Võ Văn Kiệt

thủ tướng Việt Nam từ 1991 đến 1997

Võ Văn Kiệt (23 tháng 11 năm 192211 tháng 6 năm 2008) tên thật Phan Văn Hòa, bí danh Sáu Dân, Chín Dũng, là nhà chính trị Việt Nam. Ông làm Thủ tướng Chính phủ thứ tư (trước kia là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 8 tháng 8 năm 1991 đến ngày 25 tháng 9 năm 1997. Ông được nhiều báo chí đánh giá là người đã đẩy mạnh công cuộc Đổi Mới và cải cách chính sáchViệt Nam kể từ năm 1986,[1][2] là "tổng công trình sư" nhiều dự án táo bạo của thời kỳ Đổi Mới.[3]

Võ Văn Kiệt
Thủ tướng Võ Văn Kiệt năm 1993
Chức vụ
Nhiệm kỳ29 tháng 12 năm 1997 – 22 tháng 4 năm 2001
3 năm, 114 ngày
Nhiệm kỳ9 tháng 8 năm 1991 – 25 tháng 9 năm 1997
6 năm, 47 ngày
Chủ tịch nướcVõ Chí Công (1987–1992)
Lê Đức Anh (1992–1997)
Tiền nhiệmĐỗ Mười
Kế nhiệmPhan Văn Khải
Nhiệm kỳ11 tháng 3 năm 1988 – 22 tháng 6 năm 1988
Chủ tịch Hội đồng Nhà nướcVõ Chí Công (1987–1992)
Tiền nhiệmPhạm Hùng
Kế nhiệmĐỗ Mười
Nhiệm kỳ1987 – 1991
Tiền nhiệmVõ Nguyên Giáp
Kế nhiệmMai Kỷ
Nhiệm kỳ23 tháng 4 năm 1982 – 9 tháng 8 năm 1991
9 năm, 108 ngày
Tiền nhiệmTố Hữu
Kế nhiệmPhan Văn Khải
Nhiệm kỳ23 tháng 4 năm 1982 – 10 tháng 5 năm 1988
Tiền nhiệmNguyễn Lam
Kế nhiệmĐậu Ngọc Xuân
Phó Chủ nhiệmĐậu Ngọc Xuân (thứ nhất)
Nhiệm kỳTháng 12, 1976 – Tháng 4, 1982
Tiền nhiệmNguyễn Văn Linh
Kế nhiệmNguyễn Văn Linh
Nhiệm kỳ21 tháng 1, 1976 – Tháng 1, 1977
Tiền nhiệmTrần Văn Trà (quân quản)
Kế nhiệmVũ Đình Liệu
Đại biểu Quốc hội khóa VI, VII, VIII, IX
Nhiệm kỳ25 tháng 4 năm 1976 – 20 tháng 7 năm 1997
21 năm, 86 ngày
Vị trí Việt Nam
Nhiệm kỳ31 tháng 3 năm 1982 – 29 tháng 12 năm 1997
15 năm, 273 ngày
Nhiệm kỳTháng 8, 1954 – Tháng 10, 1954
Tiền nhiệmUng Văn Khiêm
Kế nhiệmChâu Văn Đặng
Nhiệm kỳ10 tháng 9 năm 1960 – 29 tháng 12 năm 1997
37 năm, 110 ngày
Nhiệm kỳ1959 – Tháng 4, 1965
Tiền nhiệmTrần Quốc Thảo
Kế nhiệmNguyễn Văn Linh
Phó Bí thưNguyễn Hồng Đào
Đoàn Công Chánh
Nhiệm kỳ1966 – Tháng 10, 1967
Tiền nhiệmNguyễn Văn Linh
Kế nhiệmNguyễn Văn Linh
Nhiệm kỳTháng 8, 1968 – 1970
Tiền nhiệmNguyễn Văn Linh
Kế nhiệmTrần Bạch Đằng
Phó Bí thưTrần Bạch Đằng
Đoàn Công Chánh
Mai Chí Thọ
Thông tin chung
Sinh(1922-11-23)23 tháng 11, 1922
tỉnh Vĩnh Long, Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương
Mất11 tháng 6, 2008(2008-06-11) (85 tuổi)
Bệnh viện Mount Elizabeth, Singapore
Nơi ởThành phố Hồ Chí Minh
Dân tộcKinh
Tôn giáoPhật giáo
Đảng chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam
VợTrần Kim Anh (1932-1966)
Phan Lương Cầm (s.1943)
Con cái
  • Phan Chí Dũng (1951-1972)
  • Phan Hiếu Dân (s.1955)
  • Phan Thị Ánh Hồng (1958-1966)
  • Phan Chí Tâm (1966-1966)

