnh Lữ đoàn Dù 1 tuần. Sau cùng là Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu. Ngày 27/4/1975 giải ngũ
4
Dư Quốc Đống
Đại tá
Chuẩn tướng
(11/1964)
Thiểu tướng
(11/1968)
Trung tướng
(7/1970)
09/1964-11/1972
Tư lệnh Sư đoàn (1965). Sau cùng là Trung tướng phụ tá Tổng Tham mưu trưởng
5
Lê Quang Lưỡng
Chuẩn tướng
11/1972-04/1975
Tư lệnh sau cùng

Xem thêm

Tiêu biểu

Chú thích

  1. ^ Trung tá Đào Văn Hùng, sinh năm 1923 tại Nam Định.
  2. ^ Trung tá Tống Hồ Hàm, tốt nghiệp khóa 18 Võ bị Đà Lạt.
  3. ^ Đại tá Nguyễn Văn Thọ, sinh năm 1929 tại Vũng Tàu, tốt nghiệp khóa 4 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức.
  4. ^ Trung tá Lê Minh Ngọc, tốt nghiệp khóa 16 Võ bị Đà Lạt
  5. ^ Trung tá Nguyễn Đình Ngọc, tốt nghiệp khóa 19 Võ bị Đà Lạt
  6. ^ Từ số 1 đến số 5 là những đơn vị tác chiến.
  7. ^ Lược sử Lữ đoàn 1 Nhảy dù, xem chi tiết ở phần chú thích trong bài Tiểu sử Trung tướng Dư Quốc Đống.
  8. ^ Lược sử Tiểu đoàn 1 Nhảy dù, xem chi tiết ở phần chú thích trong bài Tiểu sử Đại tướng Nguyễn Khánh.
  9. ^ Lược sử Tiểu đoàn 8 Nhảy dù, xem chi tiết ở phần chú thích trong bài Tiểu sử Thiếu tướng Trương Quang Ân.
  10. ^ Tiểu đoàn 9 Nhảy dù được thành lập ngày 01/10/1965 tại Sài Gòn bởi Nghị định số 060/QP/NĐ ký ngày 26/01/1966 của Bộ Quốc phòng. Sau 8 tuần thụ huấn bổ túc tại Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Vạn Kiếp. Ngày 01/12/1965 Tiểu đoàn đi vào hoạt động trong hệ thống chỉ huy chiến thuật thuộc Chiến đoàn 1 Nhảy dù, Hậu cứ đặt trong căn cứ Hoàng Hoa Thám ở Bà Quẹo, Tân Bình, Gia Định.
    Từ thành lập cho đến ngày 30/4/1975, Tiểu đoàn 9 Nhảy dù trải qua các sĩ quan Chỉ huy sau đây:
    -Thiếu tá Lê Văn Huệ (Tốt nghiệp Võ khoa Thủ Đức K1. Nhận trách nhiệm thành lập và là chỉ huy đầu tiên của Tiểu đoàn 9 Nhảy dù. Ngày 18/5/1967, tử trận tại khu phi quân sự Bến Hải khi đang cùng Tiểu đoàn Hành quân trong chiến dịch Lam Sơn 54, ông được truy thăng cấp Trung tá), từ 01/10/1965 đến 18/05/1967.
    -Thiếu tá Nguyễn Thế Nhã (Sinh năm 1935 tại Hà Nội, tốt nghiệp Võ khoa Thủ Đức K4p (tức K10B Trừ bị Đà Lạt). Năm 1974 tử trận khi đang là Trung tá Chỉ huy Trung đoàn 54 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, được truy thăng Đại tá), từ 19/05/1967 đến 29/03/1969.
    -Thiếu tá Trần Ngọc Trí (Tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K10, về sau mang cấp Trung tá), từ 30/03/1969 đến 01/04/1971.
    -Thiếu tá Trần Hữu Phú (Sau cùng là Trung tá), từ 02/04/1971 đến 19/11/1972.
    -Thiếu tá Trần Văn Sơn (Tốt nghiệp Võ khoa Thủ Đức K8, Trung tá Lữ đoàn phó Lữ đoàn 2 Nhảy dù, đầu tháng 4/1975 tử trận tại Nha Trang khi đang cùng đơn vị di tản chiến thuật), từ 20/11/1972 đến 01/12/1973.
    -Thiếu tá Nguyễn Văn Nhỏ (Tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K19, thăng cấp Trung tá tháng 6/1974), từ 02/12/1973 đến 11/04/1975.
    -Thiếu tá Lê Mạnh Đường (Sinh năm 1939, tốt nghiệp Võ khoa Thủ Đức K14, mất năm 2016 tại Hoa Kỳ), từ 12/04/1975 đến 30/04/1975.
  11. ^ Phân đội Yểm Trợ Hành Quân
  12. ^ Lược sử Lữ đoàn 2 Nhảy dù, xem chi tiết ở phần chú thích trong bài Tiểu sử Thiếu tướng Đỗ Kế Giai.
