Lý Bạch
Lý Bạch hành ngâm đồ, họa phẩm của Lương Khải (1140–1210) thời nhà Tống, hiện nằm trong bộ sưu tập của Bảo tàng Quốc gia Tokyo, Nhật Bản.
Sinh701
Toái Diệp, Đại Đường (nay thuộc vùng Chuy, Kyrgyzstan)
Mất762 (61 tuổi)
Đang Đồ, Đại Đường (nay thuộc tỉnh An Huy, Trung Quốc)
Nghề nghiệpNhà thơ
Giai đoạn sáng tácThịnh Đường
Thể loạiThơ Đường
Tác phẩm nổi bậtVọng Lư sơn bộc bố
Hiệp khách hành
Tĩnh dạ tứ
Tương tiến tửu
Thanh Bình Điệu
Leeaan/nháp
"Lý Bạch" viết theo lối khải thư
Tên tiếng Trung
Tiếng Trung李白
Tên tiếng Triều Tiên
Hangul
Hanja
Tên tiếng Nhật
Kanji李白
Hiraganaりはく

Lý Bạch (chữ Hán: 李白; 701–762) là một nhà thơ Trung Quốc theo chủ nghĩa lãng mạn sống vào thời nhà Đường. Ông cùng người bạn vong niên Đỗ Phủ, gọi chung là "Lý Đỗ" (李杜), thường được xem là hai nhà thơ vĩ đại nhất của Trung Quốc nói riêng và toàn bộ khu vực Đông Á đồng văn nói chung. Một số tác phẩm nổi bật của Lý Bạch gồm có Vọng Lư sơn bộc bố (725), Tĩnh dạ tứ (726), Tương tiến tửu (735), Hành lộ nan (742) và Thanh bình điệu (743).

Sinh ra ở Tây Vực, Lý Bạch cùng gia đình chuyển đến sinh sống tại làng Thanh Liên ở Tứ Xuyên khi mới 5 tuổi. Lúc còn nhỏ, Lý Bạch được cha mẹ tạo điều kiện học hành, có dịp tiếp xúc với các kinh điển Nho giáo cũng như trước tác của Bách gia chư tử và nhờ đó đã sớm bộc lộ năng khiếu văn học của mình. Bên cạnh thi ca, Lý Bạch từ nhỏ đã đam mê kiếm thuật, dần trở thành một kiếm sĩ tài năng. Năm 725, Lý Bạch rời quê hương "chống kiếm viễn du" ở tuổi 25, tham quan nhiều danh lam thắng cảnh của Trung Quốc. Năm 742, sau nhiều năm bôn ba khắp tứ phương, ông gặp gỡ Hạ Tri Chương tại Trường An, được người này tiến cử với Đường Minh Hoàng và trở thành Hàn lâm học sĩ. Sau một thời gian, do viết điệu nhạc Thanh bình điệu làm phật lòng Dương quý phi, Lý Bạch buộc phải rời khỏi Trường An, tiếp tục ngao du sơn thủy.

Mùa thu năm 744, khi đến Lạc Dương, Lý Bạch gặp Đỗ Phủ kết làm bạn vong niên. Sau nửa năm, ông từ biệt Đỗ Phủ, du ngoạn ở phương Nam trước khi tới Lư Sơn quy ẩn. Năm 756, giữa lúc Loạn An Sử diễn ra, Lý Bạch được Vĩnh vương Lý Lân mời đến phò tá. Năm 757, Lý Lân làm phản, bị anh trai là Đường Túc Tông đánh bại. Lý Bạch do có liên quan nên đã bị khép tội phản nghịch và kết án tử hình nhưng may mắn được Quách Tử Nghi cứu giúp. Sau khi được tha tội, Lý Bạch tiếp tục ngao du thiên hạ trong nhiều năm trước khi qua đời ở Đang Đồ vào năm 762.

Khoảng 1.000 bài thơ được cho là của Lý Bạch vẫn còn tồn tại cho tới tận ngày nay. Một lượng lớn trong số đó được tổng hợp lại trong Hà nhạc anh linh tập, một tuyển tập thơ quan trọng hàng đầu thời Đường do Ân Phan chủ biên vào năm 753. Ngoài ra, 43 bài của ông cũng được chép lại trong tuyển tập Đường thi tam bách thủ của học giả Tôn Thù thời nhà Thanh. Thơ của ông tán dương mối quan hệ bạn bè, sự thần bí của thiên nhiên, tâm trạng tĩnh mịch và thú vui uống rượu. Cuộc đời của ông cũng nhuốm màu truyền kỳ, với những câu chuyện xoay quanh phong cách yêu rượu và tinh thần trượng nghĩa của ông, cũng như điển tích nổi tiếng về việc ông đã chết đuối khi nhảy khỏi thuyền để bắt cái bóng phản chiếu của mặt trăng.

Tên gọi

sửa

Theo Tân Đường thư, mẹ của Lý Bạch lúc mang thai nằm mộng thấy sao Trường Canh (tức sao Kim) từ trên trời rơi vào mình, vì sao này còn có tên là Thái Bạch nên đặt tên con là "Bạch" (白) còn tên chữ là "Thái Bạch" (太白).[1] Trong các ngôn ngữ phương Tây, tên húy và tên chữ của Lý Bạch có thể được viết thành "Li Bai", "Li Po", "Li Bo" và "Li Taibo", "Li Taibai", "Li Tai-po" dựa trên các cách phiên âm của tiếng Quan thoại, hoặc "Ri Haku" hay "Ri Taihaku" theo cách đọc tiếng Nhật. Nghiên cứu ngôn ngữ học cho biết chữ "Bạch" (白) vào thời nhà Đường được đọc là Bhæk, thay vì Bái hoặc như tiếng Quan thoại hiện đại.