Tiểu sử và hoạt động sửa

Võ Văn Kiệt tên thật là Phan Văn Hòa sinh năm 1922 tại ấp Bình Phụng, xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long, Việt Nam.[4]

Tham gia cách mạng từ năm 16 tuổi trong phong trào Thanh niên phản đế (1938), ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11 năm 1939. Trong thời gian Khởi nghĩa Nam Kỳ ông là Huyện ủy viên, Bí thư chi bộ tại huyện Vũng Liêm. Sau Cách mạng Tháng Tám, khi quân đội Pháp tái chiếm Nam Kỳ, Võ Văn Kiệt là Ủy viên chính trị dân quân cách mạng liên tỉnh Tây Nam Bộ. Từ năm 1946 đến năm 1954, ông là Tỉnh ủy viên, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Rạch Giá, sau đó là Phó Bí thư rồi Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu.

Sự nghiệp chính trị sửa

 
Gia đình của Võ Văn Kiệt. Vợ và hai con của ông đã bị giết bởi một cuộc tấn công bằng tên lửa của Hoa Kỳ vào năm 1966.

Võ Văn Kiệt là thành viên của phong trào độc lập Việt Minh, ông đã chiến đấu chống lại thực dân Pháp trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946–54) ở miền Nam Việt Nam. Theo Hiệp định Genève, các cán bộ cộng sản buộc phải tập trung tại miền Bắc Việt Nam, nhưng ông nằm trong số những người ở lại miền Nam, di chuyển giữa các căn cứ bí mật ở miền Đông Nam Bộ. Người vợ đầu tiên của ông, Trần Kim Anh, và hai người con của ông đã thiệt mạng trong một cuộc tấn công bằng tên lửa của lực lượng Hoa Kỳ vào năm 1966.

Sau Hiệp định Genève, năm 1955, Võ Văn Kiệt được bầu làm Ủy viên Xứ ủy Nam Bộ và Phó Bí thư liên Tỉnh ủy Hậu Giang. Từ năm 1959 đến cuối năm 1970, ông được giao trọng trách là Bí thư Khu ủy T.4, tức khu Sài Gòn - Gia Định. Ông bắt đầu được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương trong Ban Chấp hành Trung ương của Đảng Lao động Việt Nam từ Đại hội III (năm 1960) và là Ủy viên Trung ương Cục miền Nam năm 1961, chỉ huy các lực lượng cộng sản tại Sài Gòn và các vùng lân cận. Từ năm 1973 đến năm 1975 ông được điều về làm Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam. Sau khi lực lượng Cách mạng kiểm soát Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông đã lãnh đạo việc tiếp quản thành phố và năm 1976 được bổ nhiệm làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân (bí danh là Tỉnh trưởng) đồng thời là Phó Bí thư Thành ủy, cơ quan này đã được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh để tưởng nhớ vị lãnh tụ đã khuất.

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Võ Văn Kiệt được Trung ương Cục phân công giữ chức Bí thư Đảng ủy đặc biệt trong Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn. Từ năm 1976 ông làm Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Ông cũng đắc cử Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VI. Từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IV (năm 1976), ông được bầu làm Ủy viên Dự khuyết Bộ Chính trị và được phân công làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 1982.

