Trần Vũ (đạo diễn)
Trần Vũ (10 tháng 11 năm 1925 – 16 tháng 2 năm 2010) là một đạo diễn điện ảnh, nhà biên kịch điện ảnh người Việt Nam. Ông là đạo diễn của nhiều bộ phim truyện nổi tiếng như Truyện vợ chồng anh Lực, Đến hẹn lại lên, Anh và em. Với những đóng góp cho nền điện ảnh Việt Nam từ những ngày đầu thành lập, ông được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân vào năm 1988 và Giải thưởng Nhà nước vào năm 2007.
Trần Vũ | |
---|---|
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Tên khai sinh | Nguyễn Văn Phú |
Ngày sinh | 10 tháng 11, 1925 |
Nơi sinh | Nam Định |
Mất | |
Ngày mất | 16 tháng 2, 2010 | (84 tuổi)
Nơi mất | Hà Nội |
Giới tính | nam |
Quốc tịch | Việt Nam |
Nghề nghiệp | |
Gia đình | |
Vợ | Nguyễn Thị Đức Hoàn |
Con cái | Nguyễn Thị Phương Hoa |
Danh hiệu | Nghệ sĩ nhân dân (1988) |
Sự nghiệp điện ảnh | |
Năm hoạt động | 1959 – 1997 |
Đào tạo | Trường Điện ảnh Việt Nam |
Thể loại | Phim truyện |
Tác phẩm | |
Giải thưởng | Giải thưởng Nhà nước (2007) |
Giải thưởng | |
Liên hoan phim Việt Nam 1973 Đạo diễn xuất sắc | |
Liên hoan phim Việt Nam 1975 Đạo diễn xuất sắc | |
Liên hoan phim Việt Nam 1977 Biên kịch xuất sắc | |
Website | |
Trần Vũ trên IMDb | |
Tiểu sử
sửaTrần Vũ tên thật là Nguyễn Văn Phú, sinh ngày 10 tháng 11 năm 1925 tại Nam Định. Năm 1959, khi đã 34 tuổi, ông bắt đầu theo học khóa đầu tiên của lớp đạo diễn điện ảnh kéo dài 3 năm của Trường Điện ảnh Việt Nam dưới sự đào tạo của một số đạo diễn đến từ Khối phía Đông như Ajdai Ibraghimov , một đạo diễn người Azerbaijan.[1] Sau hàng loạt giải thưởng tại Liên hoan phim Việt Nam và các liên hoan phim quốc tế, ông được nhà nước trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú vào năm 1984,[2] và Nghệ sĩ nhân dân vào năm 1988.[3]
Năm 2007, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước cho chuyên ngành điện ảnh.[4] Đầu năm 2010, ông lâm bệnh nặng và qua đời vào ngày 16 tháng 2, thọ 85 tuổi.[5]
Sự nghiệp
sửaKhởi đầu
sửaBộ phim đầu tay đồng thời là tác phẩm tốt nghiệp của ông là "Con chim vành khuyên", Trần Vũ là phó đạo diễn cho bộ phim này. Cho đến khi Trần Vũ qua đời, Con chim vành khuyên vẫn là một trong những bộ phim thành công nhất của điện ảnh Việt Nam. Bộ phim không chỉ giành được Bông Sen Vàng cho phim truyện điện ảnh tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 2 nhân dịp 20 năm thành lập ngành Điện ảnh Cách mạng Việt Nam, mà còn nhận được giải đặc biệt dành cho phim ngắn tại Liên hoan phim quốc tế Karlovy Vary vào năm 1962.[5] Con chim vành khuyên được đánh giá là sự "sáng tạo của một nghệ sĩ được đào tạo bài bản, và thoải mái trong hình thức nghệ thuật của mình".[6]
Năm 1963, ông làm phó đạo diễn cho Mai Lộc trong bộ phim Đi bước nữa. Trong đoàn làm phim còn có Nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Đăng Bảy đảm nhiệm quay phim, họa sĩ Nguyễn Như Huân, nhạc sĩ Văn Cao và hai Nghệ sĩ ưu tú là Đức Hoàn, Lưu Xuân Thư với vai trò diễn viên.[7] Năm 1964, ông hợp tác với Nghệ sĩ nhân dân Huy Thành để thực hiện bộ phim Làng nổi. Bộ phim chính thức công chiếu tại Việt Nam vào năm 1965 và sau đó được xuất hiện tại rạp Liên Xô với tên "Добрый дракон".