Lý Bạch sử dụng tên hiệu là "Thanh Liên cư sĩ" (青莲居士), ám chỉ đến ngôi làng Thanh Liên nơi ông lớn lên. Ông được hậu bối tôn làm "Thi Tiên" (詩仙) hay "Thi Hiệp" (詩俠). Giới thi nhân bấy giờ thì rất kính nể tài uống rượu làm thơ bẩm sinh nên gọi Lý Bạch là "Tửu Tiên" (酒仙). Một bằng hữu của Lý Bạch là Hạ Tri Chương gọi ông là "Thiên Thượng Trích Tiên" (天上謫仙),[2] có thể hiểu là "vị tiên gây họa bị đày xuống trần gian", nên danh xưng "Trích Tiên" hay "Trích Tiên nhân" (謫仙人) cũng được lưu truyền rộng rãi.[3]

Thiếu thời

sửa

Thân thế

sửa

Lý Bạch có nguyên quán ở Thiên Thủy, Cam Túc, tự nhận là hậu duệ của Phi tướng quân Lý Quảng thời Tây HánLý Cảo nước Tây Lương thời Ngũ Hồ Thập lục quốc.[4] Qua đó, ông được xem là thành viên của Lũng Tây Lý thị và là một người họ hàng xa của hoàng tộc họ Lý nhà Đường. Tuy nhiên, cần cân nhắc rằng người thời Đường thường có xu hướng nhận vơ họ hàng nhằm nâng cao địa vị xã hội.[5] Không rõ Lý Bạch sinh vào năm nào. Tuy nhiên, trong Vi Tống trung thừa tự tiến biểu của chính Lý Bạch viết vào năm Chí Đức thứ 2 (757) dưới thời Đường Túc Tông có câu "Thần phục kiến tiền hàn lâm cung phụng Lý Bạch, niên ngũ thập hữu thất". Dựa vào dữ kiện này, có thể đoán rằng ông sinh trong khoảng năm Đại Túc, hoặc Trường An thứ nhất thời Võ Tắc Thiên, tức năm 701.[6] Nơi sinh của Lý Bạch cũng là một đề tài gây tranh luận trong giới nghiên cứu, có tài liệu cho rằng ông được sinh ra tại Cam Túc, số khác lại cho là Điêu Kỳ (tức Ghazna, Afghanistan),[7] tuy nhiên số đông học giả ngày nay đều đồng tình rằng ông được sinh tại thành Toái Diệp, nay là Chuy, Kyrgyzstan.[8][9][10]

Vào cuối thời Tùy, ông cố nội của Lý Bạch vì một lý do không rõ bị đày tới Tây Vực, ban đầu định cư tại khu vực nằm giữa hồ Koko NorLop Nor, tức Thanh Hải và miền Đông Tân Cương ngày nay.[9] Lịch sử của gia đình Lý Bạch trong giai đoạn này là một ẩn số. Vào những năm 670, giữa nhà Đường và Thổ Phồn xảy ra chiến tranh nhằm tranh giành quyền kiểm soát khu vực lòng chảo Tarim. Theo nhà Đông phương học Arthur Waley thì có lẽ trong khoảng thời gian này, gia đình họ Lý di cư về phía Tây hành nghề buôn bán và trở nên giàu có nhờ thương mại dọc theo Con đường tơ lụa.[11][12] Những ký ức mờ nhạt về những ngày tháng sinh sống nơi biên ải tồn đọng trong tâm trí Lý Bạch có thể được khắc họa qua những câu thơ sau đây:

明月出天山 (Minh nguyệt xuất Thiên Sơn)
蒼茫雲海間 (Thương mang vân hải gian)
長風幾萬里 (Trường phong kỷ vạn lý)
吹度玉門關 (Xuy độ Ngọc Môn quan)

Vầng trăng ra núi Thiên San,
Mênh mang nước bể mây ngàn sáng soi.
Gió đâu muôn dặm chạy dài,
Thổi đưa trăng sáng ra ngoài Ngọc Môn.

—trích "Quan san nguyệt" (Tản Đà dịch).

Trong các tác phẩm của mình, Lý Bạch rất hiếm khi nhắc đến các thành viên trong gia đình. Cha của ông, Lý Khách (李客), là một thương nhân thành đạt, buôn bán các mặt hàng mỹ nghệ, sở hữu một số chi nhánh tại các đô thị sầm uất ven bờ Trường Giang. Tuy là một thương nhân, Lý Khách lại được biết đến là một người có học thức, thông thạo các bộ kinh điển của Nho gia. Với nền tảng kiến thức vốn có, ông rất chú trọng đến việc học của con trai. Về phần mẹ của mình, Lý Bạch đặc biệt chưa từng nhắc đến bà trong bất kỳ tác phẩm nào. Một số ý kiến cho rằng bà không phải là người Hán mà là người dân tộc thiểu số, cụ thể là người Đột Quyết.

Thời niên thiếu và giáo dục

sửa
 
Câu đầu trong Nam Hoa kinh,[a] tác phẩm gây ảnh hưởng lớn đến Lý Bạch.

