U-46 (tàu ngầm Đức) (1938)

U-46 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực hiện được tổng cộng mười ba chuyến tuần tra, đánh chìm được hai mươi tàu buôn tải trọng 85.792 GRT, hai tàu chiến phụ trợ tải trọng 35.284 GRT, đồng thời gây tổn thất toàn bộ cho một tàu buôn 2.080 GRT cùng gây hư hại cho hai chiếc khác. U-46 được rút về vai trò huấn luyện từ tháng 10, rồi xuất biên chế vào tháng 10, 1943. Vào cuối cuộc xung đột, chiếc tàu ngầm bị đánh đắm trong vịnh Kupfermühlen vào ngày 5 tháng 5, 1945, nhằm tránh bị lọt vào tay lực lượng Đồng Minh.

Tàu ngầm U-52, một chiếc lớp Type VIIB tiêu biểu
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-46
Đặt hàng 21 tháng 11, 1936
Xưởng đóng tàu Germaniawerft, Kiel ;
Kinh phí 4.439.000 Reichsmark
Số hiệu xưởng đóng tàu 581
Đặt lườn 24 tháng 2, 1937
Hạ thủy 10 tháng 9, 1938
Nhập biên chế 2 tháng 11, 1938
Xuất biên chế tháng 10, 1943
Số phận Bị đánh đắm trong vịnh Kupfermühlen, 5 tháng 5, 1945 [1]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm Type VIIB
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 66,50 m (218 ft 2 in) (chung) [2]
  • 48,80 m (160 ft 1 in) (lườn áp lực) [2]
Sườn ngang
  • 6,20 m (20 ft 4 in) (chung) [2]
  • 4,70 m (15 ft 5 in) (lườn áp lực) [2]
Chiều cao 9,50 m (31 ft 2 in) [2]
Mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in) [2]
Công suất lắp đặt
  • 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 shp) (diesel) [2]
  • 750 PS (550 kW; 740 shp) (điện) [2]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 7.800 hải lý (14.400 km; 9.000 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi) [2]
  • 90 hải lý (170 km; 100 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn) [2]
Độ sâu thử nghiệm
  • 230 m (750 ft) [2]
  • 250–295 m (820–968 ft) (độ sâu ép vỡ tính toán)
Thủy thủ đoàn tối đa 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý Gruppenhorchgerät
Vũ khí
Thành tích phục vụ[1][3]
Một phần của:
Mã nhận diện: M 01 828
Chỉ huy:
  • Đại úy Herbert Sohler
  • 2 tháng 11, 1938 – 21 tháng 5, 1940
  • Trung úy / Đại úy Engelbert Endrass
  • 22 tháng 5, 1940 – 24 tháng 9, 1941
  • Trung úy Peter-Ottmar Grau
  • tháng 10 – 19 tháng 11, 1941
  • Trung úy Konstantin von Puttkamer
  • 20 tháng 11, 1941 – tháng 3, 1942
  • Trung úy Kurt Neubert
  • tháng 3 – tháng 4, 1942
  • Trung úy Ernst von Witzendorff
  • 20 tháng 4 – tháng 5, 1942
  • Thiếu úy Franz Saar
  • tháng 5 – tháng 7, 1942
  • Trung úy Joachim Knecht
  • tháng 8, 1942 – 30 tháng 4, 1943
  • Trung úy Erich Jewinski
  • 1 tháng 5 – tháng 10, 1943
Chiến dịch:
  • 13 chuyến tuần tra:
  • 1: 19 tháng 8 – 15 tháng 9, 1939
  • 2: 3 tháng 10 – 7 tháng 11, 1939
  • 3: 19 tháng 12, 1939 – 10 tháng 1, 1940
  • 4: 29 tháng 2 – 1 tháng 3, 1940
  • 5: 11 tháng 3 – 23 tháng 4, 1940
  • 6: 1 tháng 6–1 tháng 7 & 1–4 tháng 8, 1940
  • 7: 8 tháng 8–6 tháng 9 & 20–21 tháng 9, 1940
  • 8: 23 – 29 tháng 9, 1940
  • 9: 13 – 29 tháng 10, 1940
  • 10: 12 tháng 2 – 4 tháng 3, 1941
  • 11: 15 tháng 3 – 10 tháng 4, 1941
  • 12: 15 tháng 5 – 13 tháng 6, 1941
  • 13: 26 tháng 7 – 26 tháng 8, 1941
Chiến thắng:
  • 20 tàu buôn bị đánh chìm
    (85.792 GRT)
  • 2 tàu chiến phụ trợ bị đánh chìm
    (35.284 GRT)
  • 1 tàu buôn tổn thất toàn bộ
    (2.080 GRT)
  • 4 tàu buôn bị hư hại
    (25.491 GRT)