  13. ^ Lược sử Tiểu đoàn 5 Nhảy dù, xem chi tiết ở phần chú thích trong bài Tiểu sử Trung tướng Nguyễn Chánh Thi.
  14. ^ Tiểu đoàn 7 Nhảy dù được thành lập ngày 01/09/1953 tại Hải Phòng do sĩ quan Quân đội Pháp chỉ huy đến ngày 01/10/1954 thì chuyển giao cho Quân đội Quốc gia. Ngày 01/03/1955, tiểu đoàn bị giải tán để bổ sung quân số cho các tiểu đoàn khác. Ngày 01/12/1960 do nhu cầu phát triển của Binh chủng Nhảy dù tiểu đoàn được tái thành lập tại Biên Hòa. Năm 1968 thuộc hệ thống chỉ huy chiến thuật của Lữ đoàn 2 Nhảy dù
    Từ ngày trực thuộc Quân đội Quốc gia (01/10/1954 đến 01/03/1955) và Quân lực Việt Nam Cộng hòa (01/12/1960 đến 30/04/1975), tiểu đoàn 7 Nhảy dù đã trải qua các sĩ quan chỉ huy sau đây:
    -Đại úy Trịnh Xuân Nghiêm, từ 01/10/1954 đến 01/03/1955.
    -Đại úy Ngô Xuân Nghị, từ 01/12/1960 đến 01/06/1965.
    -Đại úy Nguyễn Văn Nhâm (Tốt nghiệp Võ khoa Thủ Đức, ngày 12/06/1965 tử trận tại mặt trận Đồng Xoài sau hơn một tuần lễ chỉ huy tiểu đoàn, được truy thăng Thiếu tá), từ 02/06/1965 đến 12/06/1965.
    -Thiếu tá Nguyễn Bá Trước (Sinh năm 1922 tại Sài Gòn, tốt nghiêpk Võ khoa Thủ Đức k3p (tức K9B Trừ bị Đà Lạt).Sau cùng là Đại tá Tỉnh trưởng tỉnh Phước Tuy), từ 12/06/1965 đến 15/01/1968.
    -Thiếu tá Lê Văn Ngọc, từ 16/01/1968 đến 10/11/1969.
    -Thiếu tá Lê Minh Ngọc, từ 11/11/1969 đến 18/03/1971.
    -Thiếu tá Trần Đăng Khôi, từ 19/03/1971 đến 01/02/1974.
    -Thiếu tá Nguyễn Lô, từ 02/12/1974 đến 30/4/1975.
  15. ^ Tiểu đoàn 11 Nhảy dù được thành lập ngày 01/12/1967 tại Sài Gòn với huy hiệu "Song Kiếm Trấn Ải" nằm trong hệ thống chỉ huy chiến thuật của Lữ đoàn 2 Nhảy dù. Hậu cứ đặt tại trại Nguyễn huệ trên đồi Tăng Nhơn Phú, Thủ Đức, Gia Định. Sau 12 tuần thụ huấn bổ túc tại Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Vạn Kiếp, tiểu đoàn được đưa ra ngay các chiến trường đang sôi động trên khắp 4 Vùng chiến thuật.
    Từ thành lập cho đến ngày 30/04/1975, Tiểu đoàn 11 Nhảy dù đã trải qua các sĩ quan chỉ huy sau đây:
    -Thiếu tá Nguyễn Viết Cần (Sinh năm 1933 tại Long An, tốt nghiệp Võ khoa Thủ Đức K4. Năm 1969 thăng Trung tá rời Nhảy dù chuyển đi làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 33 thuộc Sư đoàn 21 Bộ binh, năm 1972 tử trận tại mặt trân An Lộc, được truy thăng Đại tá), từ 01/12/1967 đến 16/07/1969.
    -Thiếu tá Ngô Lê Tĩnh (Tốt nghiệp Võ khoa Thủ Đức K4p (tức K10B Trừ bị Đà Lạt), về sau mang cấp Trung tá), từ 17/07/1969 đến 28/05/1971.
    -Trung tá Nguyễn Đình Bảo, từ 29/05/2971 đến 12/04/1972.
    Thiếu tá Lê Văn Mễ (Tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K18, về sau mang cấp Trung tá), từ 12/04/1972 đến 10/11/1974.
    -Thiếu tá Nguyễn Văn Thành (Tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K20), từ 11/11/1974 đến 16/04/1975.
    -Thiếu tá Lê Văn Phương, từ 16/04/1975 đến 30/04/1975.
  16. ^ Lược sử Lữ đoàn 3 Nhảy dù, xem chi tiết ở phần chú thích trong bài Tiểu sử Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam.
  17. ^ Lược sử Tiểu đoàn 2 Nhảy dù, xem chi tiết ở phần chú thích trong bài Tiểu sử Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng.
  18. ^ Lược sử Tiểu đoàn 3 Nhảy dù, xem chi tiết ở phần chú thích trong bài Tiểu sử Trung tướng Phan Trọng Chinh.
