Nam Định
Nam Định là một tỉnh nằm ở phía Nam đồng bằng Bắc Bộ, Việt Nam,[5][6]
Nam Định
|
|||
---|---|---|---|
Tỉnh | |||
Tỉnh Nam Định | |||
![]() Biểu trưng | |||
Từ trên xuống dưới, từ trái sang phải: Tượng đài Trần Hưng Đạo • Thánh đường Khoái Đồng lúc hoàng hôn. • Son Nam Center - Siêu thị LAMA về đêm. | |||
Biệt danh | Đất học Đất trăm nghề | ||
Hành chính | |||
Quốc gia | ![]() | ||
Vùng | Đồng bằng sông Hồng | ||
Tỉnh lỵ | Thành phố Nam Định | ||
Phân chia hành chính | 1 thành phố, 9 huyện | ||
Thành lập |
| ||
Tổ chức lãnh đạo | |||
Chủ tịch UBND | Phạm Đình Nghị | ||
Hội đồng nhân dân | 61 đại biểu | ||
Chủ tịch HĐND | Lê Quốc Chỉnh | ||
Chủ tịch UBMTTQ | Đoàn Văn Hùng | ||
Chánh án TAND | Trần Văn Kiểm | ||
Viện trưởng VKSND | Lê Hữu Hảo | ||
Bí thư Tỉnh ủy | Phạm Gia Túc | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: 20°15′00″B 106°15′00″Đ / 20,25°B 106,25°Đ | |||
| |||
Diện tích | 1.668,83 km²[1][2] | ||
Dân số (2022) | |||
Tổng cộng | 1.876.900 người[3]:105-106 | ||
Thành thị | 380.500 người (20,3%)[3]:115-116 | ||
Nông thôn | 1.496.400 người (79,7%)[3]:117-118 | ||
Mật độ | 1.125 người/km²[3]:105-106 | ||
Dân tộc | Kinh, Thái, Tày,...(xem thêm) | ||
Kinh tế (2022) | |||
GRDP | 92.101 tỉ đồng (4 tỉ USD) | ||
GRDP đầu người | 49 triệu đồng (2.130 USD) | ||
Khác | |||
Mã địa lý | VN-67 | ||
Mã hành chính | 36[4] | ||
Mã bưu chính | 42xxxx | ||
Mã điện thoại | 228 | ||
Biển số xe | 18 | ||
Website | namdinh | ||
Năm 2022, Nam Định là đơn vị hành chính Việt Nam đứng thứ 13 về số dân, xếp thứ 35 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 31 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 11 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.880.000 người dân[7], GRDP đạt 92.101 tỉ Đồng (tương ứng với 4 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 49 triệu đồng (tương ứng với 2.130 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 9,07%.[8]
Lịch sử Sửa đổi
Thời tiền sử Sửa đổi
Trên đất Nam Định, dấu tích con người ở thời kỳ này còn lưu lại ở các dãy núi thuộc huyện Vụ Bản và huyện Ý Yên nằm về phía tây bắc của tỉnh. Tại đây đã tìm thấy những chiếc rìu đá có vai mài lưỡi, các hòn nghè, chày đá và bàn nghiền. Đó là những dấu tích của những cư dân thuộc thời kỳ đồ đá mới hoặc sơ kỳ đồ đồng đã từ vùng rừng núi tiến xuống khai phá vùng đồng bằng ven biển để sinh sống và dần dần tiến tới lập các làng xóm. Vào lúc cực thịnh của thời kỳ đồ đá, ở tỉnh Nam Định cũng như nhiều địa điểm khác trên đất nước, đã nở rộ những nền văn hoá nguyên thủy. Ngoài kinh tế hái lượm những sản phẩm sẵn có trong tự nhiên, người nguyên thủy trên đất Nam Định đã bắt đầu sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Thời dựng nước Sửa đổi
Nằm trong cương vực nước Văn Lang của các vua Hùng trải dài từ miền trung du đến miền đồng bằng ven biển, vùng đất Nam Định khi ấy tương đương với đất các huyện Vụ Bản, Ý Yên, Mỹ Lộc, thành phố Nam Định và phần phía bắc của huyện Nam Trực hiện nay. Theo ngọc phả đền thờ Tam Bành ở thôn Bảo Ngũ, xã Quang Trung thì vào thời Hùng Vương, huyện Vụ Bản có tên là huyện Bình Chương thuộc bộ Lục Hải, là một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Huyện Bình Chương lúc đó nằm sát biển. Tại đây có cửa biển Côi Sơn (núi Gôi) mà dấu vết còn lại đến ngày nay là địa danh cồn Dâu, cồn Cói ở các vùng quanh chân núi.
Cùng với các nghề trồng lúa nước, trồng rau củ và hoa quả thì những ngành kinh tế khai thác vẫn giữ vai trò quan trọng. Tại di chỉ núi Hổ, trong các di vật tìm được có nhiều mũi tên bằng đá và xương động vật. Cách đó không xa tại hang Lồ (núi Lê) cũng tìm thấy khá nhiều các loại xương thú khác nhau. Săn bắn bổ sung nguồn thức ăn nhiều dinh dưỡng cho con người, đồng thời cung cấp da, xương, sừng cho một số nghề thủ công như chế tạo đồ trang sức, đồ dùng, vũ khí.
Năm 1963, tại núi Mai Độ (còn gọi là núi Hình Nhân) thuộc xã Yên Tân, huyện Ý Yên đã phát hiện một số hiện vật đồng có giá trị. Núi có 4 đỉnh, đỉnh cao nhất cao 52m. Đây là núi đá có lẫn đất, không có cây cao, trên mặt chỉ phủ một lớp cỏ mỏng. Sườn phía đông có một khoảng đất tương đối bằng phẳng, rộng độ 2 sào, nguyên trước có một kiến trúc tôn giáo không biết của đời nào vì đã bị phá hủy từ lâu. Cách chân núi về phía Tây 400m là thôn Mai Độ, phía Đông là thôn Mai Sơn, xung quanh núi là cánh đồng chiêm. Các hiện vật đồng được phát hiện gồm có dao, giáo và rìu.
Thời Bắc thuộc Sửa đổi
Sau khi nước Nam Việt bị nhà Tây Hán đánh chiếm vào năm 111 TCN, đất nước bước vào một thời kỳ Bắc thuộc kéo dài hơn một nghìn năm. Nam Định lúc đó nằm trong quận Giao Chỉ. Do điều kiện thuận lợi cho nghề trồng lúa nước, vùng đất Nam Định trở thành một trung tâm nông nghiệp từ rất sớm.
Trên cơ sở một nền văn hoá bản địa vững chắc thể hiện bản lĩnh, cá tính, lối sống và truyền thống mà cốt lõi là ý thức độc lập, tự chủ và tinh thần yêu quê hương, đất nước, cư dân Nam Định cổ đã tiếp thu những yếu tố văn hoá mới, làm phong phú thêm văn hoá truyền thống. Tuy nhiên, nét bao trùm lên lịch sử thời kỳ Bắc thuộc trên đất Nam Định vẫn là cuộc đấu tranh chống lại ách đô hộ và âm mưu đồng hoá của phong kiến ngoại bang, mà tiêu biểu là nhân dân Nam Định nói chung và đặc biệt là phụ nữ, đã hăng hái tham gia và nhanh chóng đứng dưới ngọn cờ nghĩa của Hai Bà Trưng (Đầu năm 40) chống lại ách đô hộ của nhà Đông Hán. Theo tư liệu lịch sử hiện có, Nam Định có tới 20 tướng lĩnh cả nam lẫn nữ tham gia cuộc khởi nghĩa này. Dấu tích về các tướng lĩnh tham gia khởi nghĩa tập trung nhiều ở huyện Vụ Bản, như: Lê Thị Hoa ở Phú Cốc, Chu Liên Hoa ở làng Vậy, Dung Nương và Phương Dung ở làng Cựu, Trần Cao Đạo ở làng Riềng, Trần Công Mẫn ở xã Trung Thành...