Thiết kế và chế tạo

sửa

Thiết kế

sửa

Phân lớp VIIB của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIA được mở rộng. Chúng có trọng lượng choán nước 753 t (741 tấn Anh) khi nổi và 857 t (843 tấn Anh) khi lặn). Con tàu có chiều dài chung 66,50 m (218 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 48,80 m (160 ft 1 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,50 m (31 ft 2 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,9 kn (33,2 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.700 nmi (16.100 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Brown, Boveri & Cie GG UB 720/8 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 8 kn (15 km/h), và tầm hoạt động 90 nmi (170 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIB bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]

Chế tạo

sửa

U-46 được đặt hàng vào ngày 21 tháng 11, 1936,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Friedrich Krupp Germaniawerft tại Kiel vào ngày 24 tháng 2, 1937.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 10 tháng 9, 1938,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 2 tháng 11, 1938[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Herbert Sohler.[1]

Lịch sử hoạt động

sửa

Chuyến tuần tra thứ nhất

sửa

Khi mâu thuẫn với Ba Lan có nguy cơ bùng nổ thành xung đột, U-46 lên đường từ cảng Kiel vào ngày 19 tháng 8, 1939, trước khi Thế Chiến II chính thức diễn ra vào ngày 1 tháng 9, nhằm cho phép nó tấn công tàu bè đối phương ngay khi xung đột bắt đầu. Nó tiến ra Bắc Hải, rồi băng qua khe GIUK giữa quần đảo FaroeIceland để tiến vào khu vực giữa Đại Tây Dương và hoạt động tại vùng biển về phía Tây Nam Ireland. Tuy nhiên nó đã không đánh chìm được mục tiêu nào và quay trở về căn cứ Kiel vào ngày 15 tháng 9.[1][5]

Chuyến tuần tra thứ hai và thứ ba

sửa

Tiếp tục hoạt động từ căn cứ Kiel trong các chuyến tuần tra tiếp theo, U-46 đã đánh chìm tàu buôn Anh City of Mandalay vào ngày 17 tháng 10 trong chuyến thứ hai từ ngày 3 tháng 10 đến ngày 7 tháng 11,[6] và đánh chìm tàu buôn Na Uy Rudolph vào ngày 21 tháng 12 trong chuyến thứ ba từ ngày 19 tháng 12, 1939 đến ngày 10 tháng 1, 1940.[7]

Chuyến tuần tra thứ tư và thứ năm

sửa

Chuyến tuần tra thứ tư của U-46 diễn ra trong hai ngày 29 tháng 21 tháng 3, về thực chất chiếc tàu ngầm chỉ chuyển căn cứ hoạt động từ Kiel đến Wilhelmshaven.[3] Nó xuất phát từ đây cho chuyến tuần tra thứ năm từ ngày 11 tháng 3, và trong khuôn khổ các trận chiến chung quanh Narvik, Na Uy vào ngày 13 tháng 4, U-46 bị các tàu khu trục Hải quân Hoàng gia Anh hộ tống cho thiết giáp hạm HMS Warspite thả mìn sâu tấn công tại tọa độ 68°33′B 15°07′Đ / 68,55°B 15,117°Đ / 68.550; 15.117, và bị hư hại đáng kể. Nó quay trở về Kiel vào ngày 23 tháng 4.[1][8]

Đại úy Sohler đã chỉ huy U-46 trong suốt năm chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, nhưng thành tích khiêm tốn đạt được khiến ông phải bàn giao vai trò hạm trưởng cho Đại úy Hải quân Engelbert Endrass vào ngày 22 tháng 5. Endrass từng đảm nhiệm vị trí hạm phó của chiếc U-47 dưới quyền Đại úy Günther Prien, khi chiếc U-boat này xâm nhập Scapa Flow và đánh chìm thiết giáp hạm HMS Royal Oak. U-46 là tàu ngầm đầu tiên Endrass chỉ huy.[9]