Từ tháng 4 năm 1982 Võ Văn Kiệt được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước, Phó chủ tịch và Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng.

Từ ngày 10 tháng 3 đến ngày 22 tháng 6 năm 1988, ông được giao nhiệm vụ Quyền Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng sau khi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng qua đời đột ngột[5].

Ngày 11 tháng 3 năm 1988, thay mặt Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo ký thông báo về giữ Quyền Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đối với ông Võ Văn Kiệt. Sau đó khi đưa ra Quốc hội bỏ phiếu bầu chức danh Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông Đỗ Mười trúng cử, do đó ông vẫn làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

Từ năm 1987 đến năm 1991, ông làm Phó Thủ tướng kiêm Trưởng Ban Chỉ đạo Hướng dân sinh đẻ có kế hoạch, sau người tiền nhiệm là Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp.

Thủ tướng Chính phủ (1991 - 1997) sửa

Nhiệm kỳ một (1991 - 1992) sửa

Tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá VIII, ngày 8 tháng 8 năm 1991, Võ Văn Kiệt được Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (thay Đỗ Mười). Từ đây, dưới thời ông đã có nhiều quyết sách quan trọng về kinh tế của đất nước trong thời kỳ Đổi Mới.

Xây dựng đường dây 500 kV Bắc-Nam sửa

Ở vào thời điểm năm 1986, chủ trương đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thổi những luồng gió mới. Tuy nhiên, khu vực miền Nam và Thành phố Hồ Chí Minh - nơi có sự tiếp cận với công nghiệp sớm vẫn không thể tạo ra đột phá mạnh mẽ do điện thiếu trầm trọng bởi nguồn tại chỗ rất hạn hẹn, cắt điện luân phiên là chuyện thường ngày.

Quyết định xây dựng đường dây siêu cao áp 500kV Bắc - Nam nhằm truyền tải điện từ Bắc vào Nam, giúp miền Nam bớt cơn khát điện đã được Võ Văn Kiệt chính thức đặt ra với các lãnh đạo của Bộ Năng lượng trong một bữa cơm Tết năm 1991. Câu trả lời "Làm được" của Bộ trưởng Bộ Năng lượng Vũ Ngọc Hải một tuần sau đó cũng là khởi đầu cho hàng núi công việc cần triển khai.

Ông ra lệnh xử lý nghiêm, dù cho người đó là ai, ở cương vị nào. Sau này, Bộ trưởng Bộ Năng lượng Vũ Ngọc Hải, người lập đề án đường dây truyền tải điện 500kV Bắc - Nam bị kết tội thiếu trách nhiệm trong quản lý, bị kết án ba năm tù giam, một số cán bộ có liên quan bị cách chức. Ông Kiệt cũng tuyên bố nếu đường dây 500KV không thành công thì ông sẽ tự động từ chức.

Công trình được Bộ Chính trị thông qua vào tháng 1 năm 1992. Đến ngày 25 tháng 2 năm 1992, Chính phủ phê duyệt Luận chứng kinh tế - kỹ thuật với quyết định thời gian hoàn thành là 2 năm và do thời gian khẩn cấp nên cho phép thực hiện theo phương thức khảo sát, thiết kế, nhập vật tư - thiết bị và thi công thực hiện song song.

Mục tiêu hoàn thành xây dựng đường dây 500kV Bắc - Nam có chiều dài tới 1.500 km trong 2 năm cũng đã được nhiều người cho là không khả thi và nhất là giải quyết bài toán 1/4 bước sóng (sóng điện từ có hình cos và mỗi bước sóng điện từ tương ứng 6.000 km. Độ dài của đường dây 500kV mạch 1 được tính toán là khoảng 1.500 km, đúng bằng 1/4 bước sóng, tức là đúng ngay đỉnh của hình sin. Nghĩa là nếu điện từ ở Hoà Bình đang ở mức cực tiểu thì khi vào đến TP.HCM sẽ vọt lên cực đại và ngược lại, nếu ở Hoà Bình cực đại thì vào TP.HCM có thể bằng không. Điều này dẫn đến tình trạng điện áp không ổn định, và khi ấy không còn là 500kV mà có thể vọt lên đến 700 hoặc 1.000kV, gây cháy toàn bộ thiết bị.)

