Cà Mau
Cà Mau là một tỉnh ven biển ở cực nam của Việt Nam, nằm trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.[6] Toàn bộ địa phận tỉnh Cà Mau nằm trên Bán đảo Cà Mau.[7]
Cà Mau
|
|||
---|---|---|---|
Tỉnh | |||
Tỉnh Cà Mau | |||
![]() Biểu trưng | |||
![]() | |||
Biệt danh | Đất Mũi Cực Nam Tổ quốc | ||
Tên cũ | An Xuyên Minh Hải | ||
Hành chính | |||
Quốc gia | ![]() | ||
Trung tâm hành chính | Phường Tân Thành | ||
Trụ sở UBND | Số 02 Hùng Vương, phường Tân Thành | ||
Phân chia hành chính | 9 phường, 55 xã | ||
Thành lập | 9/3/1956[1] 1/1/1997[2] | ||
Đại biểu Quốc hội | |||
Tổ chức lãnh đạo | |||
Chủ tịch UBND | Phạm Thành Ngại | ||
Hội đồng nhân dân | 51 đại biểu | ||
Chủ tịch HĐND | Nguyễn Tiến Hải | ||
Chủ tịch UBMTTQ | Trần Văn Hiện | ||
Chánh án TAND | Hà Thanh Hùng | ||
Viện trưởng VKSND | Đặng Dư Phương | ||
Bí thư Tỉnh ủy | Nguyễn Hồ Hải | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: 9°03′41″B 105°01′55″Đ / 9,061414°B 105,032043°Đ | |||
| |||
Diện tích | 7.942,39 km²[3] | ||
Dân số (31/12/2024) | |||
Tổng cộng | 2.606.672 người[3] | ||
Mật độ | 328 người/km² | ||
Dân tộc | Kinh, Hoa, Tày, Khmer | ||
Kinh tế (2024) | |||
GRDP | 279.735.681 triệu đồng[4] | ||
GRDP đầu người | 59,3 triệu đồng[4] | ||
Khác | |||
Mã địa lý | VN-59 | ||
Mã hành chính | 96[5] | ||
Mã bưu chính | 97xxxx | ||
Mã điện thoại | 290, 291 | ||
Biển số xe | 69, 94 | ||
Website | www | ||
Nguồn gốc tên gọi
sửaTên gọi Cà Mau (chính tả cũ: Cà-mau) được hình thành do người Khmer gọi tên vùng đất này là "Tưk Kha-mau" (tiếng Khmer: តឹកខ្មៅ[8]), có nghĩa là nước đen. Do Nước đen là màu nước đặc trưng do lá tràm của thảm rừng tràm U Minh bạt ngàn rụng xuống làm đổi màu nước. Cà Mau là xứ đầm lầy ngập nước, có nhiều bụi lác mọc tự nhiên và hoang dã. Chính vì lẽ đó từ thuở xưa đã có câu ca dao:
“ | Cà Mau là xứ quê mùa Muỗi bằng gà mái, cọp tùa bằng trâu |
” |
— Ca dao Việt Nam |
Địa lý
sửaKhái quát
sửaTỉnh Cà Mau là mảnh đất tận cùng của tổ quốc với 3 mặt tiếp giáp với biển, cách thành phố Cần Thơ 180 km, cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km, có vị trí địa lý:
- Phía đông giáp Biển Đông với đường bờ biển 163 km
- Phía tây và phía nam giáp Vịnh Thái Lan với đường bờ biển 147 km
- Phía bắc giáp thành phố Cần Thơ và tỉnh An Giang.
Thành phố Cà Mau nằm trên trục đường Quốc lộ 1 và quốc lộ 63. Là tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đường bờ biển của tỉnh Cà Mau có độ dài gần 310 km (dài thứ 2 cả nước), trong đó có 163 km bờ Biển Đông và 147 km bờ Biển Tây. Biển Cà Mau tiếp giáp với vùng biển các nước như Thái Lan, Malaysia, Indonesia và là trung tâm của vùng biển quốc tế ở Đông Nam Á.
Điều kiện tự nhiên
sửaCà Mau là vùng đất thấp, khu vực rìa phía nam thường xuyên bị ngập nước[9]. Cà Mau có 5 nhóm đất chính gồm: đất phèn, đất than bùn, đất bãi bồi, đất mặn và đất kênh rạch.
Rừng Cà Mau là loại hình sinh thái đặc thù, rừng sinh thái ven biển ngập mặn được phân bố dọc ven biển với chiều dài 310 km. Bên cạnh đó, Cà Mau còn có hệ sinh thái rừng tràm nằm sâu trong lục địa ở các huyện U Minh, Trần Văn Thời, Thới Bình quy mô 35.000 ha. Diện tích rừng ngập mặn ở Cà Mau chiếm 77% rừng ngập mặn của vùng đồng bằng sông Cửu Long.[10]
Tỉnh Cà Mau mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, với nền nhiệt độ cao vào loại trung bình trong tất cả các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Khí hậu Cà Mau được chia thành 2 mùa là mùa mưa và mùa khô. Trong đó, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa ở Cà Mau trung bình có 165 ngày mưa/năm, với 2.360 mm.[11] Độ ẩm trung bình năm là 85,6%, nhiệt độ trung bình hàng năm là 26,50C. Trong đó, nhiệt độ trung bình cao nhất trong năm là vào tháng 4, khoảng 27,60C, nhiệt độ trung bình thấp nhất vào tháng 1, khoảng 250C. Biển nhiệt độ trung bình trong 1 năm là 2,70C[10]. Năm 2014, nhiệt độ thấp nhất ở đây đã xuống tới 20 độ C (tháng 1) (trước đó vào tháng 12 năm 2013 đã xuống còn 18 độ C). Nhiệt độ cao nhất là 38 độ C khi đang trong mùa khô vào tháng 4 năm 2016.
