Jürgen Klopp

Cựu cầu thủ bóng đá và huấn luyện viên người Đức
(Đổi hướng từ Jurgen Klopp)

Jürgen Norbert Klopp (phát âm tiếng Đức: [ˈjʏʁɡn̩ ˈklɔp] ; sinh ngày 16 tháng 6 năm 1967) là một cựu cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Đức. Ông hiện là huấn luyện viên trưởng câu lạc bộ Liverpool tại Premier League.

Jürgen Klopp
Klopp với Liverpool tại UEFA Super Cup 2019
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Jürgen Norbert Klopp[1]
Ngày sinh 16 tháng 6, 1967 (56 tuổi)[2]
Nơi sinh Stuttgart, Tây Đức
Chiều cao 1,91 m (6 ft 3 in)
Vị trí
Thông tin đội
Đội hiện nay
Liverpool (huấn luyện viên)
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
1972–1983 SV Glatten
1983–1987 TuS Ergenzingen
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
1987 1. FC Pforzheim 4 (0)
1987–1988 Eintracht Frankfurt II
1988–1989 Viktoria Sindlingen
1989–1990 Rot-Weiss Frankfurt 0 (0)
1990–2001 Mainz 05 325 (52)
Sự nghiệp quản lý
Năm Đội
2001–2008 Mainz 05
2008–2015 Borussia Dortmund
2015–2024 Liverpool
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Từ năm 1990 cho tới năm 2001 ông chơi cho đội 1. FSV Mainz 05 tại 2. Bundesliga. Ngay sau đó ông được mời làm huấn luyện viên cho câu lạc bộ này và vào mùa 2003–04 đã thành công đưa đội lên hạng Bundesliga. Từ 2008 cho tới 2015, ông huấn luyện cho Borussia Dortmund, đội bóng vô địch Bundesliga mùa giải 2010–11 và 2011–12. Ngoài vô địch giải này, đội bóng của ông còn đoạt được DFB-Pokal. Ngoài ra ông cùng với Borussia Dortmund còn được vào chung kết UEFA Champions League 2012–13. Từ đầu tháng 10 năm 2015 ông làm huấn luyện viên cho đội Liverpool tại Premier League.[3] Ông đã dẫn dắt Liverpool vô địch UEFA Champions League 2018–19Premier League 2019–20.

Sự nghiệp cầu thủ sửa

Khởi nghiệp sửa

Klopp được sinh ra ở Stuttgart, thủ phủ của Baden-Württemberg[4] và lớn lên với gia đình gồm cha mẹ và hai người chị gái tại thị trấn Glatten của Freudenstadt ở làng Schwarzwald. Ông bắt đầu chơi bóng cho Tus Ergenzingen khi là một cầu thủ nghiệp dư, sau đó là thời gian chơi cho 1. FC Pforzheim và ba đội bóng vùng Frankfurt, SG Eintracht Frankfurt (U23), Viktoria Sindlingen và Rot-Weiss Frankfurt trong suốt thời niên thiếu. Năm 1990 trong những trận đấu play-off của RW Frankfurt đối đầu FSV Mainz 05 để quảng bá cho 2. Bundesliga, anh thu hút được sự chú ý của huấn luyện viên Mainz và được ký hợp đồng cùng họ mùa hè năm đó, trở thành cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp.

Mainz 05 sửa

Klopp là cầu thủ chuyên nghiệp của Mainz 05 đá ở giải hạng 2 Bundesliga từ 1990 đến 2001. Trong khoảng thời gian này, ông đã chơi cho đội tổng cộng 325 trận, trở thành người giữ kỉ lục tại giải đấu này. Ban đầu ông chơi ở vị trí tiền đạo, sau đó chuyển sang chơi hậu vệ vào năm 1995.[5]

Sự nghiệp huấn luyện viên sửa

Mainz 05 sửa

 
Klopp với Mainz 05 năm 2008

Sau khi giã từ sự nghiệp cầu thủ tại Mainz 05, Klopp được bổ nhiệm làm huấn luyện viên của câu lạc bộ thay thế người tiền nhiệm vừa bị sa thải Eckhard Krautzun vào ngày 27 tháng 2 năm 2001.[6][7] Ngày hôm sau, Klopp đã chỉ đạo trận đấu đầu tiên của đội bóng, chứng kiến thắng lợi đảm bảo 1-0 trên sân nhà trước MSV Duisburg.[8][9] Ông vẫn là huấn luyện viên của đội trong bảy năm và dẫn dắt Mainz lần đầu tiên thi đấu tại Bundesliga, và giành vé tham dự Cúp UEFA 2005–06.[10] Cuối mùa giải 2006-07, Mainz 05 bị xuống hạng, nhưng Klopp vẫn quyết định ở lại với câu lạc bộ.[11] Tuy nhiên, với việc Klopp và ban lãnh đạo không đạt được thỏa thuận, ông đã từ chức vào cuối mùa giải 2007-08.[12] Ông kết thúc với kỉ lục 109 chiến thắng, 78 trận hòa và 83 thất bại.[13][14]

