Tỉnh Hà Nội là một tỉnh cũ của Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ 19. Năm 1831, vua Minh Mạng lập ra tỉnh Hà Nội. Đây là một trong số 13 tỉnh được thành lập sớm nhất ở Bắc Kỳ.

Bản đồ tỉnh Hà Nội năm 1891

Địa lý sửa

Tỉnh Hà Nội có vị trí địa lý:

Tổng diện tích đất ruộng là 393.914 km2.[cần dẫn nguồn] Đông-Tây cách nhau hơn 90 dặm, Nam-Bắc cách nhau 113 dặm 120 trượng.

Lịch sử sửa

Thời thuộc Hán Tùyquận Giao Chỉ; thuộc nhà Đườngphủ An Nam đô hộ, phủ trị đóng ở thành Tống Bình, thường gọi là thành Đại La (trước khi Trương Bá Nghi đắp sửa La Thành năm 767).

Lý Thái Tổ sau khi lên ngôi chỉ đóng đô ở Hoa Lư mấy tháng, đến đầu năm Thuận Thiên 1 (1010) xuống chiếu chọn thành Đại La đặt Kinh đô mới, đổi tên là thành Thăng Long; đặt phủ Ứng Thiên thống nhiếp các vùng phụ trách Hoàng thành. Năm 1010 đổi phủ Ứng Thiên làm Nam Kinh.

Đời nhà Trần đổi làm phủ Đông Đô, thuộc lộ Đông Đô (gồm phủ Đông Đô và huyện Từ Liêm).

Thời thuộc nhà Minh hay Bắc thuộc lần 4 (1407-1427) là đất huyện Đông Quan (và các vùng lân cận).

Đời Lê Thái Tổ, năm Thuận Thiên thứ 3 (1430) đổi Đông Quan làm Đông Kinh, còn gọi là Trung Đô.

Đời Lê Thánh Tông năm Quang Thuận thứ 10 (1469) chia vùng phụ trách hoàng thành gồm 36 phường làm 2 huyện Vĩnh XươngQuảng Đức thuộc phủ Phụng Thiên.

Thời Tây Sơn, Quang Trung dự tính xây Kinh đô mới ở Nghệ An, gọi Thăng Long là Bắc Thành.

Triều Nguyễn, năm Gia Long thứ 1 (1802) đặt chức Bắc Thành tổng trấn, cai quản cả 11 trấn ở miền Bắc. Năm thứ 4 (1805) đổi huyện Quảng Đức làm Vĩnh Thuận, đổi phủ Phụng Thiên làm phủ Hoài Đức (gồm 2 huyện) thuộc Bắc Thành.

Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) tách huyện Từ Liêm thuộc phủ Quốc Oai nhập vào phủ Hoài Đức; lại tách các phủ Ứng Hòa (tức phủ Ứng Thiên, đổi tên năm 1814), Lý Nhân và Thường Tín thuộc trấn Sơn Nam, gộp vào phủ Hoài Đức thành một tỉnh gọi là tỉnh Hà Nội (gồm 4 phủ, 15 huyện) như khi mới thành lập.

Tỉnh Hà Nội thời Đồng Khánh gồm phần lớn các quận huyện nằm bên hữu ngạn sông Hồng của thành phố Hà Nội ngày nay (trừ thị xã Sơn Tây và các huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Quốc OaiThạch Thất khi đó thuộc tỉnh Sơn Tây) và toàn bộ tỉnh Hà Nam ngày nay.

Tỉnh Hà Nội lúc đó có tỉnh lỵ là thành Thăng Long cũ, gồm có 4 phủ:

Tổng cộng tỉnh Hà Nội có 15 huyện thuộc 4 phủ trên.

Vào thời kỳ 1838-1840, phủ Hoài Đức gồm 2 huyện: Thọ XươngVĩnh Thuận. Huyện Thọ Xương có 8 tổng, 116 phường thôn. Huyện Vĩnh Thuận có 5 tổng, 27 phường thôn. Số dân là 52.335 người.

Sau hiệp ước Patenôtre, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội, ngày 1 tháng 10 năm 1888, vua Đồng Khánh ra đạo dụ nhượng hẳn cho Pháp thành Hà Nội, huyện Đan Phượng thuộc phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, được nhập vào phủ Hoài Đức.

Năm 1890, phủ Lý Nhân của tỉnh Hà Nội được tách ra để lập tỉnh Hà Nam.

Ngày 26 tháng 12 năm 1896 tỉnh Hà Nội (phần còn lại) chuyển tỉnh lỵ về Cầu Đơ (nay là quận Hà Đông) và đến ngày 3 tháng 5 năm 1902 thì đổi tên thành tỉnh Cầu Đơ, đổi huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận làm huyện Hoàn Long. Năm 1904 tỉnh Cầu Đơ đổi tên thành tỉnh Hà Đông.

Dân cư sửa

Theo Đồng Khánh địa dư chí, tỉnh Hà Nội có 56.748 dân đinh[1], trong đó binh đinh[2] là 5.822 người. Cũng theo Đồng Khánh địa dư chí thì:

Chú thích sửa

  1. ^ Dân đinh: đàn ông trưởng thành, khoẻ mạnh chịu sai dịch; lệ triều Nguyễn theo chiếu chỉ năm Minh Mệnh 18 (1819) quy định từ 18 đến 59 tuổi; không tính các hạng miễn sai dịch như quan viên chức sắc, người có học từ Tú tài trở lên
  2. ^ Binh đinh: quân lính tại ngũ.
  3. ^ Lương, từ đương thời chỉ người không theo Thiên Chúa giáo, quen gọi là đi lương (phân biệt với đi đạo).

Tham khảo sửa

  • Đồng Khánh dư địa chí.