  19. ^ Lược sử Tiểu đoàn 6 Nhảy dù, xem chi tiết ở phần chú thích trong bài Tiểu sử Đại tướng Đỗ Cao Trí.
  20. ^ Từ số 6 đến số 18 là những đơn vị yểm trợ
  21. ^ Chức danh chỉ huy và tham mưu sau cùng
  22. ^ Đại tá Trương Vĩnh Phước, sinh năm 1929 tại Sài Gòn.
  23. ^ Xuất thân từ trường sĩ quan
  24. ^ Đại tá Văn Bá Ninh, sinh năm 1933 tại Gia Định.
  25. ^ Thiếu tá Nguyễn Viết Thanh tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K19.
  26. ^ Thiếu tá Lê Mạnh Đường, sinh năm 1939, tốt nghiệp Võ khoa Thủ Đức K14.
  27. ^ Đại tá Nguyễn Thu Lương, sinh năm 1934 tại Hà Đông.
  28. ^ Thiếu tá Nguyễn Lô tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K18.
  29. ^ Thiếu tá Lê Văn Phương tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K20.
  30. ^ Trung tá Trần Đăng Khôi, sinh năm 1938 tại Sài Gòn.
  31. ^ Trung tá Bùi Quyền sinh năm 1937 tại Hà Nội, mất năm 2020 tại Hoa Kỳ
  32. ^ Thiếu tá Trần Công Hạnh tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K20.
  33. ^ Thiếu tá Lã Quý Trang tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K18.
  34. ^ Thiếu tá Trần Tấn Hòa tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K20.
  35. ^ Thiếu tá Nguyễn Văn Nghiêm tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K20.
  36. ^ Thiếu tá Nguyễn Ngọc Tâm tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K18.
  37. ^ Trung tá Phạm Kim Bằng tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K16.
  38. ^ Đại tá Nguyễn Văn Tường, sinh năm 1933 tại Thủ Dầu Một
  39. ^ Thiếu tá Nguyễn Ngọc Triệu tốt nghiệp Võ khoa Thủ Đức K10.
  40. ^ Thiếu tá Nguyễn Văn Thông tốt nghiệp Sĩ quan Đặc biệt Hiện dịch Đồng Đế K1.
  41. ^ a b Cấp bậc khi nhậm chức
  42. ^ Đại tá Bùi Kim Kha, sinh năm 1932 tại Nam Định.
  43. ^ Đại tá Lê Văn Ngọc, sinh năm 1935 tại Khánh Hòa.
  44. ^ Đại tá Hồ Tiêu, sinh năm 1922 tại Quảng Trị.
  45. ^ Đại tá Ngô Xuân Nghị, sinh năm 1932 tại Bến Tre
  46. ^ Trung tá Lê Minh Ngọc, sinh năm 1939
  47. ^ Đại tá Nguyễn Văn Thọ, sinh năm 1929 tại Vũng Tàu
  48. ^ Đại tá Trương Vĩnh Phước sinh năm 1928 tại Sài Gòn
  49. ^ Đại tá Lê Văn Phát, sinh năm 1931.
  50. ^ Trung tá Trần Đăng Khôi, sinh năm 1938 tại Nam Định
  51. ^ Cố Đại tá Huỳnh Long Phi, sinh năm 1931 tại Sài Gòn.
  52. ^ Đại tá Trịnh Xuân Nghiêm, sinh năm 1929 tại Tuyên Quang.
  53. ^ Đại tá Nguyễn Thọ Lập, sinh năm 1918 tại Biên Hòa.
  54. ^ Đại tá Nguyễn Thành Chuẩn, sinh năm 1930 tại Vĩnh Long.
  55. ^ Đại tá Nguyễn Đức Huy, sinh năm 1933 tại Bắc Ninh
  56. ^ Trường Võ bị Liên quân Viễn Đông khóa 1, thụ huấn tại Đà Lạt
  57. ^ Còn gọi là Võ bị Địa phương Nam Việt đặt tại Vũng Tàu
  58. ^ Còn có tên Pháp là École Militaire Nuoc Ngot và được xem như khóa 2 Võ bị Liên quân Viễn Đông
  59. ^ Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt
  60. ^ Trường Võ bị Tông Sơn Tây
  61. ^ Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức
  62. ^ Trường Võ bị Lục quân Pháp
  63. ^ Trường Võ bị Địa phương Trung Việt, cơ sở cũ của trường Sĩ quan Việt Nam (Võ bị Quốc gia Huế) tại khu vực có địa danh Đập Đá trên hữu ngạn sông Hương, Huế

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Liên kết