Bùi Tuấn (nhà Nguyễn)

Bùi Tuấn (1808-1872) là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.

Năm sinh và gia thế[1] sửa

Theo gia phả họ Bùilàng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, Hà Nội do tổ tiên họ Bùi để lại cùng với các tài liệu sau:

thì Bùi Tuấn sinh năm Mậu Thìn (1808) niên hiệu Gia Long thứ chín

Tổ tiên họ Bùi ở Liên Bạt, theo gia phả, trước Bùi Tuấn mười đời vốn là nông dân, sinh sống đạm bạc và cần kiệm. Đến đời thứ mười là Bùi Đình Nhuận tự là Đoan Khiết và cụ bà là Tư Tường sinh ra Bùi Tuấn[2].

Cuộc đời sửa

Thời trẻ sửa

Từ tuổi ấu thơ, Bùi Tuấn đã chăm chỉ miệt mài đèn sách. Ông thường mang sách ra chùa làng học nhờ cho yên tĩnh[2].

Năm 17 tuổi, Bùi Tuấn thi đỗ sinh đồ những chật vật mãi, ba khóa tiếp vẫn chỉ đỗ được như thế.

Bùi Tuấn vẫn kiên trì dùi mài kinh sử. Đến năm Minh Mạng thứ 21 (1840), ông đỗ Giải nguyên. Ngay năm sau, ông đỗ đồng tiến sĩ xuất thân. Sau khi đỗ Tiến sĩ, ông lấy tên tự là Trạch, hiệu là Khắc Trai.

Sự nghiệp sửa

Hoạn lộ sửa

Trong thời gian từ 1841-1858, Bùi Tuấn làm nhiều chức vụ trong triều đình nhà Nguyễn.

Từ năm 1858, ông bắt đầu thực hiện công việc quốc gia ở các tỉnh phía Bắc.

Tháng 3 năm 1869, Đề đốc Phùng Tử Tài, người nhà Thanh, đem đại binh ra cửa ải Nam Quan để hợp với quân ta để tiễu phỉ. Quân nhà Nguyễn được điều động với số lượng rất lớn mà dân công vận tải lương thực, vũ khí có hạn. Tổng đốc Vũ Trọng Bình xin triều đình lấy dân phu các hạt, tỉnh miền Bắc giải hộ mỗi tháng thay đổi một lần, tức là thay phiên. Giải pháp này xem ra chưa phải là thượng sách[3].

Trước tình hình đó, Bùi Tuấn đã dân sớ tấu vua:

Tự Đức đồng ý. Sáng kiến trên đã đỡ cho 8000 dân công Nam Định, Hải Dương, Hà Nội, Hưng Yên, Bắc Ninh đỡ vất vả. Đó là một hành động vì nước thương dân của Bùi Tuấn.

Đánh dẹp sửa

Đầu mục thổ phỉ Trung Quốc tên Ngô Côn xuất đồ đảng tiến xuống sông Hồng, vây thành Bắc Ninh. Bùi Tuấn đã chỉ huy quân đánh trả. Khi thám báo của ta phát hiện chỗ đóng quân của Ngô Côn, Bùi Tuấn đã cho thần công (dân gian gọi là ông Ầm) bắn vào cho giặc đóng. Ngô Côn trúng đạn chết tại trận. Đồ đảng tan rã rút về biên giới Việt-Trung[3].

Năm Canh Ngọ (1870), quân nổi dậy từ biên giới do bè đảng của Tô Tú kéo về đánh úp thành Lạng Sơn. Triều đình Huế điều Tổng đốc Vũ Trọng Bình, Tuần phủ Lạng Sơn là Đắc Khoái dưới quyền chỉ huy của Tổng đốc Ninh-Thái Bùi Tuấn dẹp[4]. "Quân ta bắt được hai tướng giặc là Phó đề đốc Đỗ ChuyênNguyễn Nhiếp đem xử tại trân để uy hiếp địch" (Báo Quân đội Nhân dân số ra ngày 21 tháng 3 năm 1992).

Qua đời sửa

Tháng 2 năm Nhâm Thân (1872) do lao tâm trí lực, ở tuổi 64, Bùi Tuấn xin cáo quan về hưu. Triều đình Huế còn do dự thì 1 tháng sau ông qua đời vào ngày 1 tháng 3 âm lịch, tức là ngày 8 tháng 4 tại nhiệm sở[5].