Năm 542, Lý Bí nổi dậy khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Lương. Sau bốn năm chiến đấu anh dũng, cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi, Lý Bí lên ngôi, xưng Hoàng Đế, xây dựng nước Vạn Xuân độc lập. Đóng góp vào cuộc khởi nghĩa này, Nam Định có tướng quân Hoàng Tề ở làng Lập Vũ (nay thuộc xã Hợp Hưng, huyện Vụ Bản). Ông được Lý Bí phong chức Túc vệ tướng quân, ban gươm báu và luôn cho hầu bên mình. Khi Lý Bí qua đời, Hoàng Tề theo Triệu Quang Phục.
Thời Ngô - Đinh - Tiền Lê Sửa đổi
Sau khi Ngô Quyền mất, vùng hạ lưu sông Hồng khi đó chịu sự chi phối của sứ quân Trần Lãm. Đất Nam Định dần trở thành nơi hội tụ và đối đầu quyết liệt của hào khí bốn phương, trong danh sách 12 sứ quân, rất nhiều vị tướng nhà Đinh và các sứ quân như: Trần Lãm, Lã Đường, Ngô Nhật Khánh, Nguyễn Khoan, Phạm Bạch Hổ được thờ ở đây. Đinh Bộ Lĩnh – người anh hùng "tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời", tự nhận về mình sứ mệnh thiêng liêng dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước – không thể không tìm về vùng đất duyên hải cửa sông này.
Thời Lý - Trần Sửa đổi
Dưới thời Lý, Trần, Nam Định không những là một cửa ngõ của cả vùng châu thổ sông Hồng mà còn là một trung tâm kinh tế quan trọng. Các vua Lý đã dành sự quan tâm đặc biệt cho vùng đất này. Qua các tư liệu lịch sử, ta biết trên đất Nam Định xưa, nhà Lý đã cho xây ít nhất hai hành cung làm nơi cho vua dừng chân nghỉ lại trong những lần đi kinh lý vùng đất này. Vào thời Trần, Thiên Trường được coi như kinh đô thứ hai. Vị trí ứng với khu vực tháp Phổ Minh và Đền Trần ngày nay. Nơi đây còn có dấu tích của cung Trùng Quang và cung Trùng Hoa.
Do vị trí trọng yếu, Nam Định trở thành một trong những nơi giao tranh quyết liệt. Năm 1203, quân nổi loạn do Phí Lang và Bảo Lương cầm đầu từ miền Đại Hoàng (Ninh Bình) xuôi theo sông Đáy đến đất Nam Định, mở rộng hoạt động ra vùng hạ lưu. Sự rối loạn lên đến cực điểm vào năm 1208, khi trong nước "người chết đói nằm chồng chất lên nhau". Đúng lúc triều Lý bất lực trong việc điều hành đất nước, vùng đất Nam Định lại là nơi hưng khởi của nhà Trần, một triều đại đầy sức sống đã đưa quốc gia Đại Việt phát triển hưng thịnh và ba lần đánh thắng quân Nguyên - Mông. Đời Trần được gọi là lộ Thiên Trường, sau lại chia làm ba lộ: Kiến Xương, An Tiêm, Hoàng Giang.
Thời thuộc Minh Sửa đổi
Tháng 5-1407, Minh Thành Tổ hạ chiếu đổi nước ta làm quận Giao Chỉ - như một địa phương của quốc gia phong kiến nhà Minh. Bằng hành động này, nhà Minh đã bộc lộ rõ ý đồ không chỉ chiếm đóng mà còn vĩnh viễn xóa bỏ nước ta, sáp nhập hẳn vào đế quốc Minh như tên gọi và đơn vị hành chính mà các đế chế đô hộ phương Bắc đã dùng từ nửa thiên niên kỷ trước.
Dưới quận, nhà Minh chia ra làm 15 phủ. Phần đất Nam Định lúc ấy thuộc hai phủ Kiến Bình và Phụng Hóa. Phủ Phụng Hóa tương đương với phủ Thiên Trường cuối thể kỷ XIV, gồm bốn huyện là Mỹ Lộc, Tây Chân, Giao Thủy và Thận Uy. Bốn trong số chín huyện thuộc phủ Kiến Bình thuộc về đất Nam Định là Ý Yên, An Bản, Vọng Doanh và Đại Loan. Cả hai phủ thuộc tỉnh Nam Định đều bị nhà Minh đổi tên. Kiến Hưng đổi thành Kiến Bình với ý nghĩa xây dựng, kiến lập sự yên ổn, vững chắc, Thiên Trường đổi thành Phụng Hóa hàm ý tuân theo sự giáo hóa, cải hóa của nhà Minh.
Thời Hậu Lê Sửa đổi
Đời Lê, thuộc xứ Sơn Nam, đến niên hiệu Cảnh Hưng thứ 2 năm 1741, vùng đất này thuộc lộ Sơn Nam Hạ.
Nhà nước thời Lê sơ rất quan tâm đến việc nông trang nói chung, công cuộc khai hoang mở rộng diện tích canh tác nói riêng bằng hàng loạt chính sách, nhất là dưới thời Hồng Đức. Cùng với hoạt động khẩn hoang tự nguyện của những người nông dân, chính quyền trung ương nhà Lê cũng đặc biệt chú trọng đến việc tổ chức khẩn hoang dưới hình thức đồn điền ở phía Nam khu vực sông Hồng, trong đó có Nam Định. Khó có thể thống kê, khảo sát, xác định được đầy đủ những đồn điền thời Lê sơ đã từng có ở Nam Định. Ngoài lý do thời gian đã quá lâu, còn có nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác. Cư dân đầu tiên của các đồn điền này trước hết và chủ yếu là các binh lính, tù binh, tội nhân. Họ ít và khó có điều kiện ghi chép để truyền lại cho đời sau về lịch sử khai hoang lập làng. Tuy nhiên căn cứ vào các nguồn tài liệu chính thống của nhà nước phong kiến như chính sử, điền bạ... Có thể thấy vùng Nam Định tập trung khá nhiều đồn điền như:
Sở Vĩnh Hưng (thuộc vùng của tổng Cổ Nông, Trực Ninh) Sở Đông Hải (nơi có các thôn Đắc Sở, Thượng Đồng, Hạ Đồng thuộc Trực Ninh) Sở Hoa Diệp (thuộc vùng Phượng Để, Cổ Lễ, Trực Ninh) Sở Vọng Doanh (nằm trong vùng các xã Yên Quang, Yên Bằng, Yên Khang thuộc Ý Yên).
Sự trù mật của các đồn điền ở ven cửa biển vùng Giao Thủy, bên đê sông Hồng, sông Đáy tự đã làm nổi bật lên vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng của vùng đất phủ Thiên Trường với nhà nước thời Lê sơ, với quốc gia Đại Việt nửa sau thế kỷ XV. Nửa sau thế kỷ XV, trên vùng ven biển Nam Định chứng kiến một công trình kết tinh thành quả lao động to lớn của nhân dân Đại Việt. Đó là việc khởi công và hoàn thành đê Hồng Đức, một con đê ngăn nước mặn có quy mô lớn đầu tiên của vùng châu thổ. Với sự đầu tư, quan tâm của trung ương và địa phương như vậy, công cuộc đắp đê ở vùng biển Nam Định, Ninh Bình thời Lê sơ đã được tiến hành với tốc độ nhanh quy mô lớn. Trên địa bàn Nam Định qua những dấu tích còn lại thì thấy đê Hồng Đức kéo dài từ cửa Đại An, qua phần bắc Nghĩa Hưng, rồi Hải Hậu về đến Hội Khê. Nhiều đoạn gần trùng với con đường 56 hiện nay.
