Cần Thơ (thành phố thuộc tỉnh)

Thành phố trực thuộc tỉnh Cần Thơ cũ

Cần Thơ là một thành phố thuộc tỉnh Cần Thơ cũ và là tỉnh lỵ của tỉnh Cần Thơ trước khi thành lập thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương ngày nay. Thành phố Cần Thơ lúc bấy giờ có địa giới hành chính tương ứng với các quận Ninh Kiều, Bình Thủy, một phần quận Cái Răng và một phần huyện Phong Điền ngày nay.

Địa lý

sửa

Thành phố Cần Thơ nằm trên bờ phải sông Hậu, cách Thành phố Hồ Chí Minh 169 km về phía tây nam.

Trước khi giải thể vào năm 2004, thành phố có vị trí địa lý:

Diện tích toàn thành phố là 141,29 km², gồm cả ngoại ô, vùng ven và nội ô.

Lịch sử

sửa

Thời Pháp thuộc

sửa

Ngày 18 tháng 12 năm 1928, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập các thành phố Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá và Mỹ Tho có Ủy ban thành phố, thị trưởng do chủ tỉnh bổ nhiệm và có ngân sách riêng. Tuy nhiên sau này vẫn thường gọi là thị xã Cần Thơ. Thị xã Cần Thơ được thành lập trên phần đất làng Tân An thuộc quận Châu Thành.

Nghị định ngày 30 tháng 11 năm 1934 sắp xếp đất đai thị xã Cần Thơ thành 5 vùng và 1 vùng ngoại ô để thu thuế thổ trạch.

Năm 1947, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập thị xã Cần Thơ thuộc tỉnh Cần Thơ.

Giai đoạn 1956-1976

sửa

Việt Nam Cộng hòa

sửa

Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143-NV để "thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Việt Nam Cộng hòa gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Phong Dinh được thành lập do đổi tên từ tỉnh Cần Thơ. Tỉnh lỵ tỉnh Phong Dinh đặt tại Cần Thơ và vẫn giữ nguyên tên là "Cần Thơ", về mặt hành chánh thuộc xã Tân An, quận Châu Thành.

Sau năm 1956, dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa, thị xã Cần Thơ bị giải thể, sáp nhập vào địa bàn xã Tân An thuộc quận Châu Thành của tỉnh Phong Dinh mới được thành lập.

Ngày 30 tháng 9 năm 1970, thị xã Cần Thơ được chính thức tái lập trở lại theo Sắc lệnh số 115-SL/NV của Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa Trần Thiện Khiêm, là thị xã tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương Việt Nam Cộng hòa, đồng thời kiêm tỉnh lỵ tỉnh Phong Dinh. Khi đó thị xã bao gồm các xã Tân An, Thuận Đức, ấp Lợi Nguyên thuộc xã An Bình và ấp Bình Nhựt thuộc xã Long Tuyền cùng thuộc quận Châu Thành, tỉnh Phong Dinh trước đó. Thị xã Cần Thơ là nơi đặt Bộ tư lệnh Quân khu IV trong cuộc chiến.

Ngày 7 tháng 6 năm 1971, địa bàn thị xã Cần Thơ khi đó được chia thành hai quận:

  • Quận 1 (quận Nhứt) gồm năm phường: An Lạc, An Cư, An Nghiệp, An Hòa, An Thới.
  • Quận 2 (quận Nhì) gồm ba phường: Hưng Lợi, Hưng Phú, Hưng Thạnh.

Từ đó cho đến năm 1975, thị xã Cần Thơ và tỉnh Phong Dinh là hai đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau theo sự phân chia sắp xếp hành chính của Việt Nam Cộng hòa.

Chính quyền Cách mạng

sửa

Tuy nhiên phía chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh Phong Dinh mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Cần Thơ. Trong giai đoạn 1956-1969, chính quyền Cách mạng vẫn duy trì thị xã Cần Thơ trực thuộc tỉnh Cần Thơ.

Năm 1969, chính quyền Cách mạng tách thị xã Cần Thơ khỏi tỉnh Cần Thơ trực thuộc khu Tây Nam Bộ. Năm 1971, thị xã Cần Thơ trở lại thuộc tỉnh Cần Thơ. Tháng 8 năm 1972, Thường vụ Khu ủy Khu 9 của phía chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định tách thị xã Cần Thơ ra khỏi tỉnh Cần Thơ, hình thành thành phố Cần Thơ trực thuộc Khu 9, bao gồm thị xã Cần Thơ vào 6 xã vùng ven thuộc các huyện Ô Môn, Châu Thành trước đó.

Như vậy cho đến năm 1976, tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ là hai đơn vị hành chính ngang bằng nhau.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ vẫn duy trì hai đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ cho đến đầu năm 1976.

Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, tỉnh Vĩnh Long, tỉnh Trà Vinh, tỉnh Cần Thơ (ngoại trừ huyện Thốt Nốt), tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên.

Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Cần Thơ (có cả huyện Thốt Nốt), tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ được tiến hành hợp nhất lại thành một tỉnh.

Giai đoạn 1976-2003

sửa

Theo Nghị định số 03/NĐ-76 ngày 24 tháng 2 năm 1976 và Quyết định số 17/QĐ-76 ngày 24 tháng 3 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ để thành lập tỉnh mới: tỉnh Hậu Giang.

Thành phố Cần Thơ trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Hậu Giang từ tháng 2 năm 1976, ban đầu bao gồm 8 phường: An Cư, An Hòa, An Lạc, An Nghiệp, Bình Thủy, Cái Khế, Hưng Lợi, Thạnh Phú và 2 xã: An Bình, Long Tuyền.

Quyết định 174-CP[1] ngày 21 tháng 4 năm 1979 của Hội đồng Chính phủ về việc chia một số xã, phường thuộc thành phố Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang như sau:

  • Chia phường An Lạc thành 2 phường: Tân An và An Lạc.
  • Chia phường An Cư thành 2 phường: An Hội và An Cư.
  • Chia phường An Nghiệp thành 2 phường: An Phú và An Nghiệp.
  • Sáp nhập khóm 1 của phường An Hòa vào phường Cái Khế.
  • Chia phường Cái Khế thành 2 phường: Thới Bình và Cái Khế.
  • Chia phường Bình Thủy thành 2 phường: Bình Thủy và An Thới (gồm cả Cồn Sơn).
  • Chia phường Thạnh Phú thành 2 đơn vị: phường Hưng Phú và xã Hưng Thạnh.
  • Chia phường Hưng Lợi thành 2 phường: Xuân Khánh và Hưng Lợi.
  • Chia xã Long Tuyền thành 2 xã: Long Hòa và Long Tuyền.
  • Sáp nhập xã Mỹ Khánh, xã Giai Xuân và ấp Thới Thuận, ấp Thới Hòa, ấp Thới Nguơn của xã Thới An Đông thuộc huyện Châu Thành vào thành phố Cần Thơ.

Ngày 5 tháng 5 năm 1990, thành phố Cần Thơ được công nhận là đô thị loại 2 trực thuộc tỉnh.

Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Quốc hội Việt Nam ban hành Nghị quyết chia tỉnh Hậu Giang thành tỉnh Cần Thơtỉnh Sóc Trăng. Tỉnh Cần Thơ chính thức được tái lập và đi vào hoạt động trở lại từ ngày 1 tháng 4 năm 1992, thành phố Cần Thơ trở lại là tỉnh lỵ của tỉnh Cần Thơ.[2]

Thành phố Cần Thơ khi đó bao gồm 15 phường: An Cư, An Hòa, An Hội, An Lạc, An Nghiệp, An Phú, An Thới, Bình Thủy, Cái Khế, Hưng Lợi, Hưng Phú, Tân An, Thới Bình, Trà Nóc, Xuân Khánh và 7 xã: An Bình, Giai Xuân, Hưng Thạnh, Long Hòa, Long Tuyền, Mỹ Khánh, Thới An Đông. Theo thống kê năm 1985 dân số thành phố là 274.000 người.

Từ năm 2004

sửa

Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội Việt Nam thông qua Nghị quyết số 22/2003/QH11[3], về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Theo đó, chia tỉnh Cần Thơ thành thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương và tỉnh Hậu Giang.

Đến ngày 2 tháng 1 năm 2004, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 05/2004/NĐ-CP thành lập các quận Ninh Kiều, Bình Thủy, Cái Răng, Ô Môn, các huyện Phong Điền, Cờ Đỏ, Vĩnh Thạnh, Thốt Nốt và các xã, phường, thị trấn thuộc thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương.[4]

Theo Nghị định trên, địa bàn thành phố Cần Thơ cũ trước năm 2004 tương ứng với toàn bộ diện tích các quận Ninh Kiều, Bình Thủy; các phường Hưng Phú và Hưng Thạnh của quận Cái Răng; các xã Giai Xuân và Mỹ Khánh của huyện Phong Điền ngày nay. Trong đó, khu vực nội ô thành phố Cần Thơ cũ trước năm 2004 hiện nay thuộc địa bàn quận Ninh Kiều.

Tham khảo

sửa
  1. ^ Quyết định 174-CP điều chỉnh địa giới một số xã thuộc tỉnh Hậu Giang
  2. ^ “Nghị quyết phân vạch lại địa giới hành chính một số tỉnh”.
  3. ^ “NGHỊ QUYẾT 22/2003/QH.11 VỀ VIỆC CHIA VÀ ĐIỀU CHỈNH ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH MỘT SỐ TỈNH”.
  4. ^ “Nghị định 05/2004/NĐ”. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.