Bán đảo Cà Mau
sửaCà Mau là một dải đất hình tam giác, có chiều dài tối đa là 130 dặm và độ cao trung bình là 7 feet so với mực nước biển. Sự hình thành của nó gần như hoàn toàn là kết quả của trầm tích của sông Mekong, cũng là kết quả của quá trình hình thành Mũi Bai ở cuối bán đảo.
Khí hậu Cà Mau là nhiệt đới xa-van (Koppen: Aw) với lượng ẩm quanh năm trừ hai đến ba tháng mùa đông khí hậu tương đối khô hạn.
Quần đảo thuộc Cà Mau
sửaQuần đảo Hòn Khoai
sửaQuần đảo Hòn Khoai bao gồm 5 hòn đảo sát nhau:
- Hòn Khoai (tên khác: Giáng Tiên, Độc Lập, Hòn Lớn)
- Hòn Sao 8°24′57″B 104°51′05″Đ / 8,415943°B 104,851404°Đ là hòn đảo lớn thứ hai nằm về phía đông Hòn Khoai với khoảng cách 1,35 km, có diện tích khoảng 64 ha.
- Hòn Đồi Mồi, hay Hòn Rùa 8°25′14″B 104°51′44″Đ / 8,420606°B 104,862219°Đ, nằm cạnh Hòn Sao, chỉ cách 400 mét về đông bắc, diện tích nhỏ chỉ khoảng 2,6 ha.
- Hòn Tương 8°27′14″B 104°50′36″Đ / 8,453755°B 104,843355°Đ, hay Hòn Thỏ nằm sát bờ cực bắc Hòn Khoai, diện tích nhỏ bé chỉ khoảng 1,5 ha.
- Hòn Đá Lẻ 8°22′44″B 104°52′25″Đ / 8,378885°B 104,873658°Đ nằm vị trí cách xa so với 4 hòn của cụm đảo, cách đảo Hòn Khoai 7,7 km về phía đông nam, chỉ là 1 cụm đá đen trơ trọi dài khoảng 125 m, rộng nhất 34m và cao nhất khoảng 7 m. Đây là vị trí Điểm A2 của Đường cơ sở của Việt Nam.[12]
Tổng diện tích 4 km².
Cụm đảo Hòn Đá Bạc
sửaHòn Đá Bạc thuộc xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời.
- Hòn Trọi (Hòn Đá Bạc Lẻ, Hòn Đá Lẻ)
- Hòn Lớn (Hòn Đá Bạc)
- Hòn Ông Ngộ
Cụm đảo Hòn Chuối
sửaHành chính
sửaTỉnh Cà Mau có 64 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 9 phường và 55 xã.
Danh sách các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Cà Mau | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
|
Lịch sử
sửaCà Mau là một vùng đất trẻ, mới được khai phá khoảng trên 300 năm. Vùng đất Cà Mau ngày xưa được Mạc Cửu dẫn người Hoa đến khai phá. Sau khi Mạc Cửu dâng toàn đất này thần phục Nhà Nguyễn, Mạc Thiên Tứ con của Mạc Cửu đã vâng lệnh triều đình Chúa Nguyễn lập ra đạo Long Xuyên. Qua nhiều lần thay đổi về hành chính, đến ngày 1 tháng 1 năm 1997, tỉnh Cà Mau được tái lập theo Nghị quyết của Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 10, ngày 6 tháng 11 năm 1996 về việc điều chỉnh địa giới hành chính, chia tách tỉnh Minh Hải thành tỉnh Cà Mau và tỉnh Bạc Liêu.
Thời phong kiến
sửaSách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức có chép "Thời Gia Long, những giồng đất cao ráo ở ven sông Ông Đốc, sông Gành Hào, sông Bảy Háp và một vài phụ lưu mới có người khai khẩn, lập thành xóm, ấp. Tuy vậy, đến thời Tự Đức Cà Mau vẫn là vùng rừng đước, vẹt, tràm, không mấy ai đến lập nghiệp vì thiếu nước ngọt và ruộng quá nhiều phèn".
Cuối thế kỷ 17, Mạc Cửu là tướng của nhà Minh do không chấp nhận triều đình nhà Thanh nên đã dẫn một số người Trung Hoa đến vùng Hà Tiên sinh sống. Sau khi Mạc Cửu dâng toàn bộ phần đất này thần phục nhà Nguyễn, Mạc Thiên Tứ con của Mạc Cửu đã vâng lệnh triều đình chúa Nguyễn lập ra đạo Long Xuyên.
Năm 1808, Thời Gia Long thứ 7, đổi tên đạo Long Xuyên thành huyện Long Xuyên thuộc trấn Hà Tiên.
Năm 1825, Thời Minh Mạng thứ 6, nhà Nguyễn đã đặt ra một quan tri huyện để cai trị.
Thời Pháp thuộc
sửaNgày 15 tháng 6 năm 1867, thực dân Pháp thành lập hạt Cà Mau gồm địa bàn huyện Long Xuyên cũ.
Ngày 1 tháng 8 năm 1877, thực dân Pháp lại giải thể hạt Cà Mau, nhập vào địa bàn hạt Rạch Giá.
Ngày 18 tháng 12 năm 1882, Thống đốc Nam Kỳ ban hành Nghị định về việc thành lập địa hạt Bạc Liêu (Arrondissement de Bạc Liêu) trực thuộc khu vực hành chính Bassac trên cơ sở cắt 3 tổng: Quảng Long, Quảng Xuyên, Long Thủy của đại lý (Dlégation) Cà Mau thuộc địa hạt Rạch Giá (Arrondissement de Rach Gia) và 2 tổng: Thạnh Hòa, Thạnh Hưng của đại lý Châu Thành thuộc địa hạt Sóc Trăng. Thời Pháp thuộc, Cà Mau là một quận của tỉnh Bạc Liêu, quận lỵ đặt tại làng An Xuyên thuộc tổng Quản Long.