Borussia Dortmund sửa

 
Jürgen Klopp là HLV của BVB năm 2008

Tháng 5 năm 2008, Klopp được tiếp cận để trở thành huấn luyện viên của Borussia Dortmund, đội vừa có 1 mùa giải đáng thất vọng với vị trí thứ 13 dưới thời người tiền nhiệm Thomas Doll.[15][16][17] Từ ngày 01 tháng bảy 2008, Klopp chính thức trở thành Huấn luyện viên đội bóng vùng Ruhr chơi tại giải đấu cao nhất nước Đức Bundesliga với bản hợp đồng hai năm. Ở mùa giải đầu tiên nắm quyền, Klopp đã cùng Borussia Dortmund đánh bại Bayern Munich để giành DFB-Supercup[18] và đứng thứ 6 trên bảng xếp hạng. Mùa giải kế tiếp, Dortmund kết thúc ở vị trí thứ 5, trước khi giành cú đúp Bundesliga 2010–112011–12.[19][20]

Ở mùa giải 2011-12, Dortmund đã trở thành đội giành được nhiều điểm nhất trong một mùa Bundesliga với 81 điểm, và 47 điểm có được ở lượt về Bundesliga và giúp đội thiết lập 1 kỉ lục mới.[21] Trận thắng thứ 25 ở mùa giải của Borussia Dortmund đã giúp cân bằng kỉ lục mùa 1972-73 của Bayern Munich, trong khi chuỗi 28 trận bất bại tại Bundesliga của họ là kết quả tốt nhất từng được ghi nhận tại giải đấu cao nhất nước Đức.[22] Những kỷ lục điểm số này đều bị Bayern Munich phá vỡ ở mùa giải 2012-2013.[23] Ngày 12 tháng 5 năm 2012, Klopp đi vào lịch sử câu lạc bộ khi vượt qua Bayern Munich 5–2 trong trận chung kết DFB-Pokal để giành cú đúp giải quốc nội.[24] Ông miêu tả chiến tích này là "tốt hơn cả những gì (ông) có thể tưởng tượng".[24][25][26]

 
Klopp với Borussia Dortmund năm 2014

Phong độ của Dortmund trong mùa 2012-13 không còn ấn tượng như chiến dịch trước đó, khi Klopp khẳng định rằng đội bóng của ông sẽ tập trung vào UEFA Champions League để bù đắp nỗi thất vọng của họ trong những trận đấu ở mùa giải trước. Đội bóng của Klopp đối đầu Manchester City, Real MadridAjax nằm trong bảng tử thần.[27] Tuy nhiên họ không để thua một trận đấu nào và đứng đầu bảng đấu với màn trình diễn thuyết phục, đặc biệt là trước Madrid của José Mourinho. Đội bóng vàng-đen vượt qua tất cả để tiến đến trận chung kết, gặp lại Real Madrid ở vòng bán kết của giải đấu.[28] Sau một kết quả mĩ mãn trên sân nhà ở lượt đi với chiến thắng đậm đà 4-1, Dortmund để thua 2-0 trên sân khách ở lượt về và suýt lỡ hẹn với trận chung kết.[29] Dortmund sau đó để thua 1-2 trước Bayern Munich ở trận chung kết với bàn thắng ở phút 89 của Arjen Robben.[30]

Vào đầu mùa 2012-13, bản hợp đồng có hiệu lực đến năm 2014 của Klopp với CLB Borussia Dortmund đã được gia hạn kéo dài đến tháng 6 năm 2018.[31] Klopp đã nhận án phạt 10,000 Mác sau khi bị đuổi khỏi sân trong trận đấu tại Bundesliga đối đầu Borussia Mönchengladbach.[32] Vụ việc trên là kết quả của "cuộc chỉ trích bằng lời nói" nhằm vào trọng tài.[33] Deniz Aytekin, một vị trọng tài tuyên bố rằng hành vi của Klopp là "thô lỗ nhiều hơn một lần".[33] CEO của Dortmund, ông Hans-Joachim Watzke nói rằng "tôi phải hỗ trợ Jürgen Klopp 100% trong trường hợp này" bởi vì ông thấy chẳng còn lý do nào để phạt tiền và phủ nhận rằng Klopp có xúc phạm vị trọng tài thứ tư.[33]

Tháng 4 năm 2015, Klopp thông báo rằng ông sẽ rời Borussia Dortmund vào cuối mùa 2014-15 để có một kì nghỉ phép.[34][35][36] Trận đấu cuối cùng của ông trên băng ghế huấn luyện đội là trận chung kết Cúp bóng đá Đức 2015, nơi Dortmund để thua 1-3 trước VfL Wolfsburg.[37] Ông kết thúc với kỉ lục 179 chiến thắng, 69 trận hòa và 70 thất bại.[38]

Liverpool sửa

2015-2018: Khởi đầu & những thất bại tại các trận chung kết sửa

 
Juergen Klopp trước trận đấu với FC Augsburg vào ngày 25 tháng 2 năm 2016 tại Europa League