Miền Bắc sau 1954
sửaĐối với đề tài con người mới trong thời kỳ xây dựng cuộc sống mới sau năm 1954 của điện ảnh Việt Nam, những bộ phim trong giai đoạn 1954–1970 có thể xem là chưa có bộ phim nào thành công. Cho đến năm 1971, Trần Vũ cho ra đời bộ phim truyện Vợ chồng anh Lực. Đây được xem là bộ phim đầu tiên của giai đoạn sau 1971 làm về đề tài này và là phim tiêu biểu cho nghệ thuật hiện thực tâm lý.[8][9] Bộ phim không chỉ giành được Bông sen vàng cho phim truyện điện ảnh tại Liên hoan phim Việt Nam năm 1973 mà còn giúp Trần Vũ nhận được giải Đạo diễn xuất sắc.[10]
Năm 1974, ông lần đầu tiên hợp tác cùng nhà biên kịch Bành Bảo thực hiện bộ phim Đến hẹn lại lên.[11] Cũng từ đây mà cả hai liên tục hợp tác thực hiện nhiều bộ phim đoạt được giải thưởng cao tại các kỳ Liên hoan phim Việt Nam. Bộ phim đã được công chiếu tại Liên Xô với tên До встречи, любимый.[12] Năm 1979, ông trở thành người Việt Nam duy nhất trong ban giám khảo của Liên hoan phim quốc tế Moskva.[13]
Miền Nam sau 1975
sửaNăm 1976, Trần Vũ hợp tác cùng Nghệ sĩ nhân dân Trần Phương để làm bộ phim Chuyến xe bão táp. Đây là bộ phim duy nhất mà Trần Vũ đứng tên đồng biên kịch với Bành Bảo. Không chỉ chiến thắng Bông sen vàng cho phim truyện điện ảnh tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 4 mà bộ phim còn giúp Trần Vũ nhận được giải Biên kịch xuất sắc.[14]
Sau sự thành công của Chuyến xe bão táp, Trần Vũ và Trần Phương tiếp tục thực hiện phần 2 mang tên Những người đã gặp. Phần 2 đã tiếp nối thành công của phần 1 khi chiến thắng cả Bông sen vàng và 2 hạng mục khác là Biên kịch xuất sắc và Quay phim xuất sắc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 5. Cả 2 bộ phim này của Trần Vũ được xem như đại diện tiêu biểu cho phim truyện những năm sau khi miền Nam Việt Nam được giải phóng và Việt Nam tái lập hòa bình, phản ánh những va chạm với cuộc sống đời thường của những người quân nhân trở về từ chiến trường ác liệt.[15]
Phim chiến tranh
sửaNăm 1986, Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Đức hợp tác sản xuất bộ phim Những mảnh đời rừng (còn có tên là Ngọn tháp Hà Nội),[16][17] do Trần Vũ và đạo diễn người Đức Jörg Foth thực hiện.[18][19] Bộ phim lấy bối cảnh cuối thập niên 40, đầu thập niên 50 của thế kỷ 20, là câu chuyện về những người lính trong quân đội của Hitler đã đào ngũ và gia nhập vào Binh đoàn Lê dương Pháp đến Việt Nam.[20]
Thời kỳ đổi mới
sửaTrong giai đoạn giao thời giữa 2 thời kỳ (bao cấp và đổi mới) của xã hội Việt Nam, Trần Vũ đã thực hiện thành công bộ phim Anh và em,[21] giành được Bông sen vàng cho phim truyện điện ảnh tại Liên hoan phim Việt Nam năm 1988. Đến thời kỳ đổi mới, ông chỉ dàn dựng 2 tác phẩm nữa là Tiền ơi và Giọt lệ Hạ Long.[22]
Năm 1994, ông hợp tác với đạo diễn Nguyễn Hữu Phần và Phi Tiến Sơn thực hiện bộ phim Giọt lệ Hạ Long,[23][24] dựa trên truyện ngắn "Chuyện tình bên sông Ka Long" của tác giả Tô Ngọc Hiển.[25] Đây là bộ phim hợp tác giữa Việt Nam và Hồng Kông,[26] có sự tham gia của Quyền Linh,[27] Nghệ sĩ nhân dân Thu Hà,[28] và Nghệ sĩ nhân dân Như Quỳnh.[29] Bộ phim không chỉ nhận được giải B của Hội Điện ảnh Việt Nam năm 1994 (không có giải A),[30][31] mà còn giúp Nghệ sĩ ưu tú Phi Tiến Sơn chiến thắng giải quay phim xuất sắc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 11.[32] Được công chiếu quốc tế vào năm 1995, Giọt lệ Hạ Long trở thành bộ phim Việt Nam đầu tiên được mời tham dự trình chiếu trong chương trình Panaroma tại Liên hoan phim quốc tế Berlin.[33][34]