Chuyến tuần tra thứ sáu

sửa

U-46 xuất phát từ Kiel vào ngày 1 tháng 6 và băng qua Bắc Hải để tiến vào Đại Tây Dương.[3] Nó có chiến công đầu tiên ngay ngày 6 tháng 6 khi đánh chìm tàu buôn tuần dương vũ trang Anh RMS Carinthia, rồi sau đó đến lượt tàu buôn Phần Lan SS Margareta vào ngày 9 tháng 6. Đến ngày 11 tháng 6, nó gây hư hại cho chiếc MV Athelprince; và sang ngày hôm sau nó đánh chìm SS Barbara Marie và SS Willowbank. U-46 còn đánh chìm thêm tàu buôn Hy Lạp SS Elpis vào ngày 17 tháng 6 trước khi kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Kiel vào ngày 1 tháng 7.[1][10]

U-46 chuyển căn cứ đến Bergen, Na Uy vào đầu tháng 8.[3] Trên đường đi vào ngày 3 tháng 8, nó bị tàu ngầm Anh HMS Triad phát hiện;[1] Triad đã trồi lên mặt nước và tấn công U-46 bằng hải pháo lúc 22 giờ 30 phút, và chiếc tàu ngầm Đức đã lặn xuống ẩn nấp. Triad truy đuổi theo U-46 nhưng nó mất dấu mục tiêu.[1]

Chuyến tuần tra thứ bảy

sửa

U-46 lên đường vào ngày 8 tháng 8 cho chuyến tuần tra thứ bảy cũng rất thành công.[3] Vào ngày 16 tháng 8, nó gây hư hại cho tàu buôn Hà Lan SS Alcinous, rồi đến ngày 20 tháng 8 lại phóng trúng ngư lôi vào tàu buôn Hy Lạp SS Leonidas M. Valmas, khiến mục tiêu tổn thất toàn bộ.[11] Đến ngày 27 tháng 8, nó đánh chìm tàu buôn tuần dương vũ trang HMS Dunvegan Castle, rồi tiếp nối là chiếc SS Ville de Hasselt vào ngày 31 tháng 8 và SS Thornlea vào ngày 2 tháng 9. SS Luimneach, một tàu buôn mang cờ Ireland trung lập, bị đánh chìm bằng hải pháo vào ngày 4 tháng 9.[12]

Các hạm trưởng đã tường thuật lại chi tiết khác nhau về cuộc tấn công này. Đại úy Endrass cho rằng hạm trưởng Eric Jones và thủy thủ đoàn của Luimneach đã mất tinh thần sau phát đạn bắn cảnh cáo của U-46 ngang trước mũi tàu.[13] Trong khi đó Jones là một hạm trưởng dày kinh nghiệm và Luimneach từng trải qua 12 đợt không kích trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha. Thủy thủ đoàn của Luimneach đã bỏ tàu và Endrass sau đó đã đánh chìm mục tiêu bằng hải pháo, vì U-46 đã sử dụng hết số ngư lôi mang theo. Trong cuộc điều tra vào ngày 4 tháng 3, 1941, Đô đốc Karl Dönitz kết luận chiếc U-boat đã ứng xử phù hợp với quy tắc giao chiến khi đánh chìm một con tàu đã bị bỏ lại.[14] U-46 kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảng Lorient tại bờ biển Đại Tây Dương của nước Pháp bị chiếm đóng vào ngày 6 tháng 9.[1]

Chuyến tuần tra thứ tám

sửa

Xuất phát từ Saint Nazaire, Pháp vào ngày 23 tháng 9,[3] chuyến tuần tra thứ tám của U-46 chỉ kéo dài bảy ngày, nhưng nó đã đánh chìm các tàu buôn SS Coast Wings và SS Siljan vào ngày 26 tháng 9 với tổng tải trọng 3.920 tấn.[15]

Chuyến tuần tra thứ chín

sửa

Lên đường vào ngày 13 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ chín,[3] U-46 phối hợp hoạt động cùng một bầy sói để tấn công các đoàn tàu vận tải SC 7 và HX 79. Nó đã đánh chìm các tàu buôn SS Beatus, SS Convallaria và SS Gunborg thuộc Đoàn tàu SC 7 vào ngày 18 tháng 10, cùng các chiếc SS Ruperra và SS Janus vào các ngày 1920 tháng 10 tương ứng.[16] Đến ngày 25 tháng 10, chiếc tàu ngầm bị ba máy bay Lockheed Hudson thuộc Liên đội 233 Không quân Hoàng gia Anh tấn công, khiến một thủy thủ bị tử thương. U-46 kết thúc chuyến tuần tra và về đến Kiel vào ngày 29 tháng 10.[1]