Ngày 8 tháng 10 năm 2015, Jürgen Klopp đồng ý một bản hợp đồng 3 năm để trở thành huấn luyện viên trưởng của Liverpool thay thế người tiền nhiệm Brendan Rodgers.[39][40] Trận ra mắt của ông là trận làm khách trước Tottenham Hotspur ngày 17 tháng 10 năm 2015.[41] Ngày 28 tháng 10 năm 2015, Klopp giúp đội có chiến thắng đầu tiên trên cương vị thuyền trưởng "The Kop" trước Bournemouth ở Cúp Liên đoàn Anh để giành vé vào vòng tứ kết.[42] Chiến thắng đầu tiên tại giải Ngoại hạng đến 3 ngày sau đó, thắng lợi sân khách 3-1 trước Chelsea.[43] Sau khi hòa ba trận đầu tiên của UEFA Europa League, Liverpool đánh bại Rubin Kazan 1-0 trong chiến thắng đầu tiên của Klopp ở cúp châu Âu trên cương vị huấn luyện viên trưởng Liverpool.[44]

Ngày 6 tháng 2 năm 2016, ông bỏ lỡ một trận đấu ở giải Ngoại hạng để có một cuộc phẫu thuật vì nghi ngờ bị viêm ruột thừa.[45] Ngày 28 tháng 2 năm 2016, Liverpool để thua Manchester City 3-1 tại sân vận động Wembley trong trận chung kết Cúp Liên đoàn 2016 trên chấm phạt đền.[46] Ngày 17 tháng 3 năm 2016, "The Kop" của Klopp tiến đến vòng tứ kết của UEFA Europa League bằng việc đánh bại Manchester United chung cuộc 3-1.[47] Ngày 14 tháng 4 năm 2016, Liverpool lội ngược 3-1 trong trận lượt về đối đầu đội bóng cũ của Klopp Borussia Dortmund và giành chiến thắng 4-3, đoạt tấm vé vào bán kết Europa League với tỉ số chung cuộc 5-4.[48] Ngày 5 tháng 6 năm 2016, Klopp đưa Liverpool đến trận chung kết cúp châu Âu đầu tiên kể từ năm 2007 bằng cách đánh bại Villarreal chung cuộc 3-1 ở vòng bán kết.[49] Trong trận chung kết, Liverpool đối mặt nhà đương kim vô địch Sevilla và để thua đại diện Tây Ban Nha 1-3 dù Daniel Sturridge ghi bàn mở tỉ số ngay hiệp 1.[50] Liverpool kết thúc mùa giải 2015–16 ở vị trí thứ 8, qua đó không được dự cúp châu Âu[51].

Ngày 8 tháng 7 năm 2016, Klopp và các trợ lý ký hợp đồng gia hạn đến 2022.[52] Trước đó, Liverpool đã sở hữu bản hợp đồng Sadio Mané trị giá 30 triệu bảng từ Southampton.[53] Liverpool đủ điều kiện tham dự Champions League lần đầu tiên kể từ 2014–15 vào ngày 21 tháng 5 năm 2017, sau chiến thắng 3–0 trên sân nhà trước Middlesbrough và đứng thứ tư trong mùa giải 2016–17.[54]

Tháng 6 năm 2017, câu lạc bộ đã chiêu mộ thành công cầu thủ người Ai Cập Mohamed Salah từ A.S. Roma với mức giá chuyển nhượng 42 triệu Euro[55], cùng Virgil van Dijk với mức phí chuyển nhượng kỷ lục 75 triệu bảng [56], và bán Philippe Coutinho cho FC Barcelona với mức giá 160 triệu Euro cùng vào mùa đông[57]. Mùa giải 2017-18, nhờ sự xuất sắc của bộ ba Salah - Firmino - Mané, Liverpool đứng thứ 4 chung cuộc ở giải ngoại hạng[58]. Còn ở đấu trường Champions League, đội bóng đã lần lượt vượt qua Porto, Man CityA.S. Roma để vào đến trận chung kết gặp Real Madrid[59]. Tuy nhiên, The Kop để thua với tỉ số 1-3[60].

2018-nay: Thành công nối tiếp sửa

Trong 2 kỳ chuyển nhượng mùa hè, Klopp đã thực hiện một số bản hợp đồng nổi tiếng bao gồm tiền vệ Naby Keïta và Fabinho[61][62], tiền đạo Xherdan Shaqiri và thủ môn Alisson Becker[63][64]. Đến mùa giải 2018-2019, Liverpool xuất sắc sau khi bỏ xa Manchester City tận 7 điểm để nắm chắc ngôi đầu nhưng sau đó là hàng loạt cú sẩy chân trong tháng 3 khiến họ rơi xuống vị trí thứ 2, chung cuộc Liverpool về nhì với 97 điểm, số điểm cao nhất trong lịch sử của đội bóng này nhưng vẫn ít hơn đội vô địch là Manchester City với 98 điểm[65]. Tại Champions League, đội bóng lần lượt vượt qua Bayern Munich, Porto để vào bán kết gặp Barcelona. Trận gặp Barcelona tại lượt về bán kết Champions League là một trong những trận đấu ngược dòng kinh điển của lịch sử Champions League. Sau khi để thua lượt đi tại Camp Nou với tỉ số 3-0[66], đội bóng đã ngược dòng không tưởng tại trận lượt về tại Anfield với tỉ số 4-0 bởi cú đúp của OrigiGeorginio Wijnaldum, qua đó kết thúc trận đấu với tỷ số 4-3 để vào đến trận chung kết gặp đối thủ cùng quốc gia là Tottenham[67]. Ở trận chung kết diễn ra tại thành phố Madrid, với 2 pha lập công của Salah và Origi đã giúp Liverpool đánh bại đối thủ, qua đó mang về danh hiệu đầu tiên dưới thời Jürgen Klopp và là danh hiệu thứ 6 cho đội bóng tại đấu trường này.[68] Sau đó, đội còn giành được thêm 2 danh hiệu quốc tế là UEFA Super Cup trước Chelsea và FIFA Club World Cup trước đại diện đến từ Brazil Flamengo để kết thúc một năm 2019 đầy rực rỡ[69][70].