Tác phẩm
sửaDanh hiệu
sửa- Nghệ sĩ ưu tú (1984).[68]
- Nghệ sĩ nhân dân (1988).[69]
Giải thưởng và đề cử
sửaNăm | Lễ trao giải | Hạng mục | Tác phẩm | Kết quả | Nguồn |
---|---|---|---|---|---|
1962 | Liên hoan phim quốc tế Karlovy Vary | Phim ngắn | Con chim vành khuyên | Giải đặc biệt | [70][71] |
1973 | Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 2 | Phim truyện điện ảnh | Bông sen vàng | [72][73] | |
Vợ chồng anh Lực | Bông sen vàng | [9] | |||
Đạo diễn xuất sắc | Đoạt giải | [10] | |||
1975 | Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 3 | Phim truyện điện ảnh | Đến hẹn lại lên | Bông sen vàng | [10] |
Đạo diễn xuất sắc | Đoạt giải | ||||
1976 | Liên hoan phim quốc tế Karlovy Vary | Giải đặc biệt | [74] | ||
1977 | Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 4 | Phim truyện điện ảnh | Chuyến xe bão táp | Bông sen bạc | [75] |
Biên kịch xuất sắc | Đoạt giải | [14] | |||
1980 | Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 5 | Phim truyện điện ảnh | Những người đã gặp | Bông sen vàng | [76] |
1988 | Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 8 | Phim truyện điện ảnh | Anh và em | Bông sen vàng | [77] |
1995 | Giải thưởng Hội Điện ảnh Việt Nam 1994 | Phim truyện nhựa | Giọt lệ Hạ Long | Giải B | [30][31] |
Đời tư
sửaNgười vợ đầu của Trần Vũ là Nghệ sĩ ưu tú Đức Hoàn. Cả hai có một người con gái là Nghệ sĩ nhân dân Phương Hoa. Tại các kỳ Liên hoan phim Việt Nam, bà đã chiến thắng 2 giải Đạo diễn xuất sắc và 4 giải Họa sĩ xuất sắc cho phim hoạt hình. Về sau, Phương Hoa kết hôn với Nghệ sĩ nhân dân Phạm Minh Trí, người đã 3 lần nhận giải thưởng Đạo diễn xuất sắc cho phim hoạt hình tại các kỳ Liên hoan phim Việt Nam.[3]
Không rõ cuộc hôn nhân đầu tiên của Trần Vũ kết thúc vào năm nào, nghệ sĩ Đức Hoàn cũng đã tái hôn với người chồng mới. Người vợ thứ hai của ông là bà Lê Thị Hoàn, một họa sĩ thiết kế mỹ thuật.[78]
Tham khảo
sửa- ^ Charlot (1991), tr. 41.
- ^ Văn phòng Bộ Văn hóa và Thông tin (2000), tr. 94.
- ^ a b Thanh Hằng (1 tháng 4 năm 2013). “Gia đình NSND Trần Vũ - NSƯT Đức Hoàn: Niềm đam mê nghệ thuật vẫn chảy tràn”. Báo Công an Nhân dân điện tử. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2022.
- ^ U.Ly (14 tháng 2 năm 2007). “5 giải thưởng Hồ Chí Minh và 158 giải thưởng nhà nước”. Tuổi Trẻ Online. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2022.
- ^ a b Ngô Phương Lan (26 tháng 2 năm 2010). “Đạo diễn Trần Vũ - phim và người”. Tuổi Trẻ Online. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2022.
- ^ Charlot (1991), tr. 50.
- ^ a b Hoàng Thanh và đồng nghiệp (2003), tr. 218.
- ^ Hoàng Thanh và đồng nghiệp (2003), tr. 265.
- ^ a b Nhiều tác giả (2007), tr. 70.
- ^ a b c Trung Sơn (2004), tr. 105.
