I-59, sau đổi tên thành I-159, là một tàu ngầm tuần dương Lớp Kaidai thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó đã thực hiện ba chuyến tuần tra rồi tham gia trong trận Midway vào tháng 6, 1942. Con tàu sau đó chủ yếu phục vụ cho việc huấn luyện, và đến đầu năm 1945 được cải biến thành tàu chở ngư lôi tự sát Kaiten trước khi đầu hàng lực lượng Đồng Minh vào cuối chiến tranh. Nó bị đánh chìm vào năm 1946.

Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi I-59
Xưởng đóng tàu Xưởng vũ khí Hải quân Yokosuka, Yokosuka
Đặt lườn 25 tháng 3, 1927
Hạ thủy 25 tháng 3, 1929
Hoàn thành 31 tháng 3, 1930
Nhập biên chế 31 tháng 3, 1930
Xuất biên chế 15 tháng 11, 1933
Tái biên chế 1934
Xuất biên chế tháng 11, 1936
Tái biên chế 1937
Đổi tên I-159, 20 tháng 5, 1942
Xóa đăng bạ 30 tháng 11, 1945
Số phận Bị đánh đắm, 1 tháng 4, 1946
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu tàu ngầm lớp Kaidai (Kiểu IIIB)
Trọng tải choán nước
  • 1.800 tấn Anh (1.829 t) (nổi)
  • 2.300 tấn Anh (2.337 t) (ngầm)
Chiều dài 101 m (331 ft 4 in)
Sườn ngang 8 m (26 ft 3 in)
Mớn nước 4,90 m (16 ft 1 in)
Công suất lắp đặt
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 10.000 nmi (19.000 km) ở tốc độ 10 kn (19 km/h; 12 mph) (nổi)
  • 90 nmi (170 km) ở tốc độ 3 kn (5,6 km/h; 3,5 mph) (ngầm)
Độ sâu thử nghiệm 60 m (200 ft)
Thủy thủ đoàn tối đa 60 sĩ quan và thủy thủ
Vũ khí

Thiết kế và chế tạo sửa

Thiết kế sửa

Phân lớp tàu ngầm Kaidai IIIB là sự lặp lại thiết kế của phân lớp Kaidai IIIA dẫn trước, chỉ có những cải tiến nhỏ để giúp đi biển tốt hơn. Chúng có trọng lượng choán nước 1.800 tấn Anh (1.829 t) khi nổi và 2.300 tấn Anh (2.337 t) khi lặn, lườn tàu có chiều dài 101 m (331 ft 4 in), mạn tàu rộng 8 m (26 ft 3 in) và mớn nước sâu 4,90 m (16 ft 1 in). Con tàu có thể lặn sâu 60 m (197 ft) và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 60 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel 3.400 mã lực phanh (2.535 kW), mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện 900 mã lực (671 kW). Con tàu có thể đạt tốc độ tối đa 20 hải lý trên giờ (37 km/h; 23 mph) khi nổi và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph)khi lặn. Khi Kaidai IIIB di chuyển trên mặt nước nó đạt tầm xa hoạt động 10.000 hải lý (19.000 km; 12.000 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph), và có thể lặn xa 90 nmi (170 km; 100 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[2]

Lớp Kaidai IIIA có tám ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), gồm sáu ống trước mũi và hai ống phía đuôi; mỗi ống mang theo một quả ngư lôi nạp lại, nên mang tổng cộng 16 ngư lôi. Chúng cũng trang bị một 120 mm (4,7 in)/45 caliber trên boong tàu.[3]

Chế tạo sửa

I-59 được đặt lườn tại Xưởng vũ khí Hải quân YokosukaYokosuka vào ngày 25 tháng 3, 1927.[4][5] Nó được hạ thủy vào ngày 25 tháng 3, 1929,[4][5] rồi hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 31 tháng 3, 1930.[1][4][5]