Khi Lý Bạch lên 5 tuổi, gia đình ông quay trở về Trung Thổ và chuyển đến làng Thanh Liên, huyện Xương Long, Miên Châu ở Tứ Xuyên để định cư. Nhận thấy tố chất của con trai, Lý Khách định hướng cho Lý Bạch theo con đường làm quan. Tuy nhiên, bởi xuất thân từ một gia đình hành nghề buôn bán nên Lý Bạch không thể đi theo con đường khoa cử. Nguyên nhân là vì lúc bấy giờ, thương nhân bị xem là tầng lớp đáng khinh của xã hội, do vậy con cái của họ không được phép tham gia các kỳ khoa cử. Con đường duy nhất giúp Lý Bạch trở thành quan là thông qua sự tiến cử của những nhân vật quyền lực, do đó ông được cha tạo điều kiện học tập tốt nhất có thể.

Năm 10 tuổi, dưới sự chỉ bảo của cha và thông qua việc đi học tại trường tư thục, Lý Bạch đã học qua hầu hết các sách vở có sẵn. Do có vị trí tương đối hẻo lánh nên nền giáo dục vùng Tứ Xuyên nhìn chung vẫn lạc hậu, học sinh chủ yếu chỉ có thể tiếp cận các thư tịch của Bách Gia Chư Tử thời Chiến Quốc. Bản thân Lý Bạch không cảm thấy hứng thú với các kinh điển Nho giáo. Những phép tắc và lễ nghi "cứng nhắc" trong Tứ thưNgũ kinh trái ngược với tính "nổi loạn" của ông. Thay vào đó, Lý Bạch bày tỏ sự hứng thú đối với các tác phẩm Đạo giáo, đặc biệt với Nam Hoa kinh. Thông qua "trí tưởng tượng vô biên" của Trang Tử, Lý Bạch cảm thấy như được "đắm chìm trong những mộng tưởng hoang dã của riêng mình". Cũng trong thời gian này, ông cũng bắt đầu tiếp cận với phú, một thể loại văn chương mà nhờ cấu trúc và độ dài không giới hạn của nó, tác giả có nhiều không gian hơn cho việc kịch hóa, mô tả và trình bày. Trong suốt thời trẻ, Lý Bạch xem Tư Mã Tương Như – một thi nhân nổi tiếng với thể loại phú – như một hình mẫu lý tưởng để noi theo.

Lý Khách khuyến khích Lý Bạch làm thơ. Làm thơ tuy không phải là kỹ năng mà một vị quan cần có, song có một số trường hợp xuất thân khiêm tốn nhưng nhờ biệt tài làm thơ mà được trọng dụng, điển hình có Trần Tử Ngang thời Võ Tắc Thiên. Tương tự như các học sinh thời kỳ đó, Lý Bạch học thuộc lòng nhiều thư tịch cổ, trong đó có tổng tập thi văn Chiêu Minh văn tuyển và mô phỏng mỗi tác phẩm trong sách ba lần. Tuy nhiên, ông thường nhanh chóng mất kiên nhẫn và bỏ cuộc sớm khi cảm thấy khó. Tương truyền, trong một lần trốn học đi chơi Lý Bạch thấy một bà lão đang mài một thỏi sắt bên suối. Bà lão đáp rằng chỉ cần bà tiếp tục mài, một ngày nào đó bà sẽ biến thỏi sắt thành một cây kim. Ấn tượng trước ý chí kiên trì của bà lão, Lý Bạch quyết tâm chăm chỉ và kiên nhẫn hơn. Điển tích này chính là nguồn gốc của tục ngữ "có công mài sắt, có ngày nên kim".[b]

Bên cạnh việc học tại gia, Lý Bạch những năm thời niên thiếu từng có một khoảng thời gian sống trong một ngôi chùa Phật giáo. Tại đây, bên cạnh việc đọc sách, ông còn được một nhà sư truyền dạy kiếm thuật. Việc Lý Bạch – một người sùng Đạo giáo – từng sống tại chùa dấy lên một số nghi vấn trong giới nghiên cứu, trong đó có một số ý kiến cho rằng ông từng giết người nên trốn lên chùa lánh nạn. Trong một số tác phẩm của mình, Lý Bạch mô tả việc giết người – thông qua phương pháp ngoa dụ – như một cách để chứng minh sự dũng cảm và kiếm pháp hơn người. Tuy nhiên, việc cố tình giết người là một trọng tội có thể khép vào tội tử hình và xác suất nhà chùa chịu chứa chấp một kẻ giết người là không cao. Do đó Lý Bạch sau thời gian nương nhờ cửa Phật có thể sống một cuộc sống mà không lo bị truy cứu trách nhiệm.