Cùng với sự phát triển nho học của cả nước, giáo dục Nho học ở Nam Định thế kỷ XV có bước phá triển mới. Ngay sau khi kết thúc chiến tranh, vào năm 1428, nhà Lê đã cho mở các trường học ở phủ, lộ. Điều đáng chú ý là trong thời Lê sơ, sự phát triển của nho học ở Nam Định không chỉ diễn ra trên các vùng đất cổ như Ý Yên, Vụ Bản hay tại vùng xung quanh ấp thang mộc của nhà Trần như Lộc Vượng, mà còn ở cả địa bàn ven biển, nơi các làng mạc mới được hình thành. Trong vòng 100 năm của thời Lê sơ, Nam Định có đến 22 tiến sĩ, đại bộ phận số đại khoa này đều đỗ vào nửa sau thế kỷ XV, cho nên có thể nói Nho học ở Nam Định đã thực sự có bước phát triển mới từ sau khi Lương Thế Vinh đỗ trạng nguyên (1463). Ngoài con số các trạng nguyên tiến sĩ kể trên là biểu hiện quan trọng của thành tựu giáo dục nho học vùng Nam Định, điều đáng nói ở chỗ không ít vị đại khoa đã trở thành những nhân vật tiêu biểu cho trí tuệ, tài năng của Đại Việt thế kỷ XV nói riêng, lịch sử dân tộc nói chung.
Thời Nguyễn Sửa đổi
Dưới triều Nguyễn, năm 1822 (Minh Mạng thứ 3) đổi tên trấn Sơn Nam Hạ thành trấn Nam Định[9]. Đến năm Minh Mạng 13 (1832) đổi trấn Nam Định thành tỉnh Nam Định (tỉnh Nam Định được thành lập), với 4 phủ, 18 huyện, bao gồm phần đất tỉnh Thái Bình hiện nay. Năm 1890, Thái Bình tách ra thành tỉnh riêng và một phần phía bắc Nam Định tách ra để cùng một phần phía nam Hà Nội lập thành tỉnh Hà Nam. Chữ Hà là từ Hà Nội và Nam là từ Nam Định. Điều này cũng lý giải cho việc vì sao chuối ngự thường được gọi là chuối ngự Nam Định bởi cho đến 1890 vùng Lý Nhân vẫn thuộc Nam Định. Từ năm 1890 Nam Định còn lại 2 phủ và 9 huyện. Công sứ Pháp đầu tiên ở Nam Định vào năm 1890 là Neynet.
Thời kỳ độc lập (1945-nay) Sửa đổi
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, các đơn vị hành chính trong tỉnh luôn có sự thay đổi.
Có một giai đoạn ngắn nơi đây gồm: tỉnh Nam Định, tỉnh Bùi Chu và thành phố Nam Định. Tỉnh lị Nam Định đặt ở Hành Thiện, Xuân Trường. Sau Bùi Chu nhập với Nam Định mang tên tỉnh Nam Định.
Ngày 3.9.1957 thành phố Nam Định, trước đó là thành phố trực thuộc Trung ương, sáp nhập vào tỉnh Nam Định.Thành phố Nam Đinh là tỉnh lị của tỉnh Nam Định từ đó.
Năm 1953, 7 xã ở phía Bắc sông Đào thuộc huyện Nghĩa Hưng được cắt nhập vào huyện Ý Yên. Đồng thời, 3 huyện: Mỹ Lộc, Vụ Bản, Ý Yên của tỉnh Nam Định nhập vào tỉnh Hà Nam.
Đến tháng 4 năm 1956, 3 huyện này lại được cắt trả cho Nam Định.
Tháng 5 năm 1965, tỉnh Nam Định được hợp nhất với tỉnh Hà Nam thành tỉnh Nam Hà.
Ngày 13 tháng 6 năm 1967, 2 huyện Giao Thủy và Xuân Trường hợp thành huyện Xuân Thủy; thành phố Nam Định được mở rộng thêm trên cơ sở sáp nhập huyện Mỹ Lộc.[10].
Ngày 26 tháng 3 năm 1968, 7 xã phía Nam sông Ninh Cơ thuộc huyện Trực Ninh nhập với huyện Hải Hậu, 2 huyện Trực Ninh và Nam Trực nhập thành huyện Nam Ninh[11].
Năm 1975, Nam Hà hợp nhất với tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh.
Đến ngày 12 tháng 8 năm 1991, lại chia tách thành 2 tỉnh như cũ là Nam Hà và Ninh Bình[12].
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tách tỉnh Nam Hà để tái lập 2 tỉnh mới có tên là Nam Định và Hà Nam[13]. Khi tách ra, tỉnh Nam Định có 7 đơn vị hành chính gồm thành phố Nam Định và 6 huyện: Hải Hậu, Nam Ninh, Nghĩa Hưng, Vụ Bản, Xuân Thủy, Ý Yên.
Ngày 26 tháng 2 năm 1997, tái lập huyện Mỹ Lộc từ một số xã của thành phố Nam Định; chia huyện Xuân Thủy thành hai huyện Xuân Trường và Giao Thủy; chuyển 7 xã phía Nam sông Ninh Cơ thuộc huyện Hải Hậu về huyện Nam Ninh và chia huyện Nam Ninh thành hai huyện Nam Trực và Trực Ninh[14].
Ngày 29 tháng 9 năm 1998, thành phố Nam Định được công nhận là đô thị loại 2.
Ngày 28 tháng 11 năm 2011, thành phố Nam Định được công nhận là đô thị loại 1.
Địa lý Sửa đổi
Vị trí địa lý Sửa đổi
Tỉnh Nam Định trải dài từ 19°54′B đến 20°40′B và từ 105°55′Đ đến 106°45′Đ.
Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Nam Định, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 90 km về phía tây bắc, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 90 km về phía đông bắc, có vị trí địa lý:
- Phía bắc giáp tỉnh Hà Nam
- Phía tây giáp tỉnh Ninh Bình
- Phía đông và đông bắc giáp tỉnh Thái Bình
- Phía nam giáp Vịnh Bắc Bộ.
Các điểm cực của tỉnh Nam Định: Sửa đổi
- Điểm cực bắc tại: Xóm Trung Lễ, xã Mỹ Hà, huyện Mỹ Lộc.
- Điểm cực đông tại: khu vực Vườn quốc gia Xuân Thủy gần cửa Ba Lạt, xã Giao Thiện, huyện Giao Thủy.
- Điểm cực tây tại: Xóm Hòa Bình, xã Yên Thọ, huyện Ý Yên.
- Điểm cực nam tại: Xóm 8, xã Nam Điền, huyện Nghĩa Hưng.
Tỉnh Nam Định có diện tích là 1.668 km² và dân số năm 2020 là 1.780.033 người.
Điều kiện tự nhiên Sửa đổi
Địa hình Sửa đổi
Địa hình Nam Định có thể chia thành 3 vùng:
- Vùng đồng bằng thấp trũng: gồm các huyện Vụ Bản, Ý Yên, Mỹ Lộc, Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trường. Đây là vùng có nhiều khả năng thâm canh phát triển nông nghiệp, công nghiệp dệt, công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí và các ngành nghề truyền thống.