The Kop bước sang năm 2020 với vị trí đầu bảng Giải bóng đá Ngoại hạng Anh,dẫn trước đội xếp thứ 2 là Manchester City tới 16 điểm. Tuy nhiên đại dịch COVID-19 ảnh hưởng đến tất cả các hoạt động thể thao trên thế giới, Ngoại hạng Anh cũng đồng thời bị hoãn[71]. Liverpool đang dẫn đầu bảng xếp hạng Ngoại Hạng Anh với 82 điểm, bỏ xa đội thứ 2 Manchester City với 57 điểm. Ban tổ chức Ngoại hạng Anh đã lên kế hoạch trao cúp vô địch sớm cho Liverpool nhưng các đội bóng khác đã lên tiếng phản đối và yêu cầu hủy kết quả mùa giải, tiêu biểu là West Ham United và Tottenham.[72]

Rạng sáng ngày 26 tháng 6 năm 2020, ở vòng 31, Chelsea đánh bại Man City 2-1. Cùng với việc Liverpool thắng Crystal Palace khiến khoảng cách giữa Man City và Liverpool được nới rộng lên thành 23 điểm.[73]Ngoại Hạng Anh chỉ còn 7 vòng đấu nữa là kết thúc nên thầy trò HLV Guardiola đã chính thức hết cơ hội bám đuổi Liverpool. Ngôi vương đã thuộc về Juergen Klopp và các học trò một cách đầy xứng đáng. Liverpool lập kỷ lục vô địch sớm 7 vòng đấu.[74]

Sau khi giành chiến thắng trong 3 trận mở màn của mùa giải 2020–21 trước Leeds United, Chelsea và Arsenal, vào ngày 4 tháng 10 năm 2020, ở vòng 5, Liverpool đã nhận cú sốc lớn khi để thua 2-7 trước Aston Villa, đây là lần đầu tiên Liverpool thủng lưới 7 bàn trong một trận đấu kể từ năm 1963[75]. Cùng với chấn thương của các trụ cột, Liverpool thi đấu sa sút và chỉ kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 3.[76]

Sang mùa giải 2021-22, Liverpool đã 2 lần đánh bại Chelsea ở chung kết Carabao Cup[77], và FA Cup đều ở loạt luân lưu[78]. Ngày 28/4/2022, Jurgen Klopp ký hợp đồng mới với Liverpool có thời hạn đến năm 2026.[79] Tuy nhiên, đội về nhì tại giải quốc nội với 92 điểm, đứng sau Manchester City với 1 điểm ít hơn[80], và nhận thất bại 0-1 tại chung kết Champions League trước Real Madrid[81].

Tại mùa giải 2022-23, ông giúp Liverpool đoạt Siêu cup Anh lần đầu tiên khi đánh bại Manchester City 3-1[82]. Ông cũng giúp Liverpool thắng đậm Manchester United 7-0 trên sân nhà vào tháng 3[83], nhưng kết thúc mùa giải với vị trí thứ 6, qua đó có lần đầu bật khỏi Top 4 sau 6 năm liên tiếp.[84]

Vào ngày 26/1/2024, Jurgen Klopp bất ngờ thông báo chia tay đội bóng sau khi mùa giải 2023-2024 khép lại, vì đang "cạn năng lượng".[85]

Phong cách huấn luyện sửa

Klopp là một trong những HLV đáng chú ý sử dụng chiến thuật Gegenpressing, đặc điểm của chiến thuật này là chủ động giành lại bóng khi mất quyền kiểm soát bóng. Theo ông, một hệ thống phản công tốt sẽ hiệu quả hơn các cầu thủ kiến tạo.[86] Klopp nói về chiến thuật pressing của ông rằng: "Thời điểm tốt nhất để giành lại bóng là sau khi để mất nó. Trong lúc cầu thủ đối phương đang tìm vị trí chuyền bóng. Anh ta sẽ tập trung vào tắc, cắt, hoặc chặn bóng và sẽ tiêu hao năng lượng. Đây là lúc anh ta yếu nhất".[87] Chiến thuật của HLV người Đức yêu cầu các cầu thủ phải có tốc độ, cách tổ chức đội hình và thể lực, sức bền tốt cũng như tính kỉ luật cao. Trong trận bóng, đội bóng của Klopp triển khai pressing hạn chế không gian của đối phương nhằm ép đối thủ phải chuyền bóng dẫn tới sơ hở, đồng thời phòng thủ trước những đường bóng dài nhắm tới khu cấm địa. Mặc dù đem lại khả năng tấn công mạnh mẽ nhưng Klopp đã nhiều lần bị chỉ trích vì không thể điều khiển trận đấu và giữ sạch lưới. Trong thời gian ở Liverpool, Klopp đã hoàn thiện lối chơi với khả năng kiểm soát bóng tốt hơn và một hàng tiền vệ có tổ chức. Nhờ bản hợp đồng với Alisson, Virgil van Dijk, Naby KeïtaFabinho trước mùa giải 2018–19, Liverpool đã đạt được thành tích khởi đầu mùa giải xuất sắc nhất lịch sử câu lạc bộ và ở giai đoạn giữa mùa, khi chỉ để thủng lưới 7 bàn và giữ sạch lưới trong 12 trận.[88]