Chuyến tuần tra thứ mười và mười một

sửa

Sau một giai đoạn bảo trì và sửa chữa, U-46 khởi hành từ Kiel vào ngày 12 tháng 2, 1941 cho chuyến tuần tra thứ mười, rồi đi đến cảng Saint Nazaire, Pháp vào ngày 4 tháng 3 mà không đánh chìm được mục tiêu nào.[3][1] Nó thành công hơn trong chuyến tuần tra thứ mười một tiếp theo, kéo dài từ ngày 15 tháng 3 đến ngày 10 tháng 4.[3] U-46 đã lần lượt đánh chìm SS Liguria vào ngày 29 tháng 3, SS Castor vào ngày 31 tháng 3, và SS British Reliance vào ngày 2 tháng 4, cùng gây hư hại cho SS Alderpool vào ngày 3 tháng 4. [17] [1]

Chuyến tuần tra thứ mười hai và mười ba

sửa

Khởi hành từ Saint Nazaire vào ngày 15 tháng 5 cho chuyến tuần tra thứ mười hai, U-46 đã gây hư hại cho SS Ensis vào ngày 8 tháng 6 và đánh chìm SS Phidias vào ngày hôm sau 9 tháng 6. Tuy nhiên Ensis đã húc vào kẻ tấn công, gây hư hại tháp chỉ huykính tiềm vọng của U-46, buộc nó phải kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Saint Nazaire vào ngày 13 tháng 6.[18] [3][1] Trong chuyến tuần tra cuối cùng từ ngày 26 tháng 7 đến ngày 26 tháng 8 xuất phát từ Saint Nazaire, U-46 không bắt gặp mục tiêu nào đáng kể. Nó kết thúc chuyến tuần tra tại Kiel.[3] [1]

1942 - 1945

sửa

Sau chuyến tuần tra cuối cùng vào ngày 24 tháng 9, 1941, U-46 được điều về Chi hạm đội U-boat 26 để phục vụ như một tàu huấn luyện. [1] Nó được điều sang Chi hạm đội U-boat 24 vào tháng 4, 1942, rồi được cho xuất biên chế tại Neustadtvào tháng 10, 1943.[1][19] Vào giai đoạn kết thúc Thế Chiến II, theo dự định của kế hoạch Regenbogen, U-46 bị đánh đắm tại vịnh Kupfermühlen, tại tọa độ 54°50′B 9°29′Đ / 54,833°B 9,483°Đ / 54.833; 9.483, vào ngày 5 tháng 5, 1945, để tránh lọt vào tay lực lượng Đồng Minh.[1]

"Bầy sói" tham gia

sửa

U-46 từng tham gia hai bầy sói

  • Rösing (12 – 15 tháng 6, 1940)
  • West (19 tháng 5 – 6 tháng 6, 1941)

Tóm tắt chiến công

sửa

U-46 đã đánh chìm được hai mươi tàu buôn với tổng tải trọng 85.792 GRT, hai tàu chiến phụ trợ với tổng tải trọng 35.284 GRT, đồng thời gây tổn thất toàn bộ cho một tàu buôn 2.080 GRT cùng gây hư hại cho hai chiếc khác:

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[20]
17 tháng 10, 1939 City of Mandalay   Anh Quốc 7.028 Bị đánh chìm
21 tháng 12, 1939 Rudolf   Na Uy 924 Bị đánh chìm
6 tháng 6, 1940 HMS Carinthia   Hải quân Hoàng gia Anh 20.277 Bị đánh chìm
9 tháng 6, 1940 Margareta   Phần Lan 2.155 Bị đánh chìm
11 tháng 6, 1940 Athelprince   Anh Quốc 8.782 Bị hư hại
12 tháng 6, 1940 Barbara Marie   Anh Quốc 4.223 Bị đánh chìm
12 tháng 6, 1940 Willowbank   Anh Quốc 5.041 Bị đánh chìm
17 tháng 6, 1940 Elpis   Hy Lạp 3.651 Bị đánh chìm
16 tháng 8, 1940 Alcinuos   Hà Lan 6.189 Bị hư hại
16 tháng 8, 1940 Leonidas M. Valmas   Hy Lạp 2.080 Tổn thất toàn bộ
27 tháng 8, 1940 HMS Dunvegan Castle   Hải quân Hoàng gia Anh 15.007 Bị đánh chìm
31 tháng 8, 1940 Ville de Hasselt   Bỉ 7.461 Bị đánh chìm
2 tháng 9, 1940 Thornlea   Anh Quốc 4.261 Bị đánh chìm
4 tháng 9, 1940 Lumineach   Ireland 1.074 Bị đánh chìm
26 tháng 9, 1940 Coast Wings   Anh Quốc 862 Bị đánh chìm
26 tháng 9, 1940 Siljan   Thụy Điển 3.058 Bị đánh chìm
18 tháng 10, 1940 Beatus   Anh Quốc 4.885 Bị đánh chìm
18 tháng 10, 1940 Convallera   Thụy Điển 1.996 Bị đánh chìm
18 tháng 10, 1940 Gunborg   Thụy Điển 1.572 Bị đánh chìm
18 tháng 10, 1940 Ruperra   Anh Quốc 4.548 Bị đánh chìm
20 tháng 10, 1940 Janus   Thụy Điển 9.965 Bị đánh chìm
29 tháng 3, 1941 Liguria   Thụy Điển 1.751 Bị đánh chìm
31 tháng 3, 1941 Castor   Thụy Điển 8.714 Bị đánh chìm
2 tháng 4, 1941 British Reliance   Anh Quốc 7.000 Bị đánh chìm
3 tháng 4, 1941 Alderpool   Anh Quốc 4.313 Bị hư hại
8 tháng 6, 1941 Ensis   Anh Quốc 6.207 Bị hư hại
9 tháng 6, 1941 Phidias   Anh Quốc 5.623 Bị đánh chìm

Xem thêm

sửa

Tham khảo

sửa

Ghi chú

sửa
  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích

sửa
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-46”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2024.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIB”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2024.
  3. ^ a b c d e f g h i j k Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-46”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2024.
  4. ^ a b c Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–44.
  5. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-46 - First Patrol”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024.
  6. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-46 - Second Patrol”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024.
  7. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-46 - Third Patrol”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024.
  8. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-46 - Fifth Patrol”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024.
  9. ^ Busch & Röll 1999, tr. 62.
  10. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-46 - Sixth Patrol”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024.
  11. ^ Helgason, Guðmundur. “Leonidas M. Valmas”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024.
  12. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-46 - Seventh Patrol”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024.
  13. ^ Robertson (1977), tr. 85.
  14. ^ Forde (2000), tr. 66-69.
  15. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-46 - Eighth Patrol”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024.
  16. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-46 - Ninth Patrol”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024.
  17. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-46 - Eleventh Patrol”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024.
  18. ^ Helgason, Guðmundur. “Patrol info for U-46 - Twelfth Patrol”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024.
  19. ^ Gröner 1985, tr. 84.
  20. ^ Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-46”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2024.

Thư mục

sửa
  • Blair, Clay (1996). Hitler's U-Boat War: The Hunters, 1939-1942. ISBN 0394588398.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). German U-boat commanders of World War II : a biographical dictionary. Brooks, Geoffrey biên dịch. London, Annapolis, Maryland: Greenhill Books, Naval Institute Press. ISBN 1-55750-186-6.
  • Busch, Rainer; Röll, Hans-Joachim (1999). Deutsche U-Boot-Verluste von September 1939 bis Mai 1945 [German U-boat losses from September 1939 to May 1945]. Der U-Boot-Krieg (bằng tiếng Đức). IV. Hamburg, Berlin, Bonn: Mittler. ISBN 3-8132-0514-2.
  • Forde, Frank (1981). The Long Watch: The History of the Irish Mercantile Marine in World War Two. Gill & MacMillan. ISBN 9780717111268.
  • Gröner, Erich; Jung, Dieter; Maass, Martin (1991). U-boats and Mine Warfare Vessels. German Warships 1815–1945. 2. Thomas, Keith; Magowan, Rachel biên dịch. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-593-4.
  • Kemp, Paul (1997). U-Boats Destroyed - German Submarine Losses in the World Wars. Arms & Armour. ISBN 1-85409-515-3.
  • Neistlé, Axel (2014). German U-Boat Losses during World War II: Details of Destruction (ấn bản 2). Havertown: Frontline Books. ISBN 978-1848322103.
  • Robertson, Terence (1977) [1956]. Night raider of the Atlantic. Dutton. ISBN 978-0-345-27103-7.
  • Sharpe, Peter (1998). U-Boat Fact File. Midland Publishing. ISBN 1-85780-072-9.

Liên kết ngoài

sửa
  • Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB boat U-46”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2024.
  • Hofmann, Markus. “U 46”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2024.