- Vùng đồng bằng ven biển: gồm các huyện Giao Thủy, Hải Hậu và Nghĩa Hưng; có bờ biển dài 72 km, đất đai phì nhiêu, có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế tổng hợp ven biển.
- Vùng trung tâm công nghiệp – dịch vụ thành phố Nam Định: có các ngành công nghiệp dệt may, công nghiệp cơ khí, công nghiệp chế biến, các ngành nghề truyền thống, các phố nghề... cùng với các ngành dịch vụ tổng hợp, dịch vụ chuyên ngành hình thành và phát triển từ lâu. Thành phố Nam Định là đô thị loại 1 trực thuộc tỉnh Nam Định, một trong những trung tâm công nghiệp dệt, công nghiệp nhẹ của cả nước và cũng là trung tâm thương mại-dịch vụ phía Nam của đồng bằng sông Hồng.
Nam Định có bờ biển dài 72 km có điều kiện thuận lợi cho chăn nuôi và đánh bắt hải sản. Ở đây có khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia Xuân Thủy (huyện Giao Thủy) và có 4 cửa sông lớn: cửa Ba Lạt sông Hồng, cửa Đáy sông Đáy, cửa Lạch Giang sông Ninh Cơ và cửa Hà Lạn sông Sò.
Khu dự trữ sinh quyển thế giới Sửa đổi
Tỉnh Nam Định có 2 trong số 5 khu vực đa dạng sinh học được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới châu thổ sông Hồng đầu tiên của Việt Nam theo công ước RAMSA, 2 khu vực còn lại thuộc Thái Bình và Ninh Bình.
Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng nằm trên địa bàn các xã ven biển thuộc 3 tỉnh Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới từ năm 2004 với những giá trị nổi bật toàn cầu về đa dạng sinh học và có ảnh hưởng lớn đến sự sống của nhân loại. Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng là một trong 8 khu dự trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam.
Tại Nam Định, phạm vi do UNESCO công nhận gồm 2 tiểu vùng nằm ở cửa Ba Lạt và cửa Đáy.
- Vườn quốc gia Xuân Thủy thuộc các xã Giao Thiện, Giao An, Giao Lạc, Giao Xuân của huyện Giao Thủy.
- Rừng phòng hộ ven biển Nghĩa Hưng thuộc các xã: Phúc Thắng, Nghĩa Hải, Nghĩa Lợi, thị trấn Rạng Đông, xã Nam Điền của huyện Nghĩa Hưng.
Khí hậu Sửa đổi
Khí hậu của Nam Định mang tính chất nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ không khí trung bình tăng dần từ bắc xuống nam (mùa đông), vùng ven biển mùa đông ấm hơn vùng trong nội địa, tháng 1 bình quân từ 16-18 độ (thành phố nam định 16.4 độ, Thịnh Long 17.2 độ) tháng 7 trên 29 độ. Lượng mưa trung bình trong năm từ 1.650 – 1.800 mm, chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa ít mưa từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau. Số giờ nắng trong năm: 1.600 – 1.700 giờ. Độ ẩm tương đối trung bình: 80 – 90 %.
Mặt khác, do nằm trong vùng ven biển vịnh Bắc Bộ nên hàng năm Nam Định thường chịu ảnh hưởng của bão hoặc áp thấp nhiệt đới, bình quân từ 4 – 6 cơn/năm. Thủy triều tại vùng biển Nam Định thuộc loại nhật triều, biên độ triều trung bình từ 1,6 – 1,7 m; lớn nhất là 3,31 m và nhỏ nhất là 0,11 m.
Dữ liệu khí hậu của Nam Định | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Cao kỉ lục °C (°F) | 32.3 | 35.2 | 36.7 | 38.3 | 39.5 | 40.1 | 39.4 | 37.6 | 35.8 | 36.4 | 34.4 | 31.3 | 40,1 |
Trung bình cao °C (°F) | 19.6 | 19.7 | 22.3 | 26.6 | 31.0 | 32.6 | 32.9 | 31.8 | 30.5 | 28.2 | 25.0 | 21.8 | 26,8 |
Trung bình ngày, °C (°F) | 16.4 | 17.0 | 19.6 | 23.5 | 27.2 | 28.8 | 29.3 | 28.6 | 27.3 | 24.7 | 21.4 | 18.1 | 23,5 |
Trung bình thấp, °C (°F) | 14.4 | 15.3 | 17.9 | 21.5 | 24.6 | 26.2 | 26.7 | 26.1 | 25.0 | 22.2 | 19.2 | 15.9 | 21,2 |
Thấp kỉ lục, °C (°F) | 4.6 | 5.3 | 6.4 | 12.1 | 17.2 | 19.2 | 21.3 | 22.3 | 16.7 | 13.3 | 6.7 | 5.1 | 4,6 |
Lượng mưa, mm (inch) | 24 (0.94) |
29 (1.14) |
49 (1.93) |
93 (3.66) |
177 (6.97) |
206 (8.11) |
230 (9.06) |
296 (11.65) |
323 (12.72) |
226 (8.9) |
62 (2.44) |
28 (1.1) |
1.734 (68,27) |
% Độ ẩm | 85.2 | 88.1 | 90.3 | 89.4 | 85.1 | 83.2 | 81.9 | 85.4 | 85.6 | 83.8 | 82.3 | 82.5 | 85,2 |
Số ngày mưa TB | 9.3 | 13.1 | 16.3 | 13.4 | 12.1 | 12.9 | 12.4 | 15.4 | 14.5 | 11.9 | 7.1 | 5.6 | 143,9 |
Số giờ nắng trung bình hàng tháng | 74 | 42 | 44 | 94 | 191 | 183 | 209 | 175 | 175 | 169 | 139 | 124 | 1.619 |
Nguồn: Vietnam Institute for Building Science and Technology[15] |
Hành chính Sửa đổi
Tỉnh Nam Định có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 9 huyện với 226 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 188 xã, 22 phường và 16 thị trấn[16]. Tỉnh lỵ là thành phố Nam Định.
Trong đó, huyện Mỹ Lộc có diện tích nhỏ nhất và dân số thấp nhất tỉnh.
Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Nam Định | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
|
Kinh tế Sửa đổi
Tổng quan Sửa đổi
Năm 2021, Nam Định là đơn vị hành chính Việt Nam xếp thứ 35 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 31 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 11 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với GRDP đạt 84.097 tỉ Đồng (tương ứng với 3,66 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 45,8 triệu đồng (tương ứng với 1.982 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,7%.[17]
Cơ cấu kinh tế của tỉnh năm 2021: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 20,8%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 41,86%; khu vực dịch vụ chiếm 34,26%. Tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 6.219 tỷ đồng. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu trong năm ước đạt 4,08 tỉ USD, trong đó: giá trị hàng xuất khẩu ước đạt 2,63 tỉ USD, tăng 25,5% so với cùng kỳ năm trước. Giá trị hàng hoá nhập khẩu ước đạt 1,45 tỉ USD, tăng 22,3%. Theo Sở Kế hoạch và đầu tư, trong năm 2021 có 882 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với tổng số vốn đăng ký 23.388 tỉ đồng, tăng 9,0%; bên cạnh đó có 421 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 60,1% so với năm trước.