Ngày 20 tháng 12 năm 1899, Toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định[13] về việc đổi tên gọi tiểu khu (arrondissement) hay tham biện là đơn vị hành chính ở Nam Kỳ thành tỉnh (province), đổi tên đại lý thành quận quy định kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 và phân chia thành 3 miền: miền Đông, miền Trung, miền Tây với gồm 20 tỉnh. Theo đó, thành lập tỉnh Bạc Liêu trên cơ sở đổi tên hạt tham biện Bạc Liêu.
Năm 1903, thực dân Pháp lập đại lý hành chính Cà Mau thuộc tỉnh Bạc Liêu trên cơ sở 3 tổng: Quảng Long, Quảng Xuyên, Long Thủy của quận Vĩnh Lợi.
Ngày 16 tháng 5 năm 1911, Toàn quyền Đông Dương Quyết định nâng lên đại lý hành chính Cà Mau thành quận Cà Mau thuộc tỉnh Bạc Liêu.
Ngày 5 tháng 10 năm 1917, quận Cà Mau gồm 2 tổng: Quảng Xuyên, Quảng Long và các làng Tân Lộc, Tân Lợi, Tân Phú, Thới Bình của tổng Long Thủy.
Ngày 6 tháng 4 năm 1923, thành lập tổng mới Long Thới thuộc quận Cà Mau trên cơ các làng Tân Lợi, Tân Lộc, Thới Bình của tổng Long Thủy của quận Cà Mau (có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1924).
Ngày 24 tháng 9 năm 1938, thành lập quận mới Quảng Xuyên trên cơ sở tổng Quảng Xuyên của quận Cà Mau.
Ngày 14 tháng 9 năm 1942, thành lập cơ sở hàng chính Tân An thuộc quận Cà Mau.
Ngày 5 tháng 4 năm 1944, thành lập quận Thới Bình trên cơ sở tổng Thới Bình của quận Cà Mau.
Ngày 6 tháng 10 năm 1944, đổi tên quận Thới Bình thành quận Cà Mau Bắc, đổi tên quận Quảng Xuyên thành quận Cà Mau Nam. Sau đó lại hợp nhất 2 quận này thành một quận Cà Mau thuộc tỉnh Bạc Liêu.
Giai đoạn 1956–1975
sửaViệt Nam Cộng hòa
sửaNgày 9 tháng 3 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 32-VN[1] về việc thành lập tỉnh Cà Mau trên cơ sở 2 quận: Cà Mau, Quảng Xuyên và 4 xã: Định Thành, Hòa Thành, Tân Thành, Phong Thạnh Tây của quận Giá Rai thuộc tỉnh Bạc Liêu. Tỉnh lỵ ban đầu có tên là Cà Mau.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ban hành Sắc lệnh số 143-NV[14] về việc:
- Thành lập tỉnh An Xuyên[15] trên cơ sở đổi tên tỉnh Cà Mau.
- Đổi tên tỉnh lỵ Cà Mau thành Quản Long.
- Đổi tên xã An Xuyên thành xã Tân Xuyên thuộc quận Quản Long và là nơi đặt tỉnh lỵ Quản Long của tỉnh An Xuyên.
Tỉnh An Xuyên khi đó gồm 6 quận: Quản Long, Thới Bình, Sông Ông Đốc, Cái Nước, Đầm Dơi, Năm Căn.
Chính quyền Cách mạng
sửaTuy nhiên, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh An Xuyên mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Cà Mau.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn duy trì tỉnh Cà Mau cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng "huyện" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa). Tỉnh Cà Mau lúc bấy giờ có 6 huyện: Thới Bình, Trần Văn Thời, Cái Nước, Ngọc Hiển, Châu Thành, Duyên Hải và thị xã Cà Mau.
Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 245-NQ/TW[16] về việc hợp nhất tỉnh Bạc Liêu, tỉnh Cà Mau và hai huyện Vĩnh Thuận, An Biên (ngoại trừ 2 xã Đông Yên và Tây Yên) của tỉnh Rạch Giá sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên.
Ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 19/NQ[17] về việc hợp nhất tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên.
Tỉnh Minh Hải giai đoạn 1976–1996
sửaNgày 24 tháng 2 năm 1976, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành Nghị định số 3/NQ/1976[18] về việc hợp nhất tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau thành một tỉnh mới, lấy tên là tỉnh Bạc Liêu – Cà Mau.
Ngày 10 tháng 3 năm 1976, Ban đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ ban hành Nghị quyết về việc:
- Thành lập tỉnh Minh Hải trên cơ sở đổi tên tỉnh Bạc Liêu – Cà Mau.
- Đổi tên thị xã Bạc Liêu thành thị xã Minh Hải và trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Minh Hải.
Ngày 17 tháng 5 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 75-HĐBT[19] về việc đổi tên thị xã Minh Hải thành thị xã Bạc Liêu.
Ngày 18 tháng 12 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 170-HĐBT[20] về việc chuyển tỉnh lỵ tỉnh Minh Hải về thị xã Cà Mau.
Tỉnh Cà Mau từ năm 1997 đến nay
sửaNgày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội ban hành Nghị quyết[2] về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1997). Theo đó, chia tỉnh Minh Hải thành tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau.