Những trải nghiệm đầu tiên

sửa

Tìm vận may trên đất Thục

sửa
Lý Bạch tham quan danh lam thắng cảnh đất Thục, họa phẩm trên bình phong của Shiokawa Bunri (1808–1877)

Tài năng của Lý Bạch sớm được Lý Khách và khách khứa tới thăm nhà ghi nhận, nhưng họ cho rằng thơ của chàng trai trẻ vẫn mang nặng tính mô phỏng cổ nhân. Tin rằng Bạch thiếu trải nghiệm thực tế để có thể tạo ra những tác phẩm độc đáo, Lý Khách đã cho phép con trai mình lên đường du ngoạn đất Thục để tìm hiểu về cảnh quan, con người và phong tục trong vùng.[13] Năm 718, với một khoản tiền trợ cấp hào phóng từ cha, Lý Bạch lần đầu rời khỏi nhà đi xa. Theo lời tự thuật của Lý Bạch trong Thượng An Châu Bùi trưởng sử thư, ông trong thời gian này từng ẩn cư ở Mân Sơn với đạo sĩ Đông Nham Tử.[14]

Sau khi học đạo ở Mân Sơn một thời gian, Lý Bạch đến Đại Khuông Sơn, Tư Châu tìm kiếm một ẩn sĩ Triệu Nhuy, một trong những người có ảnh hưởng lớn nhất đến thế giới quan của Lý Bạch.[15] Là một tung hoành gia, Triệu Nhuy tin rằng trong việc quản lý quốc gia, trước tiên phải hiểu chính xác tình hình đất nước, dù là thời thịnh trị hay thời loạn, sau đó thi hành các biện pháp tương ứng, hoặc "vương đạo", "bá đạo", hoặc "cường đạo".[c][16] Tuy những lý thuyết này có thể được xem là "lỗi thời" trong bối cảnh triều đại nhà Đường đã đạt đến đỉnh cao quyền lực, sở hữu một trật tự chính trị vững chắc, Lý Bạch vẫn tiếp thu những ý tưởng đó một cách vô điều kiện và bắt đầu nuôi dưỡng hoài bão trở thành một chính khách trong triều. Đối với ông, một con người có hai con đường có thể lựa chọn, hoặc trở thành một chính khách có sự nghiệp lẫy lừng và trở về quê vui thú điền viên lúc tuổi già, hoặc đơn giản là sống ẩn dật hòa mình vào thiên nhiên.[17]

 
Lý Bạch vãn cảnh núi Nga Mi, tranh của Suzuki Hyakunen (1828–1891)

Mùa thu năm 719, sau hơn một năm ở ẩn, Lý Bạch lên đường đến Thành Đô mưu đồ công danh theo lời khuyên của Triệu Nhuy.[18] Ông không vội vàng đến đích mà thường ghé thăm những địa điểm nổi tiếng trên đường đi. Khi đến núi Nga Mi và bị hấp dẫn bởi phong cảnh nơi đây, ông quyết định ở lại chùa Bạch Thủy để đọc sách và thường xuyên đàm đạo cùng một nhà sư tên Tuấn. Thời gian ở cùng với nhà sư để lại trong ông nhiều kỷ niệm đẹp. Hơn ba mươi năm sau, khi nghe tin sư Tuấn viên tịch, Lý Bạch đã sáng tác nên bài Thính Thục tăng Tuấn đàn cầm để tưởng nhớ.[19]

Mùa xuân năm 720, sau khi đến Thành Đô, Lý Bạch tìm cách tiếp cận thứ sử Ích Châu mới nhậm chức, Tô Đĩnh. Sau khi cân nhắc, ông đã chọn bài Đại liệp phú của mình để dâng lên Tô Đĩnh và nhận được sự khen ngợi. Người này cho rằng nếu Lý Bạch cố gắng, chắc chắn tài năng "có thể sánh ngang với Tư Mã Tương Như",[20] và hứa hẹn sẽ ban cho chàng trai trẻ một chức quan nhỏ trong thời gian tới. Tuy nhiên, sau nhiều tháng chờ đợi mà vẫn không nhận được hồi âm từ phía Tô Đĩnh, Lý Bạch chán nản, quyết định rời Thành Đô về quê. Trên thực tế, Tô Đĩnh không tin tưởng Lý Bạch do trong thời gian ở Thành Đô, Bạch trở nên nổi tiếng nhờ việc bốc thuốc chữa bệnh bất chấp việc không được đào tạo bài bản. Từ đó, Lý Bạch xây dựng được mối quan hệ rộng rãi với đủ thể loại người, bao gồm cả những kẻ du thủ du thực, và thường tiêu tiền rất phóng khoáng. Cho rằng đối phương vừa xuất thân thấp hèn, vừa làm lang băm, lại tỏ ra thiếu tôn trọng mình, Tô Đĩnh đã quyết định không mạo hiểm tiến cử Lý Bạch lên triều đình.[21]

Trên đường trở về nhà, Lý Bạch đổi ý đến Du Châu, muốn thử vận may với thái thú Lý Ung – một thư pháp gia nổi tiếng. Cha Lý Ung cũng chính là người từng viết bài bình về bộ Văn tuyển mà Lý Bạch từng học lúc còn nhỏ.[22] Rút kinh nghiệm từ thất bại khi gặp Tô Đĩnh, Lý Bạch quyết định trình lên thơ thay vì phú. Trên đường đến Du Châu, ông lấy cảm hứng từ các giai điệu dân gian để sáng tác nên những bài thơ mang hơi hướng phá cách, không bị giới hạn bởi các quy tắc. Trong số các bài thơ Lý Bạch dâng lên Lý Ung có bài ngũ ngôn tứ tuyệt Ba nữ từ (巴女詞). Tuy nhiên, trái ngược với kỳ vọng, bài thơ trên không nhận được phản ứng tốt từ Lý Ung. Là một người nghiêm túc và có phần bảo thủ, Lý Ung không đánh giá cao những bài thơ mang âm hưởng dân gian, và đặc biệt là từ góc nhìn của một người phụ nữ sầu vì tình.[23] Khi được triệu đến diện kiến, Lý Bạch trình bày dài dòng về thế giới quan và tham vọng chính trị của mình, nhưng Lý Ung – người lúc bấy giờ đã có ác cảm với vị khách mà ông cho là "trơ trẽn" này – đã không hồi đáp lại. Sau hai lần thất bại trong việc tìm kiếm một người bảo trợ, Lý Bạch quyết định quay về nhà.[24]

Trở về quê

sửa
 
Tranh vẽ chùa Vân Nham ở Giang Du, nơi Lý Bạch sinh sống trong phần lớn tuổi thơ.

