I-57, sau đổi tên thành I-157, là một tàu ngầm tuần dương Lớp Kaidai thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó đã hỗ trợ cho các chiến dịch xâm chiếm MalayaĐông Ấn thuộc Hà Lan vào cuối năm 1941 và đầu năm 1942, rồi trong trận Midway vào tháng 6, 1942. Con tàu sau đó chủ yếu phục vụ cho việc huấn luyện, ngoại trừ một giai đoạn tham gia Chiến dịch quần đảo Aleut vào năm 1943, và đến năm 1945 được cải biến thành tàu chở ngư lôi tự sát Kaiten trước khi đầu hàng lực lượng Đồng Minh vào cuối chiến tranh. Nó bị đánh chìm vào năm 1946.

Tàu chị em I-56 trong cảng, năm 1930
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi I-57
Xưởng đóng tàu Xưởng vũ khí Hải quân Kure, Kure
Đặt lườn 8 tháng 7, 1927
Hạ thủy 1 tháng 10, 1928
Hoàn thành 24 tháng 12, 1929
Nhập biên chế 24 tháng 12, 1929
Xuất biên chế 15 tháng 11, 1930
Tái biên chế 14 tháng 11, 1931
Xuất biên chế 1 tháng 6, 1932
Tái biên chế 5 tháng 10, 1932
Xuất biên chế 22 tháng 10, 1934
Tái biên chế 15 tháng 11, 1935
Xuất biên chế 7 tháng 1, 1937
Tái biên chế 1 tháng 1, 1938
Xuất biên chế 5 tháng 12, 1938
Tái biên chế tháng 8, 1939 hoặc 1 tháng 9, 1939
Đổi tên I-157, 20 tháng 5, 1942
Số phận
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu tàu ngầm lớp Kaidai (Kiểu IIIB)
Trọng tải choán nước
  • 1.800 tấn Anh (1.829 t) (nổi)
  • 2.300 tấn Anh (2.337 t) (ngầm)
Chiều dài 101 m (331 ft 4 in)
Sườn ngang 8 m (26 ft 3 in)
Mớn nước 4,90 m (16 ft 1 in)
Công suất lắp đặt
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 10.000 nmi (19.000 km) ở tốc độ 10 kn (19 km/h; 12 mph) (nổi)
  • 90 nmi (170 km) ở tốc độ 3 kn (5,6 km/h; 3,5 mph) (ngầm)
Độ sâu thử nghiệm 60 m (200 ft)
Thủy thủ đoàn tối đa 60 sĩ quan và thủy thủ
Vũ khí

Thiết kế và chế tạo sửa

Thiết kế sửa

Phân lớp tàu ngầm Kaidai IIIB là sự lặp lại thiết kế của phân lớp Kaidai IIIA dẫn trước, chỉ có những cải tiến nhỏ để giúp đi biển tốt hơn. Chúng có trọng lượng choán nước 1.800 tấn Anh (1.829 t) khi nổi và 2.300 tấn Anh (2.337 t) khi lặn, lườn tàu có chiều dài 101 m (331 ft 4 in), mạn tàu rộng 8 m (26 ft 3 in) và mớn nước sâu 4,90 m (16 ft 1 in). Con tàu có thể lặn sâu 60 m (197 ft) và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 60 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel 3.400 mã lực phanh (2.535 kW), mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện 900 mã lực (671 kW). Con tàu có thể đạt tốc độ tối đa 20 hải lý trên giờ (37 km/h; 23 mph) khi nổi và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph)khi lặn. Khi Kaidai IIIB di chuyển trên mặt nước nó đạt tầm xa hoạt động 10.000 hải lý (19.000 km; 12.000 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph), và có thể lặn xa 90 nmi (170 km; 100 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[2]

Lớp Kaidai IIIA có tám ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), gồm sáu ống trước mũi và hai ống phía đuôi; mỗi ống mang theo một quả ngư lôi nạp lại, nên mang tổng cộng 16 ngư lôi. Chúng cũng trang bị một 120 mm (4,7 in)/45 caliber trên boong tàu.[3]

Chế tạo sửa

I-57 được đặt lườn tại Xưởng vũ khí Hải quân KureKure, Hiroshima vào ngày 8 tháng 7, 1927.[4][5] Nó được hạ thủy vào ngày 1 tháng 10, 1928, [4][5] rồi hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 24 tháng 12, 1929.[1][4][5]

Lịch sử hoạt động sửa

1929 - 1941 sửa

Khi nhập biên chế, I-57 được phân về Quân khu Hải quân Kure,[4][5] và gia nhập Đội tàu ngầm 19, phối thuộc cùng Hải đội Tàu ngầm 2, trực thuộc Đệ Nhị hạm đội, nằm trong thành phần Hạm đội Liên hợp.[4][5] Nó được đưa về thành phần dự bị tại Kure vào ngày 15 tháng 11, 1930,[4][5] nhưng quay trở lại phục vụ vào ngày 14 tháng 11, 1931,[4][5] và đến ngày 1 tháng 12, Đội tàu ngầm 19 được điều động sang Đội phòng thủ Kure trực thuộc Quân khu Hải quân Kure.[4]