Cũng trong năm 2021, hoạt động vận tải có chuyển biến tích cực so với năm trước. Doanh thu vận tải tăng 5,1%, khối lượng hàng hóa luân chuyển tăng 10,5%. Tuy vậy, khối lượng hành khách luân chuyển giảm 9,7% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 6 tháng đầu năm 2023, tình hình kinh tế - xã hội của Nam Định tiếp tục ổn định, phát triển. Đặc biệt, kinh tế duy trì mức tăng trưởng khá, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu tăng so với cùng kỳ. Theo đó, kinh tế 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 27.221 tỷ đồng, tăng 8,5% so với cùng kỳ và đứng thứ 6 cả nước về tốc độ tăng trưởng. Tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 17.833 tỷ đồng, tăng 20,2% so với cùng kỳ.[18]
Nông - lâm - ngư nghiệp Sửa đổi
Tính chung năm 2021, diện tích trồng lúa đạt 144.911 ha, giảm 0,3%. Năng suất lúa bình quân cả năm đạt 60,67 tạ/ha, giảm 0,1%. Sản lượng thóc đạt 879.226 tấn, giảm 0,5% so với năm 2020. Rau màu và cây hàng năm các loại gieo trồng 29.926 ha, giảm 2,4% so với năm trước.
Tổng đàn trâu là 7.726 con, tăng 0,6% so với năm 2020; đàn bò 28.011 con, giảm 1,5%; đàn lợn (không tính lợn con chưa tách mẹ) ước tính là 641.050 con, tăng 0,1%; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng cả năm đạt 150.470 tấn, tăng 0,2% so với năm 2020. Tổng đàn gia cầm là 9.467 nghìn con, tăng 6,1%; sản lượng thịt gia cầm các loại ước đạt 32.361 tấn.
Năm 2021, ngành Lâm nghiệp tỉnh đã tăng cường trồng rừng[19], trồng cây phân tán để có vành đai xanh bảo vệ, phòng chống bão lũ, cải tạo môi trường sinh thái, ứng phó biến đổi khí hậu với 31,11 ha rừng và trồng 1,6 triệu cây phân tán các loại. Sản lượng gỗ khai thác ước đạt 4.578 m3 , tăng 2,6%.
Sản lượng thủy sản ước đạt 178.572 tấn, tăng 4,7% so với năm trước; trong đó, sản lượng thủy sản nuôi trồng 121.131 tấn; khai thác 57.441 tấn, tăng 1,9%.
Công nghiệp Sửa đổi
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) năm 2021 ước tăng 13,30% so với năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 13,51%, đóng góp 13,05 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,07%, đóng góp 0,12 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,26%, đóng góp 0,14 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 3,27%, làm giảm 0,01 điểm phần trăm.
Dịch vụ Sửa đổi
Năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ ước đạt 52.712 tỷ đồng, tăng 11,9% so với năm trước. Xét theo ngành hoạt động: Doanh thu hoạt độngthương nghiệp ước đạt 47.087 tỷ đồng, chiếm 89,3% tổng mức, tăng 13,1% so với năm 2020; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 2.787 tỷ đồng, giảm 1,7%; doanh thu du lịch lữ hành là 7 tỷ đồng, giảm 32,8%; doanh thu dịch vụ đạt 2.831 tỷ đồng, tăng 7,8%.
Xã hội Sửa đổi
Dân cư Sửa đổi
Theo điều tra dân số ngày 1/4/2019, Nam Định có khoảng 1.780.393 người với mật độ dân số 1.078 người/km² tức là cao hơn mật độ các thành phố Đà Nẵng và Cần Thơ. Trong đó 27,1% dân số sống ở đô thị và 72,9% dân số sống ở nông thôn.
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 9 tôn giáo khác nhau đạt 533.378 người, nhiều nhất là Công giáo có 476.960 người, tiếp theo là Phật giáo có 55.940 người, đạo Tin Lành có 470 người. Còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáo có 3 người, Phật giáo Hòa Hảo, đạo Cao Đài, Minh Lý đạo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Bửu Sơn Kỳ Hương mỗi tôn giáo chỉ có 1 người.[20]
Nam Định là nơi bảo tồn nhiều giá trị văn hóa truyền thống của nền văn minh lúa nước với ẩm thực đặc trưng, các làng nghề, lễ hội, đình, chùa, thánh đường.[21] Nam Định là trung tâm của văn hóa xứ Sơn Nam, cũng như vùng Sơn Nam Hạ. Nam Định có 2359 di tích, trong đó có 384 di tích được xếp hạng gồm 85 di tích cấp quốc gia, 2 di tích quốc gia đặc biệt, 297 di tích cấp tỉnh; tỉnh có 5 bảo vật quốc gia.
Giáo dục Sửa đổi
Giao thông Sửa đổi
Có : quốc lộ 10, : quốc lộ 21A, : quốc lộ 37B, : quốc lộ 38B, : đường cao tốc Cầu Giẽ – Ninh Bình, : đường cao tốc Ninh Bình – Hải Phòng đi qua.
Văn hóa Sửa đổi
Truyền thống văn hóa Sửa đổi
- Chợ Viềng ở huyện Vụ Bản mỗi năm có một phiên vào ngày 8 tháng Giêng âm lịch hằng năm. Chợ Viềng Nam Giang (thị trấn Nam Giang, Nam Trực) vào ngày 7 tháng Giêng âm lịch hằng năm.
- Sơn mài Cát Đằng (xã Yên Tiến, huyện Ý Yên).
- Lễ khai ấn Đền Trần vào đêm ngày 14 tháng giêng âm lịch.
- Nhà hát Chèo Nam Định là một trung tâm văn hóa lớn của tỉnh, nằm trên đường Nguyễn Du, cạnh nhà văn hóa 3/2 thành phố Nam Định.
- Nhà văn hóa 3/2 là nơi tổ chức những sự kiện văn hóa lớn của cả tỉnh cạnh Quảng trường Vị Xuyên.
Di tích lịch sử Sửa đổi
- Hành cung Thiên Trường xây dựng thời Trần
- Tháp chuông chùa Phổ Minh ngày trước có vạc Phổ Minh là một trong An Nam tứ đại khí.
- Thành Nam Định xây dựng thời Nguyễn.
- Cột cờ Nam Định xây thời Nguyễn, cùng với thành cổ Nam Định.
Làng Tức Mặc, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định xưa là phủ Thiên Trường là quê hương của các vua nhà Trần, một trong những triều đại lừng danh nhất trong lịch sử Việt Nam với chiến tích 3 lần chiến thắng Nguyên Mông.
Di sản tôn giáo, tín ngưỡng Sửa đổi
- Đền Trần là khu đền thờ các vị vua đời Trần nằm trên địa phận phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định. Nơi đây vào đúng giờ Tý rằm tháng Giêng âm lịch có lễ Khai Ấn. Tương truyền các vua Trần nghỉ tết âm lịch hàng năm đến rằm tháng Giêng thì Khai Ấn trở lại quốc sự. Lễ Khai Ấn hàng năm rất nhiều khách các tỉnh về Nam Định dự và xin lộc vua Trần.
- Đền An Lá (còn gọi là đình Cả), nằm trên mảnh đất rộng hơn 3000 m², xung quanh là cánh đồng thuộc thôn An Lá, xã Nghĩa An, huyện Nam Trực, cách trung tâm thành phố Nam Định gần 4 km theo tỉnh lộ 490C (quốc lộ 55 cũ). Đền thờ ông Nguyễn Tấn, một danh tướng thời Đinh. Lễ hội hàng năm tổ chức vào ngày 9-12/3 (ÂL) hàng năm. Lễ hội chính vào ngày 10-3 âm lịch.
- Phủ Dầy thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh là một trong Tứ bất tử được xếp hàng cao nhất tục thờ Mẫu trong cộng đồng thờ hàng Mẫu với tín ngưỡng người Việt.
- Đền Bảo Lộc thờ Trần Hưng Đạo và An sinh vương Trần Liễu.