Mùa thu năm 720, Lý Bạch từ Du Châu trở về quê nhà Giang Du trong tình trạng "kiệt sức và chán nản". Một số người bày tỏ sự cảm thông với ông, cho nằng ông quá tài năng đối với vùng quê hẻo lánh này. Việc ông quay trở về nhà có lẽ đã khiến cha mẹ thất vọng, bởi lẽ theo phong tục địa phương lúc bấy giờ, đàn ông tuổi độ tuổi ông thường được kỳ vọng phải có sự nghiệp và lập gia đình. Tuy nhiên, bất ngờ thay, tin tức Lý Bạch được thứ sử Tô Dĩnh và các quan lại Ích Châu khen ngợi là "thiên tài anh lệ, đặt bút xuống là thơ lên vần"[d] nhanh chóng lan đến vùng quê Giang Du. Khi nghe được những lời tán dương của cấp trên dành cho Lý Bạch, một viên huyện lệnh trong vùng đã mời ông đảm nhiệm một chức quan nhỏ. Người này thực chất hy vọng nếu Bạch nổi tiếng trong tương lai, ông ta sẽ mang tiếng thơm là giúp đỡ người tài. Dưới sự thúc giục của cha, ông bất đắc dĩ chấp nhận công việc khiêm tốn ở huyện nha. Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian, bất mãn trước tính cách tự cao tự đại và thái độ vô cảm của viên huyện lệnh trước những tai ương mà người dân gặp phải, Lý Bạch quyết định từ chức.

Sau khi từ quan, Lý Bạch đến chùa Đại Minh ở núi Đại Khuông. Cuộc sống đơn giản của tăng lữ giúp ông có thể tập trung đọc sách và nghiên cứu thi ca. Trong thời gian ở đây, Lý Bạch được một lão hòa thượng tặng cho một tập thơ của Trần Tử Ngang, một thứ mà ông hằng mong ước. Ấn tượng mạnh bởi những vần thơ "giản lược, mạnh mẽ và dứt khoát", Lý Bạch bắt đầu bắt chước thơ vị tiền bối này. Chính các tác phẩm của Trần Tử Ngang đã định hình phong cách thi ca của Bạch. Nhà thơ này nhận xét rằng thi ca Trung Quốc từ thời Tam Quốc trở về sau đã trở nên "cầu kỳ, mỏng manh, yếu ớt", cho rằng các thi nhân đương thời cần phải tìm về những thời kỳ như Kiến An trở về trước để tìm nguồn cảm hứng. Cả Trần Tử Ngang lẫn Lý Bạch đều đề cao tinh thần văn học thay vì những quy tắc cầu kỳ. Bên cạnh thi ca, Lý Bạch cũng tập trung nghiên cứu lịch sử, chính trị, quân sự và chính vụ. Thất bại ngay từ dưới đáy của hệ thống quan chế khiến ông càng khát vọng tìm cách trở thành một người có tầm ảnh hưởng. Thay vì sống ẩn dật như Triệu Nhuy, Lý Bạch chọn cách "vân du" – đi đến các trung tâm văn hóa và chính trị trong nước và kết giao với những nhân vật có tiếng tăm. Trước ông đã có nhiều người thử phương pháp này và thành công, nhưng cũng không ít người khác thất bại toàn tập. Lý Bạch dự định sẽ chu du tới vùng hạ lưu Trường Giang, nhưng trước hết, ông phải chuyên tâm học tập để chuẩn bị chu đáo cho cuộc hành trình gian nan phía trước.

Hành trình thi ca

sửa

Rời đất Thục

sửa
 
Lý Bạch và thư đồng, tranh của Hashimoto Kansetsu (1883–1945)

Mùa thu năm 724, Lý Bạch cùng thư đồng Đan Sa rời Giang Du, bắt đầu "chống kiếm rời bang quốc, biệt thân bước viễn du". Ông rời đất Thục đến Trung Nguyên với quyết tâm dấn thân vào hoạn lộ, nhưng thay vì đến thẳng Lạc Dương hoặc Trường An, ông lựa chọn xuôi dòng Trường Giang về phía đông tới đất Ngô, Sở với ý định xây dựng tên tuổi mình tại đây, cho rằng lúc bấy giờ vẫn chưa phải thời điểm thích hợp để đến chốn kinh kỳ.[25] Trên đường đi, Lý Bạch ghé qua Thành Đô nhưng không ở lại đây lâu bởi trải nghiệm "xin việc" không mấy tốt đẹp nhiều năm về trước. Sau đó, hai chủ tớ đến núi Nga Mi du ngoạn. Là một đạo nhân, Lý Bạch cho rằng núi non là nơi ở của tiên nhân,[e] do đó ông thường không ngại đường xa để đến các danh sơn tìm kiếm thần tiên. Tuy không đạt được điều mình mong muốn, song chuyến đi tới núi Nga Mi cũng giúp ông tìm được nguồn cảm hứng sáng tác.[25] Khi đi thuyền xuôi dòng sông Thanh Y trong đêm, cảnh vật thanh lệ tĩnh mịch hai bên bờ sông khiến Lý Bạch nhớ nhà. Không thể kiềm lòng, ông đã ngâm tụng bài thơ Nga Mi sơn nguyệt. Bài thơ này cũng đánh dấu sự nổi lên của Lý Bạch như một nhà thơ thực thụ, vì giờ đây ông có thể sáng tác những tác phẩm độc đáo của mình và thoát khỏi cái mác bắt chước tiền nhân.[26]