- ^ Hoàng Thanh và đồng nghiệp (2003), tr. 275.
- ^ “До встречи, любимый”. Ėkran (bằng tiếng Nga). Moskva: Iskusstvo: 265. 1978. ISSN 0424-7582. OCLC 1067933066. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2022.
- ^ “Архив ММКФ 1979”. Liên hoan phim quốc tế Moskva. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2022.
- ^ a b Ngô Mạnh Lân và đồng nghiệp (2005), tr. 673.
- ^ Ngô Mạnh Lân và đồng nghiệp (2005), tr. 226.
- ^ Phan Bích Hà (2003), tr. 70.
- ^ Hiền Hoà (5 tháng 6 năm 2003). “Vì sao các đoàn phim VN khó hợp tác với nước ngoài?”. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2022.
- ^ König, Wiedemann & Wolf (1996), tr. 427.
- ^ Nguyễn Thị Hồng Ngát (2006), tr. 70.
- ^ Torner & Lenshyn (2015), tr. 260.
- ^ Charlot (1989), tr. 447.
- ^ a b Ngô Mạnh Lân và đồng nghiệp (2005), tr. 392.
- ^ Nguyễn Hữu Phần (15 tháng 8 năm 2011). “ĐD Hữu Phần: Hồng Sơn, người tử tế gặp nhiều tai họa”. Báo điện tử VTC News. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2022.
- ^ a b Ngô Phương Lan (1998), tr. 104.
- ^ Bộ Văn hóa Thông tin (1995). “Giọt lệ Hạ Long”. Điện ảnh kịch trưởng Việt Nam. 1–5: 37. OCLC 777759683. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2022.
- ^ “G4365 Giot le Ha Long (Vietnam/Hong Kong, 1994?)” (PDF). Đại học La Salle. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2022.
- ^ Đông Du (30 tháng 5 năm 2021). “Ngã rẽ của 3 tài tử điển trai thập niên 90 Lý Hùng, Quyền Linh và Chi Bảo”. Báo Lao Động. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2022.
- ^ Hà Tùng Long (28 tháng 4 năm 2021). “NSND Thu Hà: "Tôi từng chứng kiến Lý Hùng bị xé rách áo, bị cào cấu rách tay"”. Báo điện tử báo Nông thôn Ngày nay. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2022.
- ^ Trần Tuấn Hiệp (2002), tr. 167.
- ^ a b Ngô Mạnh Lân và đồng nghiệp (2005), tr. 649.
- ^ a b Ngô Phương Lan (1998), tr. 349.
- ^ Bộ Văn hóa Thông tin (1996). Văn hóa nghệ thuật, Số phát hành 149-150. Hà Nội: Bộ Văn hóa Thông tin. OCLC 985719601. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2022.
- ^ PV (5 tháng 2 năm 2014). “Nước - 2030 tham dự Liên hoan Phim Berlin”. Báo điện tử của Đài Truyền hình Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2022.
- ^ X.Q. (13 tháng 2 năm 2014). “Phim Việt Nam lần đầu tiên được chiếu khai mạc tại LHP Berlin”. Báo Công an Nhân dân điện tử. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2022.
- ^ Юткевич (1986), tr. 85.
- ^ Губер (1970), tr. 433.
- ^ Ngô Phương Lan (2005), tr. 105.
- ^ Yip (2019), tr. 24.
- ^ Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh (1994), tr. 52.
- ^ Hoàng Thanh và đồng nghiệp (2003), tr. 223.
- ^ Huy Nguyên (26 tháng 5 năm 2018). “Đạo diễn Huy Thành đã về nơi gió cát”. Người Lao Động. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2022.
- ^ a b Yip (2019), tr. 12.
- ^ Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh (1994), tr. 362.
- ^ Bích Hồng (20 tháng 5 năm 2020). “Điện ảnh chiến tranh 'hợp duyên' với văn chương”. Báo Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2022.
- ^ Hồng Lực (2000), tr. 58.
- ^ Yip (2019), tr. 16.
- ^ Yip (2019), tr. 22.
- ^ Bùi Chu (1984).
- ^ Trần Tuấn Hiệp (2002), tr. 163.
- ^ Charlot (1991), tr. 43.
- ^ Huyền Nga (3 tháng 5 năm 2015). “Có những thước phim được đổi bằng xương máu”. Báo Nhân Dân điện tử. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2023.