- Chùa Keo Hành Thiện: Cách Hà Nội 108 km về phía nam, thẳng cầu Đò Quan 18 km, đến làng Hành Thiện, Xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Ở đây có một di tích lịch sử được xếp hạng của Bộ văn hóa là Chùa Keo (Hành Thiện) – "Thần Quang Tự" được xây dựng năm 1062 vào thờ nhà Lý. Ngoài ra còn có khu nhà ở của bác Trường Chinh.
- Chùa Cổ Lễ nơi thiền sư Nguyễn Minh Không trụ trì (cùng với các thiền sư Từ Đạo Hạnh và Giác Hải là Nam thiền tam tổ).
- Phủ Quảng Cung (Phủ Nấp) thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh, giáng sinh lần thứ nhất ở xã Yên Đồng, Ý Yên.
- Di tích thờ 12 sứ quân có rất nhiều ở Nam Định cùng với các tướng nhà Đinh. Trong số các vị được thờ có rất nhiều vị đến đây từ các vùng đất khác nhau. Những dấu tích cho thấy ở đây chính là vùng chịu sự ảnh hưởng và địa bàn gây dựng lực lượng của nhiều sứ quân hay các vị "hùng trưởng" khác như Phạm Bạch Hổ, Kiều Công Hãn, Lã Đường, Ngô Nhật Khánh, Nguyễn Khoan, Trần Lãm...dần dần trở thành nơi hội tụ và đối đầu quyết liệt của hào kiệt bốn phương.[22]
- Quần thể di tích thờ Vua Đinh ở Nam Định gồm Đền Vua Đinh (Yên Thắng), đền Thượng, đình Thượng Đồng, đình Cát Đằng ở xã Yên Tiến, đình Viết ở xã Yên Chính, Ý Yên và đền vua Đinh ở làng Việt cổ Bách Cốc, Vụ Bản.
- Chùa Vọng Cung.
- Ở tỉnh Nam Định có nhiều di tích tín ngưỡng thờ quốc sư Minh Không thời Lý như: chùa Cổ Lễ (Trực Ninh), chùa Xuân Trung (Xuân Trường). Ở Ý Yên, Thánh tổ nghề đúc đồng Nguyễn Minh Không được thờ ở đình Cổ Hương xã Yên Phương; đình Phúc Thọ xã Yên Thành và đền Tống Xá xã Yên Xá. Ông còn được phối thờ cùng Lý Thần Tông và Giác Hải tại chùa Nghĩa Xá ở xã Xuân Ninh Xuân Trường. Lễ hội chợ Viềng hàng năm gắn liền với việc thờ ông Nguyễn Minh Không, ông tổ đúc đồng, nên trước đình ông Khổng, người dân thường bày bán đồ đồng, đồ sắt.
Di sản văn hóa, nghệ thuật Sửa đổi
- Phố cổ Thành Nam là khu vực gồm các phố xá buôn bán nằm giữa sông Vị Hoàng xưa và hai mặt tường thành phía Đông và phía Nam của thành Nam Định thời Nguyễn, vốn hình thành từ thời Lê sơ.
- Mộ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, tại núi Phương Nhi, xã Yên Lợi phía bắc huyện Ý Yên.
- Mộ nhà thơ Tú Xương, tại Công viên Vị Xuyên, thành phố Nam Định.
Đặc sản ẩm thực Sửa đổi
Khái quát Sửa đổi
Nam Định có nhiều đặc sản nổi tiếng như: Gạo tám xoan Hải Hậu và Chuối ngự là hai vật phẩm dùng để tiến vua thời phong kiến. Gỏi nhệch, gỏi sứa, cá nướng thơm Hải Hậu. Giò truyền thống với đa dạng các loại giò lụa, giò xào. Ngoài ra còn có gạo nếp cái hoa vàng Hải Hậu. Thịt cầy, tiểu hổ Nam Trực, Phở bò Nam Định, Bánh gai, Bánh chưng Bà Thìn - Hải Hậu, kẹo dồi (được cho là xuất phát từ ngôi làng trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố), bánh đậu xanh, bánh nhãn - Hải Hậu, Kẹo Sìu Châu (là kẹo lạc Nam Định. Nguyên lò nấu kẹo nổi tiếng đầu tiên nằm gần một hội quán của người Triều Châu, nên có tên dân gian là kẹo Sìu Châu); bún chả Thành Nam, nem nắm Giao Thủy, nem Chạo Giao Xuân - Giao Thủy, gỏi.
Nem chạo Giao Xuân - Giao Thủy. Các đặc sản biển Hải Hậu, Giao Thủy là món ăn nổi tiếng toàn quốc nhất là khu vực phía nam, không những thế du khách thế giới cũng rất ưa thích. Với các món ăn trên người Nam Định thường dùng với rượu Bỉnh Ri - Giao Thịnh nổi tiếng xưa nay được lên men từ loại gạo nếp thơm ngon của huyện Giao Thủy.
Thể dục - Thể thao Sửa đổi
Nam Định có nhiều trung tâm thể thao lớn là Sân vận động Thiên Trường (tên cũ là Sân vận động chùa Cuối), Nhà thi đấu Trần Quốc Toản, các trận bóng đá và bóng chuyền được tổ chức tại đây. Hai trung tâm này nằm trên đường Hùng Vương, Hàn Thuyên, Trường Chinh của thành phố Nam Định.
Năm 2014, tỉnh Nam Định đã khánh thành và đưa vào sử dụng Cung thể thao tỉnh Nam Định gồm nhà thi đấu đa năng 4000 chỗ ngồi và bể bơi có mái che đạt chuẩn quốc tế để phục vụ Đại hội thể dục thể thao toàn quốc lần thứ VII do Nam Định đăng cai làm chủ nhà. Ngoài ra còn có rất nhiều sân thể thao mini phục vụ phong trào thể thao quần chúng với các môn thể thao phổ biến là cầu lông, bóng đá, bóng chuyền.
Bóng đá Nam Định đã hai lần đoạt chức vô địch Đông Dương trong tên gọi Đội Cotonkin năm 1941, 1945, vô đich quốc gia năm 1985, lúc đó mang tên đội bóng Công nghiệp Hà Nam Ninh, với danh thủ Nguyễn Văn Dũng . Năm 2001, đội Nam Định về nhì giải vô địch quốc gia. Năm 2007, đội bóng đá Nam Định với tên gọi Đạm Phú Mỹ Nam Định đoạt Cúp Quốc gia lần đầu tiên.
Danh nhân Sửa đổi
Nam Định là quê hương của nhiều chính khách và học giả nổi tiếng. Dưới đây là một số cá nhân tiêu biểu cho đất và người nơi đây:
Thời phong kiến Sửa đổi
Chính trị - Quân sự Sửa đổi
- Trần Thái Tông (1218 - 1277): vị vua đầu tiên của nhà Trần, người đã trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ xâm lược vào năm 1258.
- Trần Nhân Tông (1258 - 1308): vị vua thứ 3 của nhà Trần. Ông đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển bền vững của Đại Việt cuối thế kỷ XIII, cũng như việc bảo vệ nền độc lập và mở rộng lãnh thổ đất nước. Ngoài ra, ông cũng là một thiền sư lớn của Phật giáo Việt Nam thời trung đại.
- Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (1231 - 1300): là một nhà chính trị, nhà quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Ông được biết đến trong lịch sử Việt Nam với việc chỉ huy quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên – Mông năm 1285 và năm 1288.
- Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải (1241 - 1294): là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Ông làm đến chức Thừa tướng, giữ vai trò nổi bật trong trận phòng thủ Thanh Hóa, Nghệ An và trận đánh tan quân Nguyên tại Chương Dương độ.
- Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật (1255 - 1330): là một nhà chính trị, quân sự, nhà ngoại giao tài ba thời Trần. Ông là người có công lớn trong trận Hàm Tử.
Trạng Nguyên Sửa đổi
- Nguyễn Hiền (1234 - 1256): người làng Dương A huyện Nam Trực. Trạng nguyên thời Nhà Trần, là trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa cử Việt Nam, khi mới 13 tuổi. Cuộc đời ông gắn với nhiều giai thoại dân gian Việt Nam còn lưu truyền đến nay.
- Đào Sư Tích (1348 - 1396): người làng Cổ Lễ huyện Trực Ninh. Trạng nguyên thời Nhà Trần. Sau khi qua đời dân làng Cổ Lễ thờ ông làm thành hoàng, được nhiều triều đại vua chúa ban sắc cho làm thượng đẳng thần.
- Vũ Tuấn Chiêu (1426 - ?): người làng Cổ Da huyện Nam Trực. Trạng Nguyên thời Nhà Lê sơ.
- Lương Thế Vinh (1441 - 1496): còn được gọi là Trạng Lường, người làng Cao Hương huyện Vụ Bản. Trạng Nguyên thời Nhà Lê sơ. Ông là một nhà toán học, Phật học, Chính trị gia và là nhà giáo tâm huyết
- Trần Văn Bảo (1524 - 1611): người làng Cổ Chử huyện Nam Trực. Trạng Nguyên thời Nhà Mạc. Khi nhà Lê trung hưng, vời ông ra làm quan nhưng ông đã từ chối, giữ lòng trung với nhà Mạc, theo truyền thống của kẻ sĩ không thờ hai triều.
Thời Cận đại - Hiện đại Sửa đổi
Chính trị Sửa đổi
- Trường Chinh (1907 - 1988): Nguyên Tổng Bí thư, nguyên Chủ tịch Hội đồng nhà nước, nguyên Chủ tịch Quốc hội, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng
- Lê Đức Thọ (1911 - 1990): Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyên Trưởng ban Tổ chức Trung ương, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng
- Đinh Đức Thiện (1914 - 1986): nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, nguyên Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
- Đặng Việt Châu (1914 - 1987): nguyên Bộ trưởng Bộ Tài chính, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại thương, nguyên Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước.
- Đinh Thị Vân (1916 - 1995): Bà là một điệp viên nổi tiếng trong Chiến tranh Việt Nam, được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
- Song Hào (1917 - 2004): nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương binh và Xã hội, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
- Nguyễn Văn Vịnh (1918 - 1978): nguyên Trưởng phái đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam bên cạnh Ủy ban Quốc tế thi hành hiệp định Geneve tại Sài Gòn, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ, Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Thống nhất Trung ương.
- Nguyễn Cơ Thạch (1921 - 1998): nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
- Mai Chí Thọ (1922 - 2007): nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bộ trưởng Bộ Nội vụ, nguyên Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Đại tướng CAND Đầu tiên.
- Trần Xuân Bách (1924 - 2006): nguyên Ủy Viên Bộ Chính trị, nguyên Trưởng ban chỉ đạo bộ máy hành chính Campuchia, nguyên Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương.
- Đặng Quốc Bảo (sinh 1927): nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Khoa giáo Trung ương, nguyên Bí thư Thứ nhất Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
- Hồng Hà (1928 - 2011): nguyên Tổng biên tập Báo Nhân dân, nguyên Trưởng ban Đối ngoại Trung ương, nguyên Chánh Văn Phòng Trung ương Đảng.
- Đặng Hồi Xuân (1929 - 1988): nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế
- Nguyễn Văn An (sinh 1937): nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam
- Đặng Vũ Chư (sinh 1940): nguyên Bộ trưởng bộ Công Nghiệp
- Ngô Xuân Lộc (sinh 1940): nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, nguyên Bộ trưởng Bộ Xây dựng
- Vũ Xuân Thiều (1945–1972): Thượng úy Quân đội nhân dân Việt Nam, anh hùng cảm tử đã lao vào tiêu diệt máy bay Boeing B-52 Stratofortress của Không quân Hoa Kỳ.
- Đinh Thế Huynh (sinh 1953): nguyên Tổng biên tập Báo Nhân Dân, nguyên Thường trực Ban Bí thư, nguyên Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương.
- Vũ Văn Ninh (sinh 1955): nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, nguyên Bộ trưởng Bộ Tài chính.
- Cao Đức Phát (sinh 1956): nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Kinh tế Trung ương, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
- Phạm Hồng Hà (sinh 1958): nguyên Bộ trưởng Bộ Xây dựng
- Phạm Bình Minh (sinh 1959): nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
- Đinh La Thăng (sinh 1960): cựu Chủ tịch HĐQT Tổng công ty Sông Đà, cựu Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, cựu Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. cựu Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải từ năm 2011 - 2016.
- Phan Văn Giang (sinh 1960): Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
- Trần Văn Sơn (sinh 1961): Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ.
- Đặng Đình Quý (sinh 1961): nguyên Giám đốc Học viện Ngoại giao, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam, nguyên Trưởng phái đoàn Đại diện thường trực Việt Nam tại Liên Hợp Quốc
- Nguyễn Xuân Ký (sinh 1972): Bí thư Tỉnh ủy - Chủ tịch HĐND tỉnh Quảng Ninh
- Đoàn Hồng Phong (sinh 1963): Tổng Thanh tra Chính phủ Việt Nam
- Nguyễn Thanh Long (sinh 1966): Cựu Bộ trưởng Bộ Y tế, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng chống dịch Covid-19.
Văn học Sửa đổi
- Tú Xương (1870 - 1907): nhà thơ.
- Đoàn Văn Cừ (1913 - 2004): nhà thơ.
- Vũ Khiêu (1916 - 2021): Giáo sư, học giả nghiên cứu về văn hóa Việt Nam, Viện trưởng đầu tiên của Viện Xã hội học Việt Nam, nguyên Phó Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội (nay là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam).
- Nguyên Hồng (1918 - 1982): nhà văn.
- Nguyễn Bính (1918 -1966): nhà thơ.
- Trần Dần (1926 - 1997): nhà thơ, nhà văn.
- Nguyễn Khải (1930 - 2008): nhà văn.
Nghệ thuật Sửa đổi
- Hà Thị Cầu (1928 - 2013): nghệ nhân hát Xẩm. Bà được xem là nghệ nhân hát xẩm cuối cùng của thế kỷ 20 và từng được mệnh danh là "báu vật nhân văn sống".
- Đặng Thế Phong (1918 - 1982): là một nhạc sĩ thuộc thế hệ tiên phong của tân nhạc Việt Nam, một trong những gương mặt tiêu biểu nhất cho giai đoạn âm nhạc tiền chiến.
- Trần Lập (1974 - 2016): là một nhạc sĩ, ca sĩ Việt Nam thuộc thể loại nhạc rock.
- Hoàng Bách (sinh 1980): là một nhạc sĩ, ca sĩ tài năng.
- Đinh Tiến Dũng (sinh 1981): là một diễn viên, MC, nổi tiếng với vai diễn GS. Cù Trọng Xoay trong chương trình Thư giãn cuối tuần. Dẫn chương trình Ai là triệu phú, Nhập gia tùy tục (VTV3).
- Nhật Thủy (sinh 1991): Quán quân cuộc thi Việt Nam Idol (mùa 5); Á quân chương trình Gương mặt thân quen (mùa 3) và Quán quân chương trình Gương mặt thân quen (mùa 7).
- Nguyễn Cao Kỳ Duyên (sinh 1996): là một người mẫu và hoa hậu người Việt Nam. Cô là Hoa hậu Việt Nam 2014.