Con người không chịu bó tay trước những thách thức ấy. Cùng với các chuyên gia nước ngoài, các tính toán kỹ thuật như chia đường dây thành 4 đoạn, đặt các tụ bù dọc, kháng bù ngang với chi phí không hề rẻ, để điều chỉnh kịp thời, triệt tiêu tác động của câu chuyện 1/4 bước sóng đã được các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật của ngành Điện tính toán và thực hiện.

Vào ngày 5 tháng 4 năm 1992, tại các vị trí móng số 54, 852, 2702, Võ Văn Kiệt đã phát lệnh khởi công xây dựng công trình. Theo sự phân công của Chính phủ, ông Kiệt làm Tổng chỉ huy công trình đường dây 500kV Bắc - Nam.

Nhiệm kỳ hai (1992 - 1997) sửa

 
Võ Văn Kiệt và Thủ tướng Nhật Bản Murayama Tomiichi năm 1994
 
Võ Văn Kiệt và Tổng thống Argentina Carlos Menem năm 1997

Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá IX, ngày 23 tháng 9 năm 1992, ông tái cử Thủ tướng Chính phủ, Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh nhiệm kỳ hai.

Khánh thành đường dây 500 kV Bắc-Nam sửa

Sau hơn 2 năm xây dựng Đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1, đúng 19 giờ 7 phút 59 giây ngày 27 tháng 5 năm 1994, ông Võ Văn Kiệt ra lệnh hòa hệ thống điện miền Nam với 4 tổ máy của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình tại Đà Nẵng. Sau sự kiện này, ông được nhiều người gọi là "Thủ tướng điện", một tổng tư lệnh ngành, một nhà lãnh đạo đặt nền móng và có những đóng góp to lớn cho một lưới điện thống nhất cả nước, đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập kinh tế như ngày nay. Quyết định năm xưa của ông Kiệt đã giải quyết được vấn đề thiếu điện ở miền Nam và thúc đẩy phát triển kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh là đầu tàu phát triển kinh tế của cả nước.

Sáng hôm sau khi đóng điện, ông Võ Văn Kiệt vào nhà tù thăm cựu Bộ trưởng Năng lượng Vũ Ngọc Hải báo tin mừng đường dây truyền tải điện 500kV Bắc - Nam đã thành công, huy hiệu đường dây 500kV mà anh em điện lực gắn cho ông Kiệt, ông đã gắn cho ông Hải.

Chính sách đối ngoại sửa

Nhận thức rõ vai trò quan trọng của công tác đối ngoại, ông Kiệt cùng tập thể Bộ Chính trị và Trung ương Đảng tích cực triển khai đường lối đối ngoại: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” và tuyên bố “sẽ lèo lái con tàu cách mạng Việt Nam vươn ra biển, thực hiện chính sách đối ngoại “đa phương hóa, đa dạng hóa” trong quan hệ quốc tế”.

Mục tiêu là phát triển liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu. Đối với các nước và khu vực lân cận, ông chủ trương giải quyết vấn đề một cách cởi mở. Đặc biệt nhất, là sự kiện ông bà Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ với tiêu chí “khép lại quá khứ, hướng đến tương lai”, đồng thời tiếp tục củng cố mối quan hệ với những người bạn cũ, bao gồm: Bắc Âu Tích cực tham gia vào Khối, phía Đông Khối Châu Âu, các Quốc gia Khối thịnh vượng Chung Độc lập (CIS) và các Tổ chức Tài chính Quốc tế. Với chính sách đối ngoại cởi mở, Việt Nam đã củng cố được sức mạnh trong nước và thoát khỏi vòng vây, cấm vận. Giải quyết vấn đề Campuchia và bình thường hóa quan hệ với tất cả các nước và khu vực lân cận, trong đó có các nước Đông Bắc Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản) sau này trở thành đối tác chiến lược quan trọng của Việt Nam.