Tỉnh Cà Mau có 7 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm thị xã Cà Mau (tỉnh lỵ) và 6 huyện: Cái Nước, Đầm Dơi, Ngọc Hiển, Thới Bình, Trần Văn Thời, U Minh.
Ngày 14 tháng 4 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 21/1999/NĐ-CP[21] về việc thành lập thành phố Cà Mau thuộc tỉnh Cà Mau trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Cà Mau.
Ngày 17 tháng 11 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định 138/2003/NĐ-CP[22] về việc:
- Tái lập huyện Năm Căn trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích và dân số của huyện Ngọc Hiển.
- Tái lập huyện Phú Tân trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích và dân số của huyện Cái Nước.
Ngày 6 tháng 8 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1373/QĐ-TTg[23] về việc công nhận thành phố Cà Mau là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Cà Mau.
Ngày 26 tháng 7 năm 2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 891/QĐ-TTg[24] về việc công nhận xã An toàn khu thuộc tỉnh Cà Mau.
Tỉnh Cà Mau có 1 thành phố và 8 huyện như hiện nay.[5]
Ngày 12 tháng 6 năm 2025, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 202/2025/QH15[3] về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 12 tháng 6 năm 2025). Theo đó, sáp nhập tỉnh Bạc Liêu vào tỉnh Cà Mau.
Sau khi sáp nhập, tỉnh Cà Mau có 7.942,39 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số là 2.606.672 người.
Ngày 16 tháng 6 năm 2025, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1655/NQ-UBTVQH15[25] về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Cà Mau năm 2025 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2025). Theo đó, thành lập 63 xã, phường mới trên cơ sở 163 đơn vị hành chính cấp xã và giữ nguyên 1 xã.
Tỉnh Cà Mau có 9 phường và 55 xã.
Kinh tế
sửaBài viết này cần được cập nhật do có chứa các thông tin có thể đã lỗi thời hay không còn chính xác nữa. |
Tuy Cà Mau có nhiều tiềm năng, thế mạnh, nhưng khi mới chia tách, xuất phát điểm về kinh tế - xã hội rất thấp kém. Kinh tế thuần nông với cơ cấu nông - lâm - thủy sản chiếm tỷ trọng 63,40%, công nghiệp - xây dựng chỉ đạt 16,96%, dịch vụ chỉ đạt 19,64%. Kết cấu hạ tầng kinh tế yếu kém, thu nhập bình quân đầu người 296 USD, đời sống người dân còn rất nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo chiếm 27,9%, lao động qua đào tạo, dạy nghề 15%, hộ sử dụng điện 16%, sử dụng máy điện thoại bình quân 4,5 máy cho 100 dân. Sau hơn 20 năm tái lập (1997 - 2018), thu nhập bình quân đầu người tăng 4,75 lần, năm 2018 đạt 2.000 USD. Từ cơ cấu nông nghiệp chiếm đến 63,40%, công nghiệp 16,96%, dịch vụ 19,64% vào năm 1997, đến năm 2018 cơ cấu nông nghiệp chỉ còn 8%, công nghiệp tăng lên 43%, dịch vụ 49%.
Năm 2011, diện tích gieo trồng lúa của tỉnh ước đạt 128 ngàn hécta, chiếm 82,7% diện tích cây trồng của tỉnh. Sản lượng lúa ước đạt 532.000 tấn. Hoạt động chăn nuôi gia súc và gia cầm phát triển chậm, chủ yếu là chăn nuôi nhỏ lẻ, chưa mang tính chất công nghiệp, do đó chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân trong tỉnh và còn gặp nhiều khó khăn. Tổng đàn heo năm 2011 ước đạt 221,2 ngàn con. Đàn gia cầm ước đạt 1.521,2 ngàn con đang có xu hướng giảm, nguyên nhân chủ yếu một phần là do tác động của chuyển dịch một phần diện tích đất trồng lúa sang nuôi tôm, ở vùng nuôi tôm do thiếu thức ăn và nguồn nước bị nhiễm mặn nên hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm khó phát triển.
Năm 2011, diện tích rừng tập trung của tỉnh đạt 102.973 ha, Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản khoảng 296.300 ha. Sản lượng thủy sản nuôi trồng năm 2011 ước đạt 248,4 ngàn tấn, tăng gần 4,4 lần so với năm 1997, tăng bình quân 12,8%/năm. Giá trị sản xuất bình quân trên 1 ha mặt nước nuôi trồng thủy sản không ngừng tăng, năm 2011 ước đạt 47,2 triệu đồng/ha, tăng 4,8 lần so với năm 1997, tăng bình quân 13,4%/năm. Diện tích nuôi tôm chiếm 90% diện tích nuôi trồng thủy sản của tỉnh. Sản lượng thủy sản đánh bắt tuy tăng chậm so với nuôi trồng nhưng cơ cấu sản xuất cũng chuyển dịch theo hướng tăng sản lượng khai thác xa bờ, giảm khai thác gần bờ có nguy cơ làm cạn kiệt nguồn lợi thủy sản và ô nhiễm môi trường nước ven biển. Sản lượng thủy hải sản khai thác đạt 155 ngàn tấn vào năm 2011, bình quân mỗi năm tăng 4,3%. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp năm 2011 trên địa bàn tỉnh đạt 17.500 tỷ đồng, gấp 10,5 lần năm 1997 và gấp 6,1 lần năm 2000, tăng bình quân hằng năm trên 18%.