Giáo dục Sửa đổi
- Nguyễn Ngọc Ký (sinh 1947): là một nhà giáo Việt Nam. Từ năm lên 4 tuổi, ông bị bệnh và bị bại liệt cả hai tay, nhưng ông đã cố gắng vượt qua số phận của mình, rèn luyện đôi chân thay cho bàn tay và trở thành nhà giáo ưu tú, lập kỷ lục Việt Nam "Người thầy đầu tiên của Việt Nam dùng chân để viết".
- Vũ Hà Văn (sinh 1970): Giáo sư Toán học, hiện đang giảng dạy tại Đại học Yale (Hoa Kỳ).
Thể thao Sửa đổi
- Vũ Như Thành (sinh 1981): huấn luyện viên bóng đá, cựu tuyển thủ Đội tuyển quốc gia Việt Nam, hiện đang dẫn dắt câu lạc bộ Phú Thọ thi đấu tại V.League 2. Thời còn là cầu thủ, anh được coi là một trong những trung vệ xuất sắc nhất lịch sử của bóng đá Việt Nam khi cùng đội tuyển Việt Nam đăng quang ngôi vô địch AFF Suzuki Cup 2008, qua đó được bình chọn vào top 10 vận động viên tiêu biểu toàn quốc.
- Đinh Thị Bích (sinh 1997): vận động viên điền kinh Quốc gia đã xuất sắc mang về tấm HCV nội dung chạy 800m nữ cho đoàn thể thao Việt Nam tại SEA Games 30 năm 2019.
Tỉnh kết nghĩa Sửa đổi
Hình ảnh Sửa đổi
-
Tháp Phổ Minh.
-
Ảnh chụp một góc tường thành Nam Định, nay đã bị phá hủy gần như toàn bộ
-
Cột cờ Nam Định.
-
Phủ Giầy, Nam Định.
-
Nhà thờ Lớn Nam Định.
-
Vương cung Thánh đường Phú Nhai, Xuân Phương, Xuân Trường, Nam Định.
-
Trung tâm Thương mại Big C Nam Định
-
Đình La Xuyên, Nam Định.
-
Toà nhà Phật giáo hội, Cổ Lễ, Trực Ninh, Nam Định.
-
Toà tháp Cửu phẩm liên hoa, Cổ Lễ, Trực Ninh, Nam Định.
-
Đình Hào Nam, Nam Định.
-
Kiến trúc Pháp ở trong phố cổ Thành Nam ngày nay. Ảnh chụp phố Hàng Tiện.
-
Chùa Cổ Lễ, Nam Định.
-
Chuông đồng 9000 kg, chùa Cổ Lễ, Nam Định.
-
Hai cây gạo 300 tuổi, Đống Cao, Yên Lộc, Ý Yên, Nam Định.
-
Trung tâm Văn hóa - Thể thao Thanh thiếu niên tỉnh Nam Định.
-
Nhà phố thương mại nằm trong Khu đô thị Dệt may Nam Định.
-
Khách sạn Nam Cường Nam Định - tòa tháp cao nhất Nam Định tính đến thời điểm hiện tại.
-
Bến xe khách Nam Định cũ.
-
Quốc lộ 21B, đoạn Phủ Lý đi Nam Định.
Xem thêm Sửa đổi
Di sản tôn giáo, tín ngưỡng:
- Chùa Keo Hành Thiện
- Chùa Cổ Lễ
- Chùa Phổ Minh
- Đền Trần (Nam Định)
- Quần thể di tích thờ Vua Đinh ở Nam Định
- Di tích thờ tướng nhà Đinh và 12 sứ quân
- Phủ Dầy
- Phủ Quảng Cung
Di tích lịch sử thời Trần:
Di tích lịch sử thời Nguyễn:
Di sản văn hóa khác:
Tham khảo Sửa đổi
- ^ “Phê duyệt và công bố kết quả thống kê diện tích đất đai năm 2020”. Quyết định số 387/QĐ-BTNMT 2022. Bộ Tài nguyên và Môi trường (Việt Nam).
- ^ Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. tr. 89. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
- ^ a b c d Tổng cục Thống kê (2023). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2022 [Statistical Yearbook of Vietnam 2022] (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 10 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2023.
- ^ Tổng cục Thống kê
- ^ Quyết định số 124/2004/QĐ-TTg của Chính phủ ngày 08/07/2004 ban hành Danh mục và mã số các đơn vị hành chính Việt Nam có đến 30/6/2004. Thuky Luat Online, 2016. Truy cập 11/04/2019.
- ^ Tập bản đồ hành chính Việt Nam. Nhà xuất bản Tài nguyên – Môi trường và Bản đồ Việt Nam. Hà Nội, 2013.
- ^ “Dân số các tỉnh Việt Nam năm 2022”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập Ngày 28 tháng 12 năm 2022.
- ^ “Tình hình kinh tế, xã hội Nam Định năm 2018”. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Nam Định. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2019. Truy cập Ngày 12 tháng 10 năm 2019.
- ^ Việt Nam-Những thay đổi địa danh và địa giới hành chính (1945-2002), Nguyễn Quang Ân, Viện Sử học, phần I: Sự chia đặt các đơn vị hành chính từ năm 1802 đến năm 2002, trang 21.
- ^ Quyết định 76-CP năm 1967 về việc hợp nhất huyện Mỹ Lộc và thành phố Nam Định thuộc tỉnh Nam Hà thành một đơn vị hành chính mới lấy tên là thành phố Nam Định do Hội đồng Chính phủ ban hành
- ^ Quyết định 41-CP năm 1968 về sáp nhập 7 xã của huyện Trực Ninh vào huyện Hải Hậu thuộc tỉnh Nam Hà và hợp nhất huyện Trực Ninh và huyện Nam Trực thuộc tỉnh Nam hà thành một huyện lấy tên là huyện Nam Ninh do Hội đồng Chính phủ ban hành
- ^ Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Quốc hội ban hành
- ^ Nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh do Quốc hội ban hành
- ^ Nghị định 19-CP năm 1997 về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Nam Định, huyện Hải Hậu, chia các huyện Xuân Thủy, Nam Ninh và thành lập thị trấn Thịnh Long thuộc huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định
- ^ “Vietnam Building Code Natural Physical & Climatic Data for Construction” (PDF). Vietnam Institute for Building Science and Technology. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2018.
- ^ “Nghị quyết số 858/NQ-UBTVQH14 năm 2020 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Nam Định”.
- ^ https://www.namdinh.gso.gov.vn/FCKeditor/editor/filemanager/connectors/aspx/images/File/2021/2.%20Thong%20ca%20bao%20chi%202021.pdfBáo[liên kết hỏng] cáo kinh tế xã hội Nam Định ngày 29 tháng 12 năm 2021
- ^ “Nam Định: GRDP 6 tháng đầu năm 2023 tăng 8,5%”. Truy cập 3 tháng 10 năm 2023.
- ^ VinasDoc. “Quyết định 29/2022/QĐ-UBND của Uỷ ban nhân dân tỉnh Nam Định về việc Ban hành đơn giá trồng rừng thay thế khi chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác trên địa bàn tỉnh Nam Định”. VinasDoc. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2022.
- ^ Kết quả toàn bộ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009, Tổng cục Thống kê Việt Nam.
- ^ “Nam Định, miền quê giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống”. VOV5.
- ^ “Nam Định - Địa bàn trọng yếu trong sự nghiệp thống nhất đất nước của Đinh Bộ Lĩnh”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2014.
Liên kết ngoài Sửa đổi
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Nam Định. |
- Trang tin điện tử của UBND tỉnh Nam Định Lưu trữ 2014-12-18 tại Wayback Machine