Lý Bạch ở lại Vạn Châu ước chừng nửa năm, trước khi vượt Tam Hiệp để tiến vào đất Sở cũ. Ông xuôi dòng Trường Giang để đến Giang Lăng, thủ phủ của Kinh Châu. Tại đây ông có dịp tiếp xúc với các giai điệu dân gian đất Sở và thường ghé đến các nhà hàng, quán rượu hoặc quán trà để được nghe những ca nữ hát. Lý Bạch "cảm động tới mức rơi lệ" trước những câu ca than thở về những mối tình trắc trở, hay sự ngắn ngủi của thanh xuân. Ông cũng bắt đầu sáng tác những bài thơ mang âm hưởng Sở của riêng mình nhưng không mấy thành công.[27]

 
Lý Bạch tự ví mình là "chim bằng" còn Tư Mã Thừa Trinh là "chim hiếm", nói lên chí hướng của mình như đại bằng giương cánh. Tranh vẽ cánh chim bằng từ cuốn Kyōka Hyaku Monogatari của Ryūkansai, xuất bản năm 1853 tại Nhật Bản.

Cũng tại Giang Lăng, Lý Bạch gặp một người đồng hương và được kể về một đạo sĩ nổi tiếng Tư Mã Thừa Trinh (655–735) – người từng được ba vị vua nhà Đường mời vào cung giảng đạo[28] – lúc bấy giờ đang tới Hành Sơn du ngoạn. Hai người liền lên đường tìm cách yết kiến vị đạo sĩ này. Khi gặp Lý Bạch, Tư Mã Thừa Trinh ấn tượng mạnh mẽ trước "tiên phong đạo cốt" và những câu trả lời tự tin thể hiện quan điểm "vô vi" của chàng trai trẻ này. Cuộc gặp gỡ với Tư Mã đạo trưởng càng khiến Lý Bạch tin rằng ông có "tiên căn", tức là có mang cốt cách thần tiên. Điều này có ảnh hưởng lớn tới cách suy nghĩ cũng như những tác phẩm sau này của ông.[29] Bản thân Lý Bạch cũng cân nhắc tới việc trở thành một đạo sĩ trong tương lại nếu con đường làm quan gặp trắc trở.[30] Nhận được lời khen từ một nhân vật lớn như vậy, Lý Bạch dựa vào điển tích từ Nam Hoa kinh viết nên bài Đại bằng phú, ví bản thân như con chim bằng để thể hiện hoài bão của mình:

Giang Hạ và Lư Sơn (725)

sửa
 
Hoàng Hạc lâu là địa điểm check-in ưa thích của các thi nhân thời Đường. Bản thân Lý Bạch có hơn 50 tác phẩm đề cập đến thắng cảnh này.

Đầu năm 725, Lý Bạch lên thuyền xuôi dòng Trường Giang và đến Giang Hạ (nay là Vũ Hán) vào cuối mùa hè cùng năm. Tại đây, ông có dịp ghé thăm Hoàng Hạc lâu, vốn là một địa điểm mà các thi nhân thời bấy giờ thường tới thưởng ngoạn phong cảnh và làm thơ. Tương truyền, Lý Bạch lúc bấy giờ định đặt bút làm thơ, nhưng đã thấy Thôi Hiệu đề thơ lên vách nên đã từ bỏ ý định làm thơ vịnh lầu. Có thuyết cho rằng, ông đã đặt bút viết thơ lên giấy song đã xé nó ngay sau đó. Trên thực tế, Lý Bạch cảm thấy ghen tị với Thôi Hiệu, một người ít hơn ông 3 tuổi, song đã thi đậu tiến sĩ ít năm trước ở tuổi 19 và hiện đã làm quan trong triều. Lúc bấy giờ, cận thể thi[f] – một thể loại thơ tương đối mới vốn thịnh hành ở chốn kinh thành – không phải là một thế mạnh của Lý Bạch. Do đó, ông tạm thời chấp nhận sự vượt trội của Thôi Hiệu, nhưng sẽ quay trở lại Hoàng Hạc lâu nhiều lần trong tương lai.

 
Lý Bạch ngắm thác núi Lư, tranh của Yokoyama Taikan (1868–1958)

Mùa thu năm 725, Lý Bạch và thư đồng Đan Sa rời Giang Hạ để tới Cửu Giang, tham quan Lư Sơn. Tại đây, hai người đã tới chùa Đông Lâm, nơi sinh sống của Huệ Viễn (334–416), một vị cao tăng thời Đông Tấn và đồng thời một nhân vật mà Bạch ngưỡng mộ. Sau khi tham quan chùa, ông đã leo lên đỉnh núi Lư Sơn cùng với các nhà sư. Ấn tượng trước phong cảnh của núi non nơi đây, Lý Bạch đã sáng tác một số bài thơ, trong đó có một bài thất ngôn tứ tuyệt khắc họa sự hùng vĩ của thác nước chảy từ núi Hương Lô:

日照香爐生紫煙 (Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên)
遙看瀑布掛前川 (Dao khan bộc bố quải tiền xuyên)
飛流直下三千尺 (Phi lưu trực há tam thiên xích)
疑是銀河落九天 (Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên)

Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này:
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.