Từ đầu năm 2012 đến ngày 30 tháng 1 năm 2013, thu ngân sách được 309 tỷ đồng, đạt 6,2% dự toán năm, bằng 90,2% so với cùng kỳ. Chi ngân sách 587 tỷ đồng, Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 372 tỷ đồng, Sản lượng điện ước đạt 155 triệu KWh, Sản lượng đạm 10.000 tấn. Sản lượng chế biến thủy sản xuất khẩu khoảng 1.069 tấn. Kim ngạch xuất khẩu đạt 11 triệu USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ. Kim ngạch nhập khẩu 1,28 triệu USD[26]. Năm 2018, giá trị sản xuất của thủy sản so với Tổng giá trị sản xuất của Nông nghiệp – Lâm nghiệp – Thủy sản là 59,1%.
Năm 2019, tổng sản phẩm trong tỉnh tăng 7% so với năm 2018. Khu vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 29,2% GRDP; công nghiệp, xây dựng chiếm 26,1%; dịch vụ chiếm 40,9%; thuế nhập khẩu, thuế sản phẩm chiếm 3,8%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 13.810 tỉ đồng. Thu ngân sách đạt 5.654 tỉ đồng, vượt 23,7% dự toán, tăng 19,9% so với cùng kì. Chi ngân sách đạt 10.066 tỉ đồng, bằng 103% dự toán, tăng 11% so với cùng kì. Kim ngạch xuất khẩu đạt 1.168 triệu USD, bằng 97,3% kế hoạch, tăng 3,6% so với cùng kì.
Xã hội
sửaGiáo dục
sửaHiện nay toàn tỉnh Cà Mau có 2 trường Đại học và 4 trường Cao đẳng. Danh sách các trường Đại học, Cao đẳng ở Cà Mau:
- Trường Đại học Bình Dương (phân hiệu Cà Mau)
- Trường Đại học Tôn Đức Thắng (phân hiệu Cà Mau)
- Cao đẳng Sư phạm Cà Mau
- Cao đẳng Y tế Cà Mau
- Cao đẳng Cộng đồng Cà Mau
- Cao đẳng nghề Việt Nam - Hàn Quốc Cà Mau
Y tế
sửa- Bệnh viện đa khoa tỉnh Cà Mau: 16, đường Hải Thượng Lãn Ông, Phường 6, TP. Cà Mau
- Bệnh viện Sản - Nhi Cà Mau: 85 Lý Thường Kiệt, Phường 6, Tp. Cà Mau, tỉnh Cà Mau[27]
- Bệnh viện Mắt và Da liễu tỉnh Cà Mau: đường Hải Thượng Lãn Ông, Phường 6, TP Cà Mau
- Bệnh viên Lao và Bệnh phổi tỉnh Cà Mau: đường Hải Thượng Lãn Ông, Phường 6, TP Cà Mau
Dân số
sửa
|
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Nguồn: Dân số tỉnh Cà Mau[28][29][30] |
Cà Mau là tỉnh có dân số đứng thứ 9 trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (hơn các tỉnh Trà Vinh, Vĩnh Long, Hậu Giang và Bạc Liêu). Sau 10 năm, quy mô dân số Cà Mau giảm 12.462 người. Bình quân dân số qua các giai đoạn giảm dần: Dân số bình quân giai đoạn 1989–1999 tăng 2,32%/năm; dân số bình quân giai đoạn 1999–2009 tăng 0,76%/năm; dân số bình quân giai đoạn 2009–2019 giảm 0,10%/năm.
Đến đầu năm 2017, trên địa bàn tỉnh Cà Mau, người Kinh chiếm đại đa số, với khoảng 1.180.000 người, chiếm trên 96% dân số và sinh sống hầu hết ở các nơi trong tỉnh. Tiếp theo là người Khmer khoảng 33.439 người, chiếm 2,73% dân số, sống tập trung tại các ngôi chùa ở cả thành thị và nông thôn, tạo thành các xóm người Khmer, sinh sống bằng nghề trồng lúa, rau màu, chăn nuôi, khai thác thủy sản, mua bán nhỏ. Người Hoa có 9.418 người, chiếm 0,76% dân số, chủ yếu sống ở khu vực thành thị, sinh sống bằng nghề mua bán. Còn lại là các dân tộc khác như: Mường, Thái, Tày, Nùng, Giao, Gia rai, Ê đê, Chăm, Chu ru, Si la, người nước ngoài.
Tính vào thời điểm 00 giờ ngày 01/4/2019, tổng số dân của tỉnh Cà Mau là 1.194.476 người. Trong đó, dân số nam là 604.901 người, chiếm 50,64%; dân số nữ là 589.575 người, chiếm 49,36%. Dân số khu vực thành thị là 271.063 người, chiếm 22,69%; dân số khu vực nông thôn là 923.413 người, chiếm 77,31% dân số toàn tỉnh. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 28,4%.