Truyền thông sửa

Kể từ năm 2005, Klopp thường xuất hiện trên truyền hình trong vai trò bình luận viên, và đưa ra nhận định của ông ở những trận đấu của đội tuyển Đức. Ngày 20 tháng 10 năm 2006, ông được trao giải thưởng truyền hình Đức ở hạng mục chương trình thể thao xuất sắc nhất. Sau Euro 2008. vị trí của ông được Oliver Kahn thay thế. Tại World Cup 2010, Ông cộng tác với đài RTL cùng với Günther Jauch.

Đời sống cá nhân sửa

Ông có hai người con trai, trong đó một người từng đá cho Borussia Dortmund II trước khi phải giải nghệ do chấn thương.[89] Từ năm 2009, Klopp sống tại Herdecke, nơi nhiều cầu thủ Borussia Dortmund cũng đang sinh sống. Klopp là một Kitô hữu Tin Lành.[90][91][92] Ngày 2 tháng 1 năm 2022, ông được phát hiện dương tính với COVID-19.

Thống kê huấn luyện sửa

Tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2022
Managerial record by team and tenure
Đội Từ Đến Thống kê Nguồn
P W D L Win %
Mainz 05 27 tháng 2 năm 2001 30 tháng 6 năm 2008| style="text-align:center" |&0000000000000270000000270 &0000000000000109000000109 &000000000000007800000078 &000000000000008300000083 0&000000000000004039999940,4 &0000000000000109000000109 &000000000000007800000078 &000000000000008300000083 0&000000000000004039999940,4 [93]
Borussia Dortmund 1 tháng 7 năm 2008 30 tháng 6 năm 2015| style="text-align:center" |&0000000000000317000000317 &0000000000000178000000178 &000000000000006900000069 &000000000000007000000070 0&000000000000005620000056,2 &0000000000000178000000178 &000000000000006900000069 &000000000000007000000070 0&000000000000005620000056,2 [94]
Liverpool 8 tháng 10 năm 2015 Nay| style="text-align:center" |&0000000000000382000000382 &0000000000000235000000235 &000000000000008600000086 &000000000000006100000061 0&000000000000006150000061,5 &0000000000000235000000235 &000000000000008600000086 &000000000000006100000061 0&000000000000006150000061,5 [95]
Tổng cộng &0000000000000969000000969 &0000000000000522000000522 &0000000000000233000000233 &0000000000000214000000214 0&000000000000005389999953,9 &0000000000000522000000522 &0000000000000233000000233 &0000000000000214000000214 0&000000000000005389999953,9

Danh hiệu sửa

Câu lạc bộ sửa

 
Klopp (thứ hai từ trái sang) ăn mừng chiến thắng Bundesliga năm 2011.

