Nguyễn Duy Trinh

Phó thủ tướng Việt Nam

Nguyễn Duy Trinh (1910 - 1985) là một chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau đó là Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài ra, ông còn được biết đến với vai trò là người đại diện cho phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt bút ký kết Hiệp định Paris 1973.

Nguyễn Duy Trinh
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh ký Hiệp định Paris, tháng 1 năm 1973
Chức vụ
Nhiệm kỳ20 tháng 12 năm 1976 – 31 tháng 3 năm 1982
5 năm, 101 ngày
Tiền nhiệmLê Đức Thọ (Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị)
Kế nhiệmLê Thanh Nghị
Nhiệm kỳ5 tháng 10 năm 1956 – 31 tháng 3 năm 1982
25 năm, 177 ngày
Vị tríViệt Nam Dân chủ Cộng hòa
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Nhiệm kỳ6 tháng 7 năm 1960 – 7 tháng 2 năm 1980
19 năm, 216 ngày
Thủ tướngPhạm Văn Đồng
Tiền nhiệmPhạm Hùng
Kế nhiệmLê Thanh Nghị
Nhiệm kỳ1 tháng 4 năm 1965 – 7 tháng 2 năm 1980
14 năm, 312 ngày
Tiền nhiệmXuân Thủy
Kế nhiệmNguyễn Cơ Thạch
Nhiệm kỳ7 tháng 1 năm 1963 – 11 tháng 10 năm 1965
2 năm, 277 ngày
Tiền nhiệmVõ Nguyên Giáp
Kế nhiệmTrần Đại Nghĩa
Vị tríViệt Nam Dân chủ Cộng hòa
Nhiệm kỳ6 tháng 1 năm 1946 – 20 tháng 4 năm 1985
39 năm, 104 ngày
Nhiệm kỳtháng 5 năm 1959 – tháng 4 năm 1965
Phó Chủ nhiệmNguyễn Văn Trân
Lê Văn Hiến
Tiền nhiệmNguyễn Văn Trân
Kế nhiệmNguyễn Côn
Bộ trưởng Phủ Thủ tướng
Nhiệm kỳtháng 4 năm 1958 – tháng 12 năm 1958
Tiền nhiệmPhạm Hùng
Kế nhiệmNguyễn Khang
Vị tríViệt Nam Dân chủ Cộng hòa
Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính miền Nam Trung bộ
Nhiệm kỳtháng 6 năm 1950 – 
Phó Chủ tịchTrần Đình Tri
Nhiệm kỳ19 tháng 2 năm 1951 – 20 tháng 4 năm 1985 (mất)
34 năm, 60 ngày
Thông tin cá nhân
Sinh15 tháng 7 năm 1910
Nghi Thọ, Nghi Lộc, Nghệ An, Liên bang Đông Dương
Mất20 tháng 4, 1985(1985-04-20) (74 tuổi)
Hà Nội, Việt Nam
Dân tộcKinh
Đảng chính trịĐảng Cộng sản Việt Nam
VợPhạm Xuân Tư
ChaNguyễn Đình Tiếp
MẹHoàng Thị Lựu

Tiểu sử

sửa

Nguyễn Duy Trinh, sinh ngày 15 tháng 7 năm 1910 trong một gia đình nông dân tại xã Nghi Thọ, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

Năm 1922, Nguyễn Duy Trinh được gia đình cho theo học tại Trường Quốc học Vinh. Năm 1924, ông là học trò của thầy giáo Trần Phú.

Năm 1925, ông đã tham gia phong trào học sinh đòi tự do hoạt động chính trị tại thành phố Vinh. Năm sau, ông gia nhập Tân Việt Cách mạng đảng và được phái vào Sài Gòn hoạt động. Tại đây ông bị bắt và bị kết án 18 tháng tù. hết hạn tù, ông bị chính quyền trục xuất về miền Trung. Tại quê nhà ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.

Thời kỳ 1930 - 1931, ông lại bị bắt và bị đày ra Côn Đảo, sau chuyển về Kon Tum. Tại đây, năm 1941, ông cùng một số bạn tù vượt ngục nhưng bị bắt lại.

Tại Đại hội Đảng lần thứ II (1951), ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, và đến tháng 8 năm 1955 đảm nhiệm chức vụ Bí thư TƯ Đảng. Ông là uỷ viên Bộ chính trị Trung ương Đảng suốt từ năm 1956 đến năm 1982. Tại Đại hội Đảng lần thứ V (1982) ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng cho đến khi mất.[1]

Ông từng đảm nhiệm các chức vụ: Chánh Văn phòng Trung ương Đảng (cuối năm 1954), Bộ trưởng Phủ Thủ tướng (1958), Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Nhà nước (1963 - 1965)[2] và là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao lâu nhất Việt Nam (1965 - 1980)[3]. Chính trong thời gian đó, Việt Nam đàm phán và ký kết Hiệp định Paris về kết thúc chiến tranh Việt Nam. Sau khi Việt Nam hoàn toàn thống nhất, tiến hành công cuộc tái thiết sau hơn 30 năm bị tàn phá bởi các cuộc chiến tranh; vừa tranh thủ sự hỗ trợ của các nước xã hội chủ nghĩa và cộng đồng thế giới, vừa đấu tranh chống bao vây cấm vận. Chính trong thời kỳ đó, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc.

Sau khi thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (năm 1980)[4] ông tham gia vào Ban nghiên cứu chiến lược kinh tế-xã hội của TƯ Đảng và Chính phủ (1982).

Ông còn là Đại biểu Quốc hội Việt Nam suốt từ khóa I đến khóa VII.

Đóng góp

sửa

Nguyễn Duy Trinh đóng góp tích cực vào việc hoạch định và thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế trong hoàn cảnh có sự bất đồng sâu sắc trong phe XHCN. Việc đàm phán ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam năm 1973 có công lao của ông và thay mặt phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký chính thức vào Hiệp định Paris về Chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Tặng thưởng và vinh danh

sửa

Tham khảo

sửa
  1. ^ [1][liên kết hỏng] BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHOÁ II (1951-1960) - Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
  2. ^ “Quá trình phát triển: Bộ Khoa học và Công nghệ”. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2015. Truy cập 10 tháng 3 năm 2015.
  3. ^ “Nghị quyết số 863 NQ/TVQH – Wikisource tiếng Việt”. Truy cập 10 tháng 3 năm 2015.
  4. ^ [2] Lưu trữ 2011-09-26 tại Wayback Machine Chính phủ qua các thời kỳ - Cổng Thông tin điện tử Chính phủ.

Liên kết ngoài

sửa