Nghe tin ông mất, vua Tự Đức và các quan trong triều đình xúc động, thương tiếc. Bản dụ của Tự Đức có viết:

Theo sắc dụ của vua Tự Đức, linh cữu của Bùi Tuấn được đưa về quâ hương ông ở Liên Bạt, lúc đó thuộc tỉnh Hà Nôi. Mộ ông được đặt tại cánh đồng ngô. So với các lăng mộ thời trước, mộ vị Tổng đốc được truy tặng Thái tử Thiên bảo này thật giản dị: Không có voi chầu, ngựa phục, lính canh,... Phần mộ chỉ xây gạch cao 0,4 mét so với mặt ruộng. Mộ ông chỉ khác mộ dân thường cách đó không xa là phía trước mộ cá nhà bia. Nhà bia xây vuông 4 mét*4 mét, cao 6 mét băng gạch nung, cuốn vòm hai tần tám mái. Phần cổ diêm nhà bia khác chữ Hán ca ngợi thân thế, sự nghiệp của Bùi Tuấn.

Nghi vấn[6] sửa

Theo Đại Nam liệt truyện, không có ghi chép nào của các sử quan triều Nguyễn chép ông với các cuộc khởi nghĩa nông dân.

Theo nhà sử học Hoa Bằng trong chuyện luận "Chống nhà nước phong kiến dưới triều Nguyễn", đăng trên tạp chí nghiên cứu lịch sử (tháng 1 năm 1967) thì ở Thái NguyênLê Văn ThànhDoãn Văn Đắc khởi binh. Ở Bắc Ninh có Nguyễn VănLê Nghiêm cử sự. Tiếp đó có bọn giặc Tàu Tam Đường và giặc Tàu Hoàng Sùng Anh, bọn chúng đều khởi sự vào năm Tân Hợi (1851), Tân Dậu (1861) và Ất Sửu (1865) là những năm cũng có các cuộc khởi nghĩa trên. Lúc này Bùi Tuần vẫn giữ vị trí quan văn ở triều đình và vừa đến Ninh-Thái nhận chức.

Các cuộc khởi nghĩa của Cai Vàng (1862-1864) nổi lên rất ác liệt ở vùng núi rừng Yên Thế, đánh sang Bắc Ninh và Tuyên Quang. Triều đình phải cử nhiều viên tướng đến đàn áp. Đó là Trương Quốc Dụng, Lê Xuân. Theo Hoa Bằng, trận cuối cùng của đội quân Cai Vàng thất bại dưới tay của Đội Hến. Đó là tháng 8 năm Quý Hợi (1863). Vợ của Cai Vàng tiếp tục lãng đạo nghĩa quân thêm một năm, rồi khởi nghĩa tan rã. Đó là lúc Bùi Tuấn đến nhận chức quyền chưởng Ninh-Thái Tổng đốc quan phòng. Ông không tham gia đàn áp cuộc khởi nghĩa này.

Ca ngợi[7] sửa

Đại Nam chính biên liệt truyện sửa

Trong Nhị thập và Tam thập tam quyển của bộ sử này có viết:

Bài văn bia ở quê nhà sửa

Bài văn bia này do Dương LâmLê Đăng Nẫm. Một đoạn được viết như sau:

Biên niên sử[8] sửa

Triều vua Năm dương lịch Sự kiện
Gia Long 1808 Ra đời
Minh Mạng 1825 Đỗ sinh đồ
Minh Mạng 1828 Đỗ sinh đồ
Minh Mạng 1831 Đỗ sinh đồ
Minh Mạng 1837 Đỗ sinh đồ
Minh Mạng 1840 Đỗ Giải nguyên
Thiệu Trị 1841 Đỗ đồng tiến sĩ xuất thân
Thiệu Trị 1841 Được bổ làm biên tu Hàn lâm viện
Thiệu Trị 1842 Ủy viên ban khánh tiết của triều đình
Thiệu Trị 1846 Tri phủ Thọ Xuân
Thiệu Trị 1847 Khoa đạo viên ngoại lang
Thiệu Trị 1847 Binh bộ khảo công ty viên ngoại lang
Tự Đức 1848 Phân khảo trường thi Hương Nam Định
Tự Đức 1849 Tập hiền viên thị tộc
Tự Đức 1850 Thị giảng học sĩ, chủ khảo trường thi Hương Nghệ An
Tự Đức 1851 Chấp sự bồi tự kỳ lễ cuân thu tại Phú Xuân
Tự Đức 1851-1854 Chịu tang cha
Tự Đức 1854 Thị độc học sĩ, lục bộ lamg trung
Tự Đức 1855 Giám khảo thi Hương tại kinh đô Huế
Tự Đức 1855 Soạn sách Vịnh sử phú
Tự Đức 1858 Tổng đốc Sơn Tây. Được thưởng một đồng Phi long đại kim tiền vì có công chỉ đạo làm đê kiên cố
Tự Đức 1859 Quang Lộc Tự khanh, Bố chánh sứ tỉnh Bắc Ninh
Tự Đức 1860 Quyền trưởng Ninh-Thái tổng đốc quan phòng
Tự Đức 1865 Được thưởng Tử kim khánh có khắc bốn chữ "Liêm bình cần cán"
Tự Đức 3-1868 Tổng đốc Ninh-Thái (Bắc Ninh-Thái Nguyên)
Tự Đức 6-1869 Sáng kiến tải lương
Tự Đức 7-1869 Diệt Ngô Côn. Phố hơp với Phùng Tử Tài tiễu phỉ. Sai Tần lý Ông Ích Khiêm phối hợp giữ thành Bắc Ninh
Tự Đức 1870 Tháng 5 dẹp xong Tô Tú. Về quê
Tự Đức 1871 Ốm nặng
Tự Đức 1872 Mất

Con cháu sửa

Bùi Tuấn là người khai khoa của dòng họ Bùi ở Liên Bạt. Con cháu ông nối tiếp nghiệp Nho có[1]:

Nhận định sửa

Sinh ra, lớn lên và phục vụ trong 4 đời vua nhà Nguyễn, lúc thịnh, lúc suy lại bị giặc ngoại xâm đô hộ. Cuộc đời của Bùi Tuấn thật vất vả, gian nan. Nhưng Bùi Tuấn xứng đáng là một sĩ phu xứng đáng được người đời tôn trọng, một ngôi sao sáng của dòng họ Bùi và của cả sĩ phu thời Nguyễn[9].

Chú thích sửa

  1. ^ a b Một số vấn đề Văn hiến Hà Tây, truyền thống và hiện đại, Sở Văn hóa-Thông tin Hà Tây, Trung tâm bảo tồn và phát huy nghệ thuật dân tộc, xuất bản năm 2004, trang 245
  2. ^ a b Một số vấn đề Văn hiến Hà Tây, truyền thống và hiện đại, Sở Văn hóa-Thông tin Hà Tây, Trung tâm bảo tồn và phát huy nghệ thuật dân tộc, xuất bản năm 2004, trang 246
  3. ^ a b Một số vấn đề Văn hiến Hà Tây, truyền thống và hiện đại, Sở Văn hóa-Thông tin Hà Tây, Trung tâm bảo tồn và phát huy nghệ thuật dân tộc, xuất bản năm 2004, trang 251
  4. ^ Một số vấn đề Văn hiến Hà Tây, truyền thống và hiện đại, Sở Văn hóa-Thông tin Hà Tây, Trung tâm bảo tồn và phát huy nghệ thuật dân tộc, xuất bản năm 2004, trang 251, 252
  5. ^ Một số vấn đề Văn hiến Hà Tây, truyền thống và hiện đại, Sở Văn hóa-Thông tin Hà Tây, Trung tâm bảo tồn và phát huy nghệ thuật dân tộc, xuất bản năm 2004, trang 252, 253
  6. ^ Một số vấn đề Văn hiến Hà Tây, truyền thống và hiện đại, Sở Văn hóa-Thông tin Hà Tây, Trung tâm bảo tồn và phát huy nghệ thuật dân tộc, xuất bản năm 2004, trang 252
  7. ^ Một số vấn đề Văn hiến Hà Tây, truyền thống và hiện đại, Sở Văn hóa-Thông tin Hà Tây, Trung tâm bảo tồn và phát huy nghệ thuật dân tộc, xuất bản năm 2004, trang 253, 254
  8. ^ Một số vấn đề Văn hiến Hà Tây, truyền thống và hiện đại, Sở Văn hóa-Thông tin Hà Tây, Trung tâm bảo tồn và phát huy nghệ thuật dân tộc, xuất bản năm 2004, trang 246, 247
  9. ^ Một số vấn đề Văn hiến Hà Tây, truyền thống và hiện đại, Sở Văn hóa-Thông tin Hà Tây, Trung tâm bảo tồn và phát huy nghệ thuật dân tộc, xuất bản năm 2004, trang 255