Trong tổng dân số trên địa bàn tỉnh Cà Mau, người Kinh chiếm đa số, chiếm 97,19% với 1.160.852 người; kế tiếp là dân tộc Khmer, chiếm 2,19% với 26.110 người; tiếp theo là dân tộc Hoa, chiếm 0,53% với 6.343 người; còn lại các dân tộc khác, chiếm 0,1% với 1.171 người (chủ yếu là các dân tộc Tày 148 người, Thái 119 người, Mường 198 người, Gia Rai 299 người, Ba Na 108 người, Chăm 91 người, Nùng 58 người, Ê Đê 36 người,...). Đến thời điểm Tổng điều tra năm 2019, trên địa bàn tỉnh Cà Mau có 26.356 người theo tôn giáo, chiếm 2,21 % tổng dân số toàn tỉnh. Trong đó, số người theo Công giáo là đông nhất với 15.421 người, chiếm 58,51% tổng số người theo tôn giáo và chiếm 1,29% tổng dân số toàn tỉnh. Xếp thứ hai là số người theo Phật giáo với 6.795 người, chiếm 25,78% những người theo tôn giáo và chiếm 0,57% dân số toàn tỉnh, xếp thứ 3 là số người theo đạo Cao Đài với 2.310 người, chiếm 8,76% những người theo tôn giáo và chiếm 0,19% dân số toàn tỉnh. Các tôn giáo còn lại chiếm tỷ trọng nhỏ, không đáng kể. Mật độ dân số của tỉnh Cà Mau năm 2019 là 229 người/km², tăng 3 người/km² so với năm 2009. Với kết quả này, Cà Mau là tỉnh có mật độ dân số thấp hơn mật độ dân số chung vùng Đồng bằng sông Cửu Long (423 người/km²); thấp nhất so với các tỉnh trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và thấp hơn mật độ dân số chung của cả nước (290 người/km²). Thành phố Cà Mau là đơn vị có mật độ dân số đông nhất 908 người/km². Huyện Ngọc Hiển là đơn vị có mật độ dân số thấp nhất so với các đơn vị với 94 người/km²; kế đến là huyện Năm Căn 118 người/km² và huyện U Minh 131 người/km². Tỷ số giới tính của dân số Cà Mau là 102,6 nam/100 nữ. Tỷ số giới tính của Cà Mau cao hơn tỷ số giới tính chung của cả nước và cao hơn khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Kết quả Tổng điều tra năm 2019 cho thấy tỉnh Cà Mau có cơ cấu dân số vàng, vì tỷ trọng dân số từ 15 – 64 tuổi chiếm 68,78%; tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi và từ 65 tuổi trở lên chiếm lần lượt là 23,45% và 7,7%. Như vậy, Cà Mau là tỉnh đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” khi có hai người trong độ tuổi lao động thì có một người phụ thuộc. Tỷ suất sinh thô năm 2019 là 11,2 trẻ sinh sống/1.000 dân và tỷ số giới tính khi sinh là 102 bé trai/100 bé gái. Tỷ suất sinh thô và tỷ số giới tính khi sinh của tỉnh thấp hơn tỷ suất sinh thô và tỷ số giới tính khi sinh chung của cả nước và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Tuổi thọ trung bình năm 2019 của người dân là 75,0 tuổi, nam giới là 72,6 tuổi, nữ giới là là 77,5 tuổi. Tuổi thọ trung bình của người Cà Mau cao hơn tuổi thọ trung bình chung của cả nước kể cả nam và nữ và bằng tuổi thọ trung bình chung của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên là 96,6%, tăng 1,11 điểm phần trăm so với năm 2009. Tỷ lệ biết đọc, biết viết cao hơn so với cả nước và vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Số người có trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên chiếm 18,2% tổng dân số từ 15 tuổi trở lên, tăng 3,26% so với năm 2009.
Tính đến ngày 31/12/2024, tỉnh Cà Mau có diện tích 7.942,39 km² và quy mô dân số là 2.606.672 người.[31][4]
Văn hóa
sửaĐến đầu năm 2017, tỉnh Cà Mau có 373.327 tín đồ, chiếm 30,7% so với dân số; 1.132 chức sắc; 1.913 chức việc. Có tổng số 142 tổ chức tôn giáo cơ sở; 134 cơ sở thờ tự. Bao gồm:
- Phật giáo:
- Phật giáo Bắc tông có tổng số 41 cơ sở thờ tự; 277.865 phật tử, tu sĩ, chức sắc, chức việc, hoàn thượng, thượng tọa, ni trưởng, ni sư, đại đức, sư cô, sadi, sadini, thức xoa mana.
- Phật giáo Hoa Tông có 2 cơ sở thờ tự; 2.180 phật tử, cư sĩ.
- Phật giáo Nam Tông có 7 cơ sở thờ tự; 25.215 phật tử, sư, hòa thượng, thượng tọa, đại đức, chức việc.
- Công giáo: 19 cơ sở thờ tự; 22.360 giáo dân, linh mục.
- Tin lành gồm: Tin lành Việt Nam (miền Nam), Tin lành BaptitVN, Tin lành Liên hữu Cơ đốc, Tin lành Chứng nhân Giê-hô-va, Tin lành Cơ đốc Phục lâm. Trong đó:
- Tin lành Việt Nam (miền Nam) có 8 cơ sở thờ tự; 4.472 tín hữu, mục sư, truyền đạo.
- Tin lành BaptitVN có 34 điểm nhóm; 1.105 tín hữu, mục sư, nữ truyền đạo, chức việc.
- Tin lành Liên hữu Cơ đốc có 1 điểm nhóm; 49 tín hữu, mục sư.
- Tin lành Nhân chứng Giê-hô-va có 1 điểm nhóm; 136 tín hữu, chức việc.
- Tin lành Cơ đốc Phục lâm có 1 điểm nhóm; 32 tín hữu, chức việc.
- Cao đài gồm có: Cao Đài Minh Chơn đạo, Cao Đài Tây Ninh, Cao Đài Tiên Thiên. Trong đó:
- Cao Đài Minh Chơn đạo có 23 cơ sở thờ tự; 13.436 nhơn sanh, chức sắc, chức việc.
- Cao Đài Tây Ninh có 9 cơ sở thờ tự; 13.277 nhơn sanh, chức sắc, chức việc.
- Cao Đài Tiên Thiên có 2 cơ sở thờ tự; 715 nhơn sanh, chức sắc, chức việc.
- Tịnh độ cư sĩ phật hội: có 22 cơ sở thờ tự; 14.691 tín đồ, chức sắc, chức việc.
- Phật giáo Hòa Hảo: có 01 cơ sở thờ tự; 1.056 đồng đạo, chức việc.