Xa ngắm thác núi Lư, Nam Trân dịch.

Sau khi rời Lư Sơn, Lý Bạch đến thăm nơi ở của nhà thơ Đào Tiềm thời Đông Tấn ở gần đó. Thơ của Đào Tiềm rơi vào lãng quên trong hàng trăm năm và chỉ bắt đầu được đón nhận những năm đầu thế kỷ thứ 8 khi Lý Bạch mới sinh ra. Trường phái thơ điền viên của Đào Tiềm được giới thi sĩ lúc bấy giờ, bao gồm Lý Bạch, mến mộ. Tuy là vậy, hai con người này sở hữu hai thế giới quan hoàn toàn khác biệt nhau. Đào Tiềm từ chối hợp tác với tầng lớp thống trị mà lựa chọn một cuộc sống giản dị ở nông thôn. Những sáng tác của ông đồng thời thể hiện sự gần gũi với thiên nhiên, mang đậm tính chất thôn quê dân dã. Ngược lại, thơ của Lý Bạch mang những đặc tính "buông thả, nhiệt huyết" và dường như "đến từ một thế giới khác". Cho rằng trạng thái trở về với thiên nhiên của Đào Tiềm đồng nghĩa với một cuộc sống vất vả, nhún nhường, Lý Bạch đã không bao giờ lựa chọn đi theo con đường này.

Những ngày tháng khó khăn ở Kim Lăng và Dương Châu (726)

sửa

Lý Bạch đến Kim Lăng (nay là Nam Kinh) vào mùa xuân năm 726, nơi gia đình ông có một tiệm bán hàng. Những khu chợ tấp nập và những đoàn thuyền đầy ắp hàng hóa mà Lý Bạch lần đầu tiên nhìn thấy gây ấn tượng mạnh với ông. Ông bắt đầu sống một cuộc sống vô lo vô nghĩ, kết giao bằng hữu, bố thí cho người nghèo. Theo lời tự bạch, Lý Bạch đã tiêu hết 30 vạn quan tiền chỉ trong vỏn vẹn 1 năm. Cũng trong thời gian này, Lý Bạch cầu kiến nhiều nhân vật quyền quý trong bộ máy chính trị với mong muốn được tuyển dụng, nhưng bị số đông từ chối gặp mặt. Một nguyên nhân khác là vì lúc này, Đường Huyền Tông chuẩn bị tới Thái Sơn ở Sơn Đông vãn cảnh, các châu huyện đều bận rộn cử người tới dự và không ai muốn tiếp ông. Cô đơn, ông bầu bạn với rượu và kỹ nữ, nhưng chỉ được ít lâu thì hết tiền. Có lẽ do gia đình ông gặp vấn đề về tài chính và không thể chu cấp cho ông. Trên đất Kim Lăng, Lý Bạch không thể tìm thấy một người bạn thực sự, những người bạn mới quen đều lần lượt ra đi khi ông rơi vào cảnh túng thiếu. Trong bối cảnh đó, Lý Bạch viết: "Thỉnh quân thí vấn đông lưu thuỷ, Biệt ý dữ chi thuỳ đoản trường?"[g] Trong truyền thống thi ca Trung Quốc, "đông lưu thuỷ" – nước chảy về đông – là hình ảnh ẩn dụ cho nỗi buồn, song Lý Bạch sử dụng nó để đề cập tới tình bạn và tình cảm, thể hiện niềm khao khát tìm kiếm một tri kỷ.

Cuối mùa hè năm 726, Lý Bạch rời Kim Lăng đến Dương Châu. Trước khi kịp cầu kiến quan chức địa phương, ông ngã bệnh. Lý Bạch rơi vào tình cảnh tuyệt vọng khi ông không còn tiền trả tiền trọ. Trong một bức thư gửi một người bạn, ông nói rằng mình không thể về quê khi chưa thực hiện được hoài bão, mặc dù ông cũng không hoàn toàn tin tưởng vào chính bản thân mình. Trong một đêm mất ngủ, Lý Bạch tức cảnh viết nên những câu thơ sau:

床前明月光,
疑是地上霜。
舉頭望明月,
低頭思故鄉。

Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.

Đầu giường ánh trăng rọi,
Mặt đất như phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.

Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh, Nam Trân dịch.