- ^ Nguyễn Thụ (1984), tr. 49.
- ^ Đặng Nhật Minh (2005), tr. 50.
- ^ Nguyễn Thụ (1984), tr. 85.
- ^ Ngô Phương Lan (1998), tr. 18.
- ^ Cesari & Rigney (2014), tr. 221.
- ^ Wagner (2014), tr. 35.
- ^ Ngô Mạnh Lân và đồng nghiệp (2005), tr. 157.
- ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 107.
- ^ Vũ Ngọc Thanh (tháng 11 năm 2019). “Một số vấn đề về phim hài điện ảnh Việt Nam”. Tạp chí Văn hóa nghệ thuật. 305. OCLC 985719601. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2022.
- ^ Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh (1994), tr. 48.
- ^ Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh (1994), tr. 324.
- ^ Trần Hoàng Thiên Kim (28 tháng 4 năm 2017). “Nghệ sĩ Hoàng Thắng: Luôn tử tế với những vai không tử tế”. Báo Công an Nhân dân điện tử. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2022.
- ^ Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh (1994), tr. 104.
- ^ Việt Hà (19 tháng 8 năm 2005). “Có một dòng phim đậm chất... Công an”. Báo Công an Nhân dân điện tử. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2022.
- ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010b), tr. 555–556.
- ^ Hội điện ảnh Hà Nội (2000), tr. 283.
- ^ Phạm Văn Đồng (25 tháng 1 năm 1984). “Quyết định về việc tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân và Nghệ sĩ ưu tú”. Thư viện pháp luật. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2022.
- ^ Thanh Phàn (8 tháng 12 năm 1988). “114 nghệ sĩ được tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân và Nghệ sĩ ưu tú đợt 2”. Báo Sài Gòn Giải Phóng. 4169: 4. OCLC 191971401.
- ^ Hoàng Thanh và đồng nghiệp (2003), tr. 508.
- ^ PV (21 tháng 10 năm 2010). “A look at Vietnam's first int'l film festival”. VietNamNet (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2022.
- ^ Nam Hà (1998), tr. 364.
- ^ Bộ Quốc phòng (1996), tr. 574.
- ^ Юткевич (1986), tr. 480.
- ^ Bành Bảo (1986), tr. 186.
- ^ Ngô Mạnh Lân và đồng nghiệp (2005), tr. 225.
- ^ Ngô Phương Lan (1998), tr. 341.
- ^ Ngô Hương Sen (17 tháng 1 năm 2010). “NSND - Đạo diễn Trần Vũ: Thời gian chậm trôi qua những kẽ tay”. Báo Công an Nhân dân điện tử. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2022.
Nguồn
sửa- Ngoại ngữ
- Cesari, Chiara De; Rigney, Ann (29 tháng 10 năm 2014). Transnational Memory: Circulation, Articulation, Scales (bằng tiếng Anh). Walter de Gruyter GmbH & Co KG. ISBN 9783110359107.
- Charlot, John (1989). “Vietnamese Cinema: The Power of the Past”. The Journal of American Folklore (bằng tiếng Anh). 102 (406): 442–452. doi:10.2307/541783. ISSN 0021-8715 – qua JSTOR.
- Charlot, John (1991). “Vietnamese Cinema: First Views”. Journal of Southeast Asian Studies (bằng tiếng Anh). 22 (1): 33–62. ISSN 0022-4634 – qua JSTOR.
- Torner, Evan; Lenshyn, Victoria Rizo (1 tháng 12 năm 2015). “Imposed Dialogues: Jörg Foth and Tran Vu's GDR-Vietnamese Coproduction, Dschungelzeit (1988)”. Trong Quinn Slobodian (biên tập). Comrades of Color: East Germany in the Cold War World. New York: Berghahn Books. tr. 243–264. ISBN 9781782387060.
- Wagner, Brigitta B. (2014). DEFA After East Germany (bằng tiếng Anh). Boydell & Brewer. ISBN 9781571135827.
- Yip, Man-Fung (ngày 28 tháng 11 năm 2019). “Art in Propaganda: The Poetics and Politics of Vietnamese Revolutionary Cinema” [Nghệ thuật tuyên truyền: Thơ và chính trị của điện ảnh cách mạng Việt Nam]. Trong Fu, Poshek; Yip, Man-Fung (biên tập). The Cold War and Asian Cinemas [Chiến tranh lạnh và Điện ảnh châu Á] (bằng tiếng Anh). Routledge. ISBN 9780429757297.