Đồng bào các tôn giáo ở Cà Mau tích cực tham gia các hoạt động từ thiện xã hội như: hỗ trợ đồng bào nghèo nhân dịp lễ, tết, bắc cầu giao thông nông thôn, khám và cấp phát thuốc miễn phí cho bệnh nhân nghèo, hỗ trợ mổ tim cho người nghèo,....
Du lịch
sửaDo đặc điểm tự nhiên, Cà Mau là tỉnh cuối cùng nơi cực Nam Tổ quốc, Mũi Cà Mau có cột mốc tọa độ quốc gia nên du lịch địa lý rất hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Với 2 hệ sinh thái rừng ngập mặn, ngập lợ đan xen giữa những rừng cây là những dòng sông uốn lượn, từng là điểm mở đường Hồ Chí Minh trên biển (bến Vàm Lũng, huyện Ngọc Hiển); nơi chứng kiến, tiễn đưa những đứa con miền Nam tập kết ra Bắc, mang theo cây vú sữa miền Nam gởi tặng Bác Hồ (cửa sông Ông Đốc, huyện Trần Văn Thời); những dòng sông với nhiều chiến công hiển hách (Tam Giang, Cái Lớn, Cái Tàu, sông Ông Đốc, Đầm Dơi).
Dưới tán rừng là những đầm tôm, ruộng lúa cùng các vườn cây ăn trái, sân chim tự nhiên, với nhiều loại chim quý hiếm,... tạo nên các tuyến du lịch sinh thái hấp dẫn. Các đảo Hòn Khoai, Hòn Chuối, Hòn Đá Bạc, Hòn Buông, bãi Khai Long,... là những nơi còn giữ được vẻ đẹp nguyên thủy của tự nhiên.
Ngoài ra, Cà Mau còn có nhiều di tích lịch sử cấp Quốc gia, cấp tỉnh; nhiều lễ hội truyền thống như lễ hội nghinh Ông, vía Bà, đua ghe ngo,... mang đậm bản sắc văn hoá của 3 dân tộc anh em Kinh – Hoa – Khmer.
Về Cà Mau du khách còn nghe kể chuyện Bác Ba Phi, đơn ca tài tử, đi thuyền trên sông nước, thưởng thức những món ăn đặc sản của rừng, của biển,...
Giao thông
sửaĐường bộ
sửaTỉnh Cà Mau có Quốc lộ 1, Quốc lộ 63, đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông và Quốc lộ Quản Lộ – Phụng Hiệp nằm cách Thành phố Hồ Chí Minh 380 km và thành phố Cần Thơ 180 km. Từ Thành phố Cà Mau có thể đi lại các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long dễ dàng. Các sông lớn như sông Bảy Háp, sông Gành Hào, sông Đốc, sông Trẹm,... rất thuận tiện cho giao thông đường thủy đi lại khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh
Đường thủy
sửaCảng Năm Căn là cảng quan trọng trong hệ thống cảng ở đồng bằng sông Cửu Long. Cảng được đầu tư xây dựng ở vị trí vòng cung đường biển của vùng Đông Nam Á. Cảng Năm Căn có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng giao thương với các nước trong vùng như: Singapore, Indonesia, Malaysia,... Hiện nay, năng lực hàng hóa thông qua cảng trên 10.000 tấn/năm.
Đường hàng không
sửaCảng hàng không Cà Mau là sân bay vệ tinh, trực thuộc Cụm cảng Hàng không miền Nam. Đây là sân bay hàng không dân dụng cấp 4C có khả năng tiếp nhận các loại máy bay như ATR-72, AN-2, MI-17, Airbus A220, KingAir B200 và các loại máy bay khác có trọng tải cất cánh tương đương.
Tỉnh kết nghĩa
sửaỞ Ninh Bình có các công trình phục vụ phát triển kinh tế xã hội mang tên các địa danh của tỉnh Cà Mau như: rạp Kim Mau, cống Tân Hưng, cống Biện Nhị, đường Cà Mau, sông Cà Mau, cầu Cà Mau, trạm bơm Rạch Ráng, cầu Chà Là, đê Năm Căn.[33]
Ở Cà Mau có khoảng 100.000 người quê gốc ở Ninh Bình đang sinh sống. Ban Liên lạc đồng hương Ninh Bình tại Cà Mau họp mặt mỗi năm 1 lần. Trường Nội trú Cà Mau - Ninh Bình được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân vì "Đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước".[34]
Hình ảnh
sửa-
Thành phố Cà Mau nhìn từ trên cao
-
Nhà ga sân bay TP. Cà Mau
-
Kênh Xáng Cà Mau đi Bạc Liêu
-
Chợ Cái Nước
-
Thị trấn Thới Bình
-
Thị trấn Đầm Dơi
-
Chợ Năm Căn
-
Thị trấn Sông Đốc
-
Cư dân ấp Đá Bạc
-
Tượng đài mũi Cà Mau
Chú thích
sửa- ^ a b Sắc lệnh số 32-VN về việc thành lập tỉnh Cà Mau trên cơ sở sáp nhập quận Cà Mau, quận Quảng Xuyên và 4 xã thuộc quận Giá Rai (Định Thành, Hòa Thành, Tân Thành, Phong Thạnh Tây) của tỉnh Bạc Liêu. Đặt tỉnh lỵ của tỉnh Cà Mau tại Cà Mau.
- ^ a b "Nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh". Thư viện pháp luật. ngày 6 tháng 11 năm 1996.
- ^ a b c "Nghị quyết số 202/2025/QH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh". Cổng thông tin điện tử Quốc hội Việt Nam. ngày 12 tháng 6 năm 2025. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2025. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2025.
- ^ a b c Thành Chung (ngày 13 tháng 5 năm 2025). "Chi tiết dự kiến quy mô dân số, diện tích, kinh tế của 34 tỉnh, thành sau sáp nhập". Tuổi Trẻ Online. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 5 năm 2025. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2025.