Chú thích

sửa
  1. ^ Nguyên văn: 北冥有魚,其名為鯤
  2. ^ Nguyên văn: Ma xử thành châm (磨杵成針)
  3. ^ Vương đạo (王道) là đường lối dùng nhân nghĩa để cai trị thiên hạ; Bá đạo (霸道) là đường lối dùng vũ lực, hình pháp, quyền thế để cai trị thiên hạ; Cường đạo (強道) là đường lối dùng sự cường bạo để cai trị thiên hạ.
  4. ^ Nguyên văn: Thiên tài anh lệ, hạ bút bất hưu (天才英麗,下筆不休).
  5. ^ Trong chữ Hán, chữ tiên (仙) được cấu thành từ bộ nhân (人; nhân đứng 亻) ở bên trái và chữ sơn (山) ở bên phải, có thể diễn giải thành "người trên núi".
  6. ^ Cận thể thi là một thể loại thơ xuất hiện vào thời Đường, thường có tám câu, mỗi câu bảy chữ (luật thi), có phép gieo vần (vận luật) và tiết tấu (thanh luật) cố định và cặp thứ 2 và 3 phải là cặp đối.
  7. ^ Nguyên văn: 請君試問東流水, 別意與之誰短長. Dịch nghĩa: Nhờ ai hỏi dòng nước chảy về đông, tình ý ly biệt cái nào dài hơn?

Tham khảo

sửa
  1. ^ Ngô Kinh Hùng 1972, tr. 59.
  2. ^ Nguyễn Hiến Lê 1966, tr. 265.
  3. ^ Geissmann 2021, tr. 155.
  4. ^ Obata 1922, tr. 8.
  5. ^ Chu Huân Sơ & Đồng Cường 2000, tr. 23.
  6. ^ Chu Huân Sơ & Đồng Cường 2000, tr. 20.
  7. ^ Eide 1973, tr. 388.
  8. ^ Ngô Kinh Hùng 1972, tr. 57–58.
  9. ^ a b Waley 2022, tr. 104.
  10. ^ Han 2019.
  11. ^ Tôn Du 1982, tr. 20–21.
  12. ^ Eide 1973, tr. 389.
  13. ^ Cáp Kim 2019, tr. 22.
  14. ^ Chu Huân Sơ & Đồng Cường 2000, tr. 60.
  15. ^ Chu Huân Sơ & Đồng Cường 2000, tr. 56.
  16. ^ Chu Huân Sơ & Đồng Cường 2000, tr. 58–59.
  17. ^ Cáp Kim 2019, tr. 24–25.
  18. ^ Cáp Kim 2019, tr. 27.
  19. ^ Cáp Kim 2019, tr. 29.
  20. ^ Waley 2022, tr. 4–5.
  21. ^ Cáp Kim 2019, tr. 35.
  22. ^ Cáp Kim 2019, tr. 36.
  23. ^ Cáp Kim 2019, tr. 37.
  24. ^ Cáp Kim 2019, tr. 38.
  25. ^ a b Cáp Kim 2019, tr. 47.
  26. ^ Cáp Kim 2019, tr. 48.
  27. ^ Cáp Kim 2019, tr. 51–52.
  28. ^ Đông Hồ (1970), tr. 277.
  29. ^ Chu Huân Sơ & Đồng Cường 2000, tr. 72.
  30. ^ Cáp Kim 2019, tr. 54.

Thư mục

sửa

Ấn phẩm

sửa
Phương Tây
  • Landa, Sara (2020). Aurnhammer, Achim; Chen, Zhuangying (biên tập). “Von Li Bai bis Mao Zedong. Chinesische Dichterhelden in der deutschen Lyrik des 20. Jahrhunderts”. Deutsch-chinesische Helden und Anti-Helden (bằng tiếng Đức): 199–212. doi:10.5771/9783956506093-199.
  • Jin, Ha (2019). The Banished Immortal: A Life of Li Bai (Li Po) (bằng tiếng Anh). New York: Pantheon Books. ISBN 978-1-5247-4741-1.
  • Chang, Kang-i Sun; Owen, Stephen (2010). The Cambridge history of Chinese literature (bằng tiếng Anh). Cambridge; New York: Cambridge University Press. doi:10.1017/CHOL9780521855587. ISBN 978-0-521-85559-4.
  • Geissmann, Thomas (2021). “Die Rolle der Gibbons beim chinesischen Dichter Li Bai”. Trong Gredig, Mathias; Winter, Marc; Valär, Rico; Brotbeck, Roman (biên tập). Der doppelte Po und die Musik. Rätoromanisch-chinesische Studien, besonders zu Li Po, Harry Partch und Chasper Po (bằng tiếng Đức). Würzburg: Königshausen & Neumann. tr. 147–172. doi:10.26045/po-007.
  • Varsano, Paula M. (2003). Tracking the Banished Immortal: The Poetry of Li Bo and Its Critical Reception (bằng tiếng Anh). Honolulu: University of Hawaii Press. ISBN 978-0-8248-6527-6.
Tiếng Việt
  • Đông Hồ (1970). Văn-học miền-nam: văn-học Hà-Tiên. Chiêu anh các Hà-Tiên thập cảnh khúc vịnh . Sài Gòn: Xuất bản Quình Lâm. OCLC 10648725.
  • Nguyễn Hiến Lê (1966). Đại cương văn học sử Trung Quốc. Sài Gòn: Nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê.
  • Trần Trung Hỷ (1 tháng 4 năm 2021). “Con người và thờ Lý Bạch qua những lời phẩm bình của cổ nhân”. Chuyên san khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Huế. 130 (6A): 39–54. doi:10.26459/hueunijssh.v130i6A.6141. ISSN 2588-1213.
Tiếng Trung
  • Chu Huân Sơ; Đồng Cường (2000). 李白評傳 [Lý Bạch bình truyện] (bằng tiếng Trung) . Nam Kinh: Nhà xuất bản Đại học Nam Kinh. ISBN 7-305-04351-6.

Trực tuyến

sửa

Liên kết ngoài

sửa