Borussia Dortmund sửa

Liverpool sửa

Cá nhân sửa

Tham khảo sửa

  1. ^ Malam, Charlie (ngày 24 tháng 12 năm 2015). “From Mainz to Merseyside: What does the next chapter hold in the Jürgen Klopp story?”. Vavel. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2018.
  2. ^ “Jürgen Klopp League Managers Association profile”. League Managers Association. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2018.
  3. ^ HT (ngày 8 tháng 10 năm 2015). “CHÍNH THỨC: Juergen Klopp đạt thỏa thuận với Liverpool, ký hợp đồng 3 năm, lương 4 triệu bảng/mùa”. Thể thao và Văn hóa. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2016.
  4. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Klopp: Jürgen Norbert Klopp
  5. ^ “Jürgen Klopp”. worldfootball.net. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2016.
  6. ^ “Trainer Krautzun bei Mainz 05 entlassen” [Manager Krautzun released by Mainz 05]. Rheinische Post (bằng tiếng Đức). Deutsche Presse-Agentur. ngày 27 tháng 2 năm 2001. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2016.
  7. ^ “Mainz 05 entlässt trainer Krautzun” [Mainz 05 sack manager Krautzun]. Die Welt (bằng tiếng Đức). Junge Freiheit. Deutsche Presse-Agentur, Sport-Informations-Dienst. ngày 28 tháng 2 năm 2001. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2016.
  8. ^ Ron (ngày 28 tháng 2 năm 2001). “FSV Mainz 05 – MSV Duisburg 1:0 (1:0)”. Bundesliga (bằng tiếng Đức). Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 4 năm 2001. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2016. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  9. ^ “Foto-show: Die besten bilder aus Jürgen Klopps karriere” [Image slideshow: The best images of Jürgen Klopp's career]. T-Online (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2016.
  10. ^ Alf, Andreas (ngày 14 tháng 7 năm 2005). “Mainz take step into unknown”. UEFA.com. Union of European Football Associations. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2016.
  11. ^ Rehberg, Reinhard; Schneider, Jörg (ngày 23 tháng 5 năm 2007). “Jürgen Klopp im interview: Abstieg ist verarbeitet” [Jürgen Klopp in an interview: Relegation is processed]. Rhein-Zeitung (bằng tiếng Đức). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2016.
  12. ^ “Klopp nimmt tränenreichen Abschied von Mainz” [Klopp takes tearful farewell to Mainz]. Handelsblatt (bằng tiếng Đức). ngày 19 tháng 5 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2016.
  13. ^ “1. FSV Mainz 05 – Trainerhistorie” (bằng tiếng Đức). kicker. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2016.
  14. ^ Hunter, Andy (31 tháng 5 năm 2019). “How a gut decision began Jürgen Klopp's managerial rollercoaster”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023.
  15. ^ “Klopp entfacht beim BVB aufbruchstimmung” [Klopp kindles departure tendency with BVB]. Der Tagesspiegel (bằng tiếng Đức). ngày 23 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2016.
  16. ^ “Absturz des BVB: Doll tritt in Dortmund züruck” [Crash of BVB: Doll withdraws in Dortmund]. Der Spiegel (bằng tiếng Đức). ngày 19 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2016.
  17. ^ Fiore, Raphael (ngày 19 tháng 5 năm 2008). “Doll verlässt Borussia Dortmund” [Doll leaves Borussia Dortmund]. Blick (bằng tiếng Đức). Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2016.
  18. ^ “Dortmund beat Bayern to retain Super Cup”. ESPN Soccernet. ngày 23 tháng 7 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2012.
  19. ^ “Borussia Dortmund win title”. eurosport.com. ngày 1 tháng 5 năm 2011.
  20. ^ “Borussia Dortmund clinch back-to-back Bundesliga titles”. The Guardian (bằng tiếng Anh). 21 tháng 4 năm 2012. ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023.
  21. ^ Penders, Peter (ngày 5 tháng 5 năm 2012). “Dortmunder Rekord-Meister” [4–0 against Freiburg: Dortmunder record champions]. Frankfurter Allgemeine (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2016.
  22. ^ “Season review: Germany”. www.uefa.com. ngày 23 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2012.
  23. ^ Rößner, Jörg (ngày 19 tháng 5 năm 2013). “Super Saison! Meister Bayern stellt 30 Rekorde auf” [Super season! Champions Bayern is on 30 records]. Die Welt (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2016.
  24. ^ a b “Borussia Dortmund win domestic double beating Bayern Munich”. zeenews.com. ngày 13 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2012.
  25. ^ “Dortmund rout Bayern to claim double”. ESPN Soccernet. ngày 12 tháng 5 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2012.
  26. ^ “Bundesliga champ Borussia Dortmund beats Bayern Munich 5–2 to win German Cup final”. WP Sports. ngày 12 tháng 5 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2012.
  27. ^ Ahmed, Shahan (ngày 6 tháng 11 năm 2012). “Real Madrid, Borussia Dortmund meet again in Champions League 'group of death'. Yahoo! Sports. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2016.
  28. ^ “Bayern Munich to face Barca in semis, Real vs Dortmund”. Reuters. ngày 12 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2016.
  29. ^ “Jürgen Klopp targets Champions League final glory for Dortmund”. The Guardian. London. ngày 30 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2013.
  30. ^ “Robben setzt Bayern Europas Krone auf”. kicker (bằng tiếng Đức). ngày 25 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2014.
  31. ^ “Klopp signs Dortmund extension until 2018”. Goal.com. ngày 30 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2013.
  32. ^ “Klopp muss 10.000 Euro Strafe zahlen”. Süddeutsche Zeitung (bằng tiếng Đức). ngày 17 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2014.
  33. ^ a b c Kops, Calle (ngày 17 tháng 3 năm 2014). “Dortmund's 'repeat offender' Klopp hit with fine”. Deutsche Welle. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2014.