- ^ a b "Đơn vị hành chính". danhmuchanhchinh.gso.gov.vn.
- ^ "Cà Mau làm giàu nhờ biển, vươn lên từ biển". Báo Nhân Dân. ngày 1 tháng 2 năm 2025. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2025.
- ^ Thanh Huyền (ngày 10 tháng 11 năm 2024). "Cà Mau rừng ngập mặn và cảnh quan tuyệt đẹp nhìn từ trên cao". Tuổi Trẻ Online. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2025.
- ^ Ngữ nguyên: តឹក (n) [tək]: kho lúa, vựa, nhà kho, ខ្មៅ (adj) [kmav]: màu đen.
- ^ "Mũi Cà Mau vì đâu bị bào mòn?". Báo điện tử Tiền Phong. ngày 14 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2025.
- ^ a b Cà Mau là vùng đất thấp, thường xuyên bị ngập nước. Hiện nay đang có hiện tượng bồi lở ở cả hai phía biển Đông và Tây, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ.
- ^ "Khí hậu". Cổng Thông tin Điện tử tỉnh Cà Mau. ngày 26 tháng 3 năm 2025. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2025.
- ^ "Khám phá bí ẩn 'Hòn Đá Lẻ - Điểm A2'". ngày 4 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2020.
- ^ Nghị định về việc đổi tên gọi tiểu khu (arrondissement) hay hạt tham biện là đơn vị hành chính ở Nam Kỳ thành tỉnh (province), đổi tên đại lý thành quận quy định kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 và phân chia thành 3 miền: miền Đông, miền Trung, miền Tây với gồm 20 tỉnh.
- ^ Sắc lệnh số 143-NV để “thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam”. Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập.
- ^ An Xuyên chính là tên của làng sở tại trước kia thuộc tổng Quản Long, vốn là nơi đặt quận lỵ quận Cà Mau trước năm 1956.
- ^ "Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh". ngày 20 tháng 9 năm 1975. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2025. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Nghị quyết số 19/NQ về việc điều chỉnh việc hợp nhất một số tỉnh ở miền Nam". Trung tâm Lưu trữ quốc gia I. ngày 20 tháng 12 năm 1975. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2025. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2025.
- ^ "Nghị định số 3/NQ/1976 về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam". Trung tâm Lưu trữ quốc gia I. ngày 24 tháng 2 năm 1976. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2025. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2025.
- ^ "Quyết định 75-HĐBT năm 1984 về việc phân vạch địa giới một số huyện, thị xã thuộc tỉnh Minh Hải". Thư viện pháp luật. ngày 17 tháng 5 năm 1984.
- ^ "Quyết định số 170-HĐBT năm 1984 về việc chuyển tỉnh lỵ tỉnh Minh Hải về thị xã Cà Mau do". Thư viện pháp luật. ngày 18 tháng 12 năm 1984.
- ^ "Nghị định số 21/1999/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Cà Mau thuộc tỉnh Cà Mau". Thư viện pháp luật. ngày 14 tháng 4 năm 1999.
- ^ "Nghị định số 138/2003/NĐ-CP về việc thành lập các huyện Năm Căn và Phú Tân, tỉnh Cà Mau". Thư viện pháp luật. ngày 17 tháng 11 năm 2003.
- ^ "Quyết định số 1373/QĐ-TTg năm 2010 về việc công nhận thành phố Cà Mau là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Cà Mau". Thư viện pháp luật. ngày 6 tháng 8 năm 2010.
- ^ "Quyết định 891/QĐ-TTg về việc công nhận xã An toàn khu thuộc tỉnh Cà Mau". ngày 26 tháng 7 năm 2022. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2022.
- ^ "Nghị quyết số 1655/NQ-UBTVQH15 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Cà Mau năm 2025". Cổng thông tin điện tử Quốc hội Việt Nam. ngày 16 tháng 6 năm 2025. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2025. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2025.
- ^ Từ đầu năm 2012 đến ngày 30 tháng 1 năm 2013, thu ngân sách được 309 tỷ đồng, đạt 6,2% dự toán năm, bằng 90,2% so với cùng kỳ., Website Tỉnh Cà Mau.
- ^ "BỆNH VIỆN SẢN NHI CÀ MAU". bvsannhicamau.vn.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênTCM2019
- ^ Tổng cục Thống kê (ngày 5 tháng 5 năm 2021). Niên giám tổ chức ngành Thống kê năm 2021: 63. Cục Thống kê tỉnh Cà Mau – Dân số tỉnh Cà Mau tính đến ngày 31/12/2020 (PDF). Tổng cục Thống kê. tr. 426.
{{Chú thích sách}}
: Quản lý CS1: năm (liên kết) - ^ Dân số trung bình phân theo địa phương qua các năm, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
- ^ HĐND tỉnh Cà Mau (ngày 28 tháng 4 năm 2025). "Nghị quyết số 15/NQ-HĐND về việc tán thành chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Cà Mau năm 2025" (PDF). HĐND tỉnh Cà Mau. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2025. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2025.
- ^ "Ninh Bình và Cà Mau ký kết Bản ghi nhớ hợp tác". nbtv.vn. Đài Phát thanh và Truyền hình Ninh Bình.
- ^ Phạm Giang (ngày 11 tháng 7 năm 2013). "Những công trình mang nặng nghĩa tình Ninh Bình – Bạc Liêu". Sở Du lịch tỉnh Ninh Bình. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2017.
- ^ Nhà giáo Ưu tú Nguyễn Thành Đa (ngày 25 tháng 4 năm 2016). "Nhớ mãi một mái trường". Đất Mũi Online. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2017.