Vào ngày 20 tháng 5, 1932, Đội tàu ngầm 19 lại được phối thuộc cùng Hải đội Tàu ngầm 2 thuộc Đệ Nhị hạm đội,[4] nhưng đến ngày 1 tháng 6, 1932 I-57 lại được đưa về thành phần dự bị tại Kure.[4][5] Quay trở lại phục vụ từ ngày 5 tháng 10, 1932,[4][5] I-57 đã cùng với các tàu ngầm khác thuộc Đội tàu ngầm 19: I-56I-58, và Đội tàu ngầm 18 bao gồm các chiếc I-53, I-54I-55, khởi hành từ Sasebo vào ngày 29 tháng 6, 1933 cho một đợt huấn luyện ngoài khơi Trung QuốcMã Công thuộc quần đảo Bành Hồ, và khi kết thúc đã đi đến Cao Hùng, Đài Loan vào ngày 5 tháng 7, 1933.[4][6][7][8][9][10] Họ rời Cao Hùng vào ngày 13 tháng 7 để tiếp tục huấn luyện tại vùng biển Trung Quốc rồi quay trở lại vịnh Tokyo vào ngày 21 tháng 8.[4][6][7][8][9][10] Đến ngày 25 tháng 8, cả sáu chiếc tàu ngầm đều đã tham gia cuộc duyệt binh hạm đội tại Yokohama.[4][6][7][8][9][10]

Vào ngày 27 tháng 9, 1934, I-57 rời Ryojun, Mãn Châu để cùng các đồng đội thuộc Đội tàu ngầm 19 I-56, I-58, và các tàu ngầm I-61, I-62, I-64, I-65, I-66I-67 thực hiện chuyến đi huấn luyện ngoài khơi Thanh Đảo, Trung Quốc. Sau khi hoàn tất, cả chín chiếc tàu ngầm đều quay về Sasebo, Nhật Bản vào ngày 5 tháng 10, 1934.[4][9][10][11][12][13][14][15][16] I-57 lại được đưa về thành phần dự bị tại Kure vào ngày 22 tháng 10, 1934,[4][5] rồi Đội tàu ngầm 19 lại được điều động về Hải đội Phòng vệ Kure trực thuộc Quân khu Hải quân Kure từ ngày 15 tháng 11, 1934.[4]

I-57 trở lại phục vụ cùng Đội tàu ngầm 19 vào ngày 15 tháng 11, 1935,[4][5] đúng vào ngày đơn vị này lại được phối thuộc cùng Hạm đội Liên hợp, lần này trong đội hình Hải đội Tàu ngầm 1 trực thuộc Đệ Nhất hạm đội.[4] Đến ngày 1 tháng 12, 1936, Đội tàu ngầm 19 được điều về Quân khu Hải quân Kure,[4] rồi được đưa về Hạm đội Dự bị 1 từ ngày 7 tháng 1, 1937.[4] Đơn vị này quay trở lại phục vụ cùng quân khu vào ngày 1 tháng 1, 1938,[4] rồi được đưa về Hạm đội Dự bị 3 từ ngày 15 tháng 12, 1938.[4] I-57 nằm trong thành phần dự bị tại Kure cùng vào ngày này.[4][5]

Một lần nữa I-57 trở lại phục vụ cùng Đội tàu ngầm 19 vào tháng 8[4] hoặc ngày 1 tháng 9, 1939,[5] và đơn vị này phối thuộc cùng Hải đội Tàu ngầm 4 thuộc Đệ Nhất hạm đội vào ngày 15 tháng 11, 1939.[4] Hải đội được phối thuộc trực tiếp cùng Hạm đội Liên Hợp vào ngày 15 tháng 11, 1940.[4]

1941 - 1942 sửa

Tham khảo sửa

Chú thích sửa

  1. ^ a b Carpenter & Polmar 1986, tr. 93
  2. ^ Chesneau 1980, tr. 198
  3. ^ Bagnasco 1977, tr. 183
  4. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa “I-157”. ijnsubsite.com. 16 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2024.
  5. ^ a b c d e f g h i j k l m Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (1 tháng 5 năm 2017). “IJN Submarine I-157: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2024.
  6. ^ a b c “I-153”. ijnsubsite.com. 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2022.
  7. ^ a b c “I-154”. ijnsubsite.com. 11 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2022.
  8. ^ a b c “I-155”. ijnsubsite.com. 10 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2022.
  9. ^ a b c d “I-156”. ijnsubsite.com. 15 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2022.
  10. ^ a b c d “I-158”. ijnsubsite.com. 20 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2022.
  11. ^ “I-61”. ijnsubsite.com. 24 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2022.
  12. ^ “I-162 ex I-62”. iijnsubsite.info. 9 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
  13. ^ “I-164 ex I-64”. iijnsubsite.info. 9 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
  14. ^ “I-165 ex I-65”. iijnsubsite.info. 11 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
  15. ^ “I-166 ex I-66”. iijnsubsite.info. 30 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
  16. ^ “I-67”. ijnsubsite.com. 14 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2022.

Thư mục sửa

Liên kết ngoài sửa