  34. ^ “Jurgen Klopp: Borussia Dortmund coach to leave at end of the season”. BBC Sport. ngày 15 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2015.
  35. ^ “Klopp und der BVB: Trennung am Saisonende”. dfb.de. ngày 15 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2015.
  36. ^ Hummel, Thomas (ngày 15 tháng 4 năm 2015). “Der große Kopf muss weg” (bằng tiếng Đức). Süddeutsche Zeitung. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2015.
  37. ^ “Borussia Dortmund vs. VfL Wolfsburg - Football Match Report - May 30, 2015 - ESPN”. ESPN.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023.
  38. ^ “Borussia Dortmund – Trainerhistorie” (bằng tiếng Đức). kicker. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2016.
  39. ^ “Liverpool FC confirm Jürgen Klopp appointment”. Liverpool F.C. ngày 8 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2015.
  40. ^ “HLV Jurgen Klopp dẫn dắt Liverpool với hợp đồng 15 triệu bảng”. Báo Nhân Dân điện tử. 9 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023.
  41. ^ McNulty, Phil (ngày 17 tháng 10 năm 2015). “Tottenham 0–0 Liverpool”. BBC Sport. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2015.
  42. ^ “Liverpool 1–0 Bournemouth”. BBC Sport. ngày 28 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2015.
  43. ^ “Chelsea 1–3 Liverpool”. BBC Sport. ngày 31 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2015.
  44. ^ “FC_Rubin_Kazan 0–1 Liverpool”. SkySports. ngày 5 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2015.
  45. ^ “Jurgen Klopp misses Liverpool v Sunderland to have operation”. BBC Sport. ngày 6 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2016.
  46. ^ “Liverpool 1-1 Manchester City (pens 1-3)”. BBC Sport (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023.
  47. ^ McNulty, Phil (ngày 18 tháng 3 năm 2016). “Manchester United 1–1 Liverpool”. BBC Sport. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2016.
  48. ^ McNulty, Phil (ngày 14 tháng 4 năm 2016). “Liverpool 4–3 Borussia Dortmund”. BBC Sport. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2016.
  49. ^ “Liverpool push past 10-man Villarreal and into Europa League final”. Guardian. ngày 5 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2016.
  50. ^ Bascombe, Chris (ngày 18 tháng 5 năm 2016). “Liverpool lose Europa League final: I don't think I'm unlucky, says Jurgen Klopp, after fifth final loss”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2016.
  51. ^ “Premier League Live Table, Season 2015/16”. www.premierleague.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023.
  52. ^ “Jurgen Klopp: Liverpool manager signs six-year contract extension”. BBC Sport.
  53. ^ “Liverpool complete deal for Sadio Mane”. Liverpool FC. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023.
  54. ^ VTV, BAO DIEN TU (22 tháng 5 năm 2017). “Liverpool 3-0 Middlesbrough: Vẫy chào Champions League!”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023.
  55. ^ “CHÍNH THỨC: Liverpool chiêu mộ thành công Salah | Goal.com”. www.goal.com. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2022.
  56. ^ NLD.COM.VN (28 tháng 12 năm 2017). “Liverpool mua trung vệ đắt nhất thế giới Virgil van Dijk”. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2022.
  57. ^ “CHÍNH THỨC: Barcelona chiêu mộ thành công Philippe Coutinho | Goal.com”. www.goal.com. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2022.
  58. ^ Smyth, Rob (13 tháng 5 năm 2018). “Liverpool 4-0 Brighton: Premier League – as it happened”. the Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023.
  59. ^ UEFA.com (21 tháng 5 năm 2018). “How Madrid and Liverpool reached the final”. UEFA.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023.
  60. ^ “Real Madrid vô địch Champions League năm thứ ba liên tiếp”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2022.
  61. ^ “Liverpool confirm Keita deal for 2018”. BBC Sport (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023.
  62. ^ Online, TTVH (29 tháng 5 năm 2018). “CHÍNH THỨC: Liverpool bất ngờ mua Fabinho từ Monaco với giá 45 triệu bảng”. thethaovanhoa.vn. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023.
  63. ^ “CHÍNH THỨC: Liverpool chiêu mộ thành công Xherdan Shaqiri | Goal.com”. www.goal.com. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023.
  64. ^ VnExpress. “Liverpool biến Alisson thành thủ môn đắt giá nhất thế giới”. vnexpress.net. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023.
  65. ^ “Thắng dễ Wolves 2-0, Liverpool trở thành kẻ về nhì vĩ đại”. laodong.vn. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2022.
  66. ^ “Messi lập cú đúp giúp Barca thắng Liverpool 3-0”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2022.
  67. ^ “Liverpool thắng ngược Barca ở bán kết Champions League”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2021.
  68. ^ “Thắng dễ Tottenham 2-0, Liverpool lần thứ 6 vô địch UEFA Champions League”. laodong.vn. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2022.
  69. ^ “Liverpool đoạt Siêu cup châu Âu 2019”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2022.
  70. ^ “Liverpool vô địch FIFA Club World Cup 2019”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2022.
  71. ^ “Chính thức: Premier League tạm hoãn đến ngày 3/4 vì Covid-19”. vov.gov.vn. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023.
  72. ^ Online, TTVH (31 tháng 3 năm 2020). “Tiết lộ: BTC Ngoại hạng Anh đã lên kế hoạch trao cúp cho Liverpool”. thethaovanhoa.vn. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023.
  73. ^ VTV, BAO DIEN TU (26 tháng 6 năm 2020). “Chelsea 2-1 Man City: Man xanh thất bại, Liverpool vô địch sớm 7 vòng đấu”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2022.
  74. ^ VTV, BAO DIEN TU (26 tháng 6 năm 2020). “Vô địch Ngoại hạng Anh sau 30 năm, Liverpool tạo ra những kỷ lục vô tiền khoáng hậu”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2023.