Lịch sử hoạt động sửa

1929 - 1941 sửa

Khi nhập biên chế, I-59 được phân về Quân khu Hải quân Kure và gia nhập Đội tàu ngầm 28.[4] Vào ngày 1 tháng 12, 1930, đơn vị này được điều động sang Hải đội Tàu ngầm 2, trực thuộc Đệ Nhị hạm đội, nằm trong thành phần Hạm đội Liên hợp. [4][5] Đội tàu ngầm 28 được thuyên chuyển sang Hải đội Tàu ngầm 1 trực thuộc Đệ Nhất hạm đội, cùng thuộc thành phần Hạm đội Liên hợp, vào ngày 1 tháng 12, 1932.[4] Đội được điều sang Đội Phòng vệ Sasebo thuộc Quân khu Hải quân Sasebo vào ngày 15 tháng 11, 1933, và I-59 được cho xuất biên chế và đưa về thành phần dự bị vào ngày hôm đó.[4][5] Đang khi nó ở trong thành phần dự bị, Đội tàu ngầm 28 được điều sang Đội Phòng vệ Sasebo thuộc Quân khu Hải quân Sasebo vào ngày 11 tháng 12, 1933.[4]

I-59 nhập biên chế trở lại trong năm 1934,[4][5] và vào ngày 15 tháng 11, 1934, Đội tàu ngầm 28 được điều trở lại Hải đội Tàu ngầm 2 trực thuộc Đệ Nhị hạm đội.[4] Vào ngày 7 tháng 2, 1935, I-59 khởi hành từ Sasebo cùng tám tàu ngầm khác thuộc Hải đội Tàu ngầm 2: I-53, I-54, I-55, I-60, I-61, I-62, I-63I-64, cho chuyến đi huấn luyện tại khu vực quần đảo Kuril.[4][6][7][8][9][10][11][12][13] Chuyến đi kết thúc khi họ đến vịnh Sukumo, Shikoku vào ngày 25 tháng 2, 1935.[4][6][7][8][9][10][11][12][13] Chín chiếc tàu ngầm đã rời Sasebo vào ngày 29 tháng 3, 1935 để huấn luyện tại vùng biển Trung Quốc, và quay trở lại Sasebo vào ngày 4 tháng 4, 1935.[4][6][7][8][9][10][11][12][13] Đến ngày 15 tháng 11, 1935, Đội tàu ngầm 28 được điều động sang Hải đội Tàu ngầm 1 trực thuộc Đệ Nhất hạm đội, nằm trong thành phần Hạm đội Liên hợp. [4] I-59 một lần nữa được cho xuất biên chế vào tháng 11, 1936.[5]

Nhập biên chế trở lại vào đầu năm 1937, I-59 cùng với I-60I-63 khởi hành từ Sasebo vào ngày 27 tháng 3, 1937 cho một chuyến đi huấn luyện ngoài khơi Thanh Đảo, Trung Quốc,[12] và kết thúc khi quay trở về vịnh Ariake vào ngày 6 tháng 4.[4][9][12] Đội tàu ngầm 28 được điều động sang Hải đội Phòng vệ Sasebo thuộc Quân khu Hải quân Sasebo vào ngày 1 tháng 12, 1937, [4] rồi quay trở lại cùng Hải đội Tàu ngầm 1 trực thuộc Đệ Nhất hạm đội vào ngày 15 tháng 12, 1938.[4] Từ ngày 6 đến ngày 29 tháng 1, 1941, I-60 tạm thời thay phiên cho I-59 trong vai trò soái hạm của Đội tàu ngầm 28; [5] và đến cuối năm 1941, nó tạm thời chuyển giao nhiệm vụ trên trước khi trở lại vai trò soái hạm của Đội tàu ngầm 28 vào ngày 3 tháng 12, 1941.[5]

1941 - 1942 sửa

Tham khảo sửa

Chú thích sửa

  1. ^ a b Carpenter & Polmar 1986, tr. 93
  2. ^ Chesneau 1980, tr. 198
  3. ^ Bagnasco 1977, tr. 183
  4. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q “I-159”. ijnsubsite.com. 1 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2024.
  5. ^ a b c d e f g h i Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (1 tháng 1 năm 2017). “IJN Submarine I-159: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2024.
  6. ^ a b c “I-153”. ijnsubsite.com. 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2022.
  7. ^ a b c “I-154”. ijnsubsite.com. 11 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2022.
  8. ^ a b c “I-155”. ijnsubsite.com. 10 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2022.
  9. ^ a b c d “I-60”. ijnsubsite.com. 1 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2022.
  10. ^ a b c “I-61”. ijnsubsite.com. 24 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2022.
  11. ^ a b c “I-162 ex I-62”. iijnsubsite.info. 9 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
  12. ^ a b c d e “I-63”. ijnsubsite.com. 24 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2021.
  13. ^ a b c “I-164 ex I-64”. iijnsubsite.info. 9 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.

Thư mục sửa

Liên kết ngoài sửa