- König, Ingelore; Wiedemann, Dieter; Wolf, Lothar (1996). Zwischen Marx und Muck: DEFA-Filme für Kinder (bằng tiếng Đức). Henschel Verlag. ISBN 9783894872342.
- Губер, Александр Андреевич (1970). История Вьетнама в новейшее время: 1917-1965 (bằng tiếng Nga). Moskva: Глав. ред. восточной лит-ры. OCLC 567433058.
- Юткевич, Сергей (1986). Кино: энциклопедический словарь [Điện ảnh: Từ điển Bách khoa toàn thư] (bằng tiếng Nga). Moskva: Bách khoa toàn thư Liên Xô. OCLC 999575162.
- Tiếng Việt
- Hội điện ảnh Hà Nội (2000). Nhà điện ảnh Hà Nội. Hà Nội: Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Nội. OCLC 605255501.
- Bành Bảo (1986). 40 năm văn học. Hà Nội: Hội nhà văn Việt Nam. OCLC 19812259.
- Bộ Quốc phòng (1996). Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. OCLC 38601957.
- Bùi Chu (1984). Đặc trưng và ngôn ngữ điện ảnh. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn Hóa. OCLC 615320901.
- Đặng Nhật Minh (2005). Hồi ký điện ảnh. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Văn nghệ. OCLC 989677862.
- Hoàng Thanh; Vũ Quang Chính; Ngô Mạnh Lân; Phan Bích Hà (2003). Nguyễn Thị Hồng Ngát; và đồng nghiệp (biên tập). Lịch sử điện ảnh Việt Nam, Tập 1. Hà Nội: Cục Điện ảnh Việt Nam. OCLC 53129383.
- Hồng Lực (2000). Tổ quốc và điện ảnh. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ. OCLC 46322550.
- Nam Hà (1998). Tổng tập nhà văn quân đội: kỷ yếu và tác phẩm, Tập 7. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. OCLC 773668527.
- Ngô Mạnh Lân; Ngô Phương Lan; Vũ Quang Chính; Đinh Tiếp; Lại Văn Sinh (2005). Nguyễn Thị Hồng Ngát; và đồng nghiệp (biên tập). Lịch sử điện ảnh Việt Nam, Tập 2. Hà Nội: Cục Điện ảnh Việt Nam. OCLC 53129383.
- Ngô Phương Lan (1998). Đồng hành với màn ảnh: tiểu luận, phê bình điện ảnh. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa thông tin. OCLC 606352645.
- Ngô Phương Lan (2005). Tính hiện đại và tính dân tộc trong điện ảnh Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa thông tin. OCLC 607606153.
- Nguyễn Thị Hồng Ngát (2006). Điện ảnh: nghĩ về nghề. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa thông tin. OCLC 173842916.
- Nguyễn Thụ (1984). Phim truyện Việt Nam: suy nghĩ và thực tiễn, phê bình và tiểu luận. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa. OCLC 64010304.
- Nhiều tác giả (2007). Hành trình nghiên cứu điện ảnh Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa thông tin. OCLC 989966481.
- Phan Bích Hà (2003). Hiện thực thứ hai. Nhà xuất bản Văn hóa thông tin. OCLC 62394229.
- Trần Trọng Đăng Đàn (2010b). Điện ảnh Việt Nam, Tập 2: Lịch sử - tác phẩm - nghệ sĩ điện ảnh Việt Nam 10 năm sau kháng chiến chống Mỹ (1976-1985). Điện ảnh Việt Nam: Lịch sử, tác phẩm, nghệ sĩ, Lý luận, phê bình, nghiên cứu. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. ISBN 9786045800218. OCLC 1023445810.
- Trần Tuấn Hiệp (2002). Điện ảnh không phải trò chơi: tập phê bình, tiểu luận điện ảnh. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa thông tin. OCLC 605594880.
- Trung Sơn (2004). Điện ảnh, chặng đường và kỷ niệm. Hà Nội: Nhà xuất bản Thanh niên. OCLC 607590635.
- Văn phòng Bộ Văn hóa và Thông tin (2000). Hành trình vào thiên niên kỷ mới. Hà Nội: Bộ Văn hóa và Thông tin. OCLC 645819839.
- Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh (1994). Diễn viên điện ảnh Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin. OCLC 33133770.