  75. ^ “Liverpool thua 2-7 ở Ngoại hạng Anh”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2021.
  76. ^ Thielen, Matt. “Jordan Henderson Reacts To Liverpool's 3rd Place Finish”. Sports Illustrated Liverpool FC News, Analysis, and More (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2022.
  77. ^ “Liverpool hạ Chelsea ở chung kết Cup Liên Đoàn”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2022.
  78. ^ Trí, Dân. “Đánh bại Chelsea, Liverpool vô địch FA Cup”. Báo điện tử Dân Trí. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2022.
  79. ^ VnExpress. “Klopp dẫn dắt Liverpool đến 2026”. vnexpress.net. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023.
  80. ^ “Tense Liverpool victory over Wolves in vain”. BBC Sport (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2022.
  81. ^ News, V. T. C. (29 tháng 5 năm 2022). “Quật ngã Liverpool, Real Madrid vẫn là hoàng đế ở Champions League”. Báo điện tử VTC News. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2022.
  82. ^ “Liverpool 3-1 Manchester City: Late Mohamed Salah, Darwin Nunez goals see Reds win Community Shield”. Eurosport (bằng tiếng Anh). 30 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2023.
  83. ^ VnExpress. “Liverpool thắng Man Utd 7-0”. vnexpress.net. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2024.
  84. ^ O'Neill, Caoimhe. “Liverpool 2022-23 season review: Moments to remember forever but glad it's over”. The Athletic (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2024.
  85. ^ VnExpress. “Klopp rời Liverpool cuối mùa này - VnExpress”. vnexpress.net. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2024.
  86. ^ Wright, Nick. “How the pressing game is powering the Premier League's top clubs”. Sky Sports. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2018.
  87. ^ Wilson, Jonathan. “Jürgen Klopp Jürgen Klopp's Liverpool and the importance of 'gegenpressing'. The Guardian. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2018.
  88. ^ “Comparing Liverpool's stats to the halfway point last season”. Planet Football. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2018.
  89. ^ “Borussia Dortmund II Klopp hört auf”. reviersport.de. ngày 15 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2013.
  90. ^ “Gott, Klopp, bist du ein Penner!”. fr-online.de. ngày 10 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2013.
  91. ^ Seeger, Stephan (ngày 14 tháng 1 năm 2011). “Spitzenreiter mit Gottes Segen”. rp-online.de. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2013.
  92. ^ “Jürgen Klopp Ein Vorwort”. Fußball-Gott.com. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2013.
  93. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên MainzKicker
  94. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên DortmundKicker
  95. ^ “Managers: Jürgen Klopp”. LFC History. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2020.
  96. ^ a b “Marco Reus ist Fußballer des Jahres” [Marco Reus is footballer of the year]. kicker (bằng tiếng Đức). Olympia-Verlag. 12 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2015.
  97. ^ “Jürgen Klopp ist Trainer des Jahres 2019”. kicker.de (bằng tiếng Đức). 28 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2019.
  98. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên fernsehpreis2006
  99. ^ “DER DEUTSCHE FERNSEHPREIS – Die Preisträger 2010” (PDF). DER DEUTSCHE FERNSEHPREIS. deutscher-fernsehpreis.de. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2018.
  100. ^ “Numéro 327 : Onze d'Or 2019, Sadio Mané le tube de l'été !” [Issue 327: Onze d'Or 2019 – Sadio Mané is the summer hit!]. Onze Mondial (bằng tiếng Pháp). 6 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2019.
  101. ^ “Messi, Rapinoe Crowned The Best in Milan”. FIFA. 23 tháng 9 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2019.
  102. ^ Westwood, James (17 tháng 12 năm 2020). “Klopp named The Best FIFA Men's Coach for the second time as Liverpool boss beats Flick and Bielsa to award”. Goal. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2020.
  103. ^ “IFFHS AWARDS 2019 – THE WORLD'S BEST CLUB COACH : JÜRGEN KLOPP (GERMANY/FC LIVERPOOL)”. International Federation of Football History & Statistics. 26 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2019.
  104. ^ “IFFHS AWARDS 2019 – THE IFFHS MEN WORLD TEAM OF THE YEAR 2019”. International Federation of Football History & Statistics. 30 tháng 11 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2019.
  105. ^ Tremlett, Sam (27 tháng 12 năm 2019). “Lionel Messi Named World Player of the Year in World Soccer Awards”. World Soccer. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2019.
  106. ^ “Jurgen Klopp – Best Coach of the Year”. Globe Soccer Awards. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2019.
  107. ^ “PEP GUARDIOLA AND JÜRGEN KLOPP INDUCTED INTO THE LMA HALL OF FAME”. League Managers Association. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2019.
  108. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên LMA2020
  109. ^ “Jürgen Klopp wins the Sir Alex Ferguson Trophy for the LMA Manager of the Year”. League Managers Association. 25 tháng 5 năm 2022. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2022.
  110. ^ “Klopp earns 2019/20 Barclays Manager of the Season award”. Premier League. 15 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2020.
  111. ^ “Klopp named Barclays Manager of the Season”. Premier League. 24 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2022.
  112. ^ “Manager profile: Jürgen Klopp”. Premier League. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2020.
  113. ^ “Liverpool and Jurgen Klopp win Team and Coach of the Year at Sports Personality of the Year 2020”. BBC Sport. 20 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2020.

Liên kết ngoài sửa

Bản mẫu:Premier League managers