Bằng những suy nghĩ và hành động táo bạo của mình, Võ Văn Kiệt đã gửi đến thế giới một thông điệp mới về Việt Nam, một đất nước khao khát hòa bình và phát triển. Đây là những đóng góp quan trọng của ông trong chính sách đối ngoại, cứu đất nước khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững quốc phòng, an ninh, không ngừng mở rộng quan hệ ngoại giao, từng bước củng cố Việt Nam và những giá trị mà đất nước đang làm củng cố vị thế của chúng ta trên trường quốc tế thế giới.

Nghỉ hưu sửa

Từ tháng 12 năm 1997 đến tháng 4 năm 2001, tuy không còn giữ các chức danh trong Chính phủ nhưng ông cũng đã cùng Đỗ MườiLê Đức Anh được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào vị trí Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nơi ông ở lại cho đến khi sứ mệnh của vị trí này khép lại vào năm 2001. Một trong những thư ký của ông trong thời gian này là Vũ Đức Đam, sau này là Phó Thủ tướng Chính phủ (từ 2013).

Sau khi từ nhiệm và rời khỏi cương vị Thủ tướng Chính phủ, ông quyết định về Thành phố Hồ Chí Minh để sinh sống.

Quan điểm sửa

Từ đây đến sau khi qua đời thì trước mỗi sự kiện nóng bỏng, quan trọng mang tầm quốc gia hoặc ảnh hưởng lớn đến quyền lợi nhân dân, Võ Văn Kiệt lại lên tiếng với tư cách một người công dân.[6] Ông là cựu lãnh đạo Việt Nam đầu tiên công khai đặt vấn đề hòa hợp, hòa giải dân tộc. Võ Văn Kiệt cũng đã có ý kiến chính thức với lãnh đạo đất nước là nên đối thoại với những người bất đồng chính kiến,[7] ông nói: "Chính kiến khác nhau, ý kiến khác nhau là bình thường, và điều quan trọng là cần phải có đối thoại, nói chuyện với nhau một cách sòng phẳng".[8] Và về việc bầu cử đại biểu Quốc hội, ông cũng có nhận định: "Một Quốc hội có người tự ứng cử và được dân bầu lên một cách tự do sẽ tốt hơn quốc hội bây giờ".

Trong những năm cuối đời, ông phát biểu ý kiến, kiến nghị với các cơ quan đảng và nhà nước nhiều hơn. Từ những vấn đề trọng đại như ý kiến đóng góp với Đại hội X, hoà hợp dân tộc, đến những kiến nghị, góp ý, phát biểu về những sự việc cụ thể như: quy hoạch về thành phố dọc sông Hồng, việc xây nhà Quốc hội,...[9]

 
Phù điêu thủ tướng và các em học sinh
 
Bàn thờ thủ tướng tại khu tưởng niệm thủ tướng, Vũng Liêm

Năm 2005, Võ Văn Kiệt phát biểu rằng "Chiến thắng của chúng ta là vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát. Lịch sử đã đặt nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi cũng như vậy. Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu. Sau 30/4, khi đồng chí Lê Duẩn vào Sài Gòn, vừa xuống thang máy bay, đồng chí nắm tay đưa lên cao, giọng đầy cảm xúc, nói: "Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai". Sau 30 năm, tôi thấy không phải dễ dàng làm cho mọi người Việt Nam cảm nhận được điều đó".[10]

Ngày 30/4/2007, trả lời phỏng vấn BBC, ông phát biểu "Hơn 30 năm rồi, năm nay nữa là 32 năm, không có lý do gì giữa chúng ta với nhau không hòa giải được... Tôi đã đặt vấn đề này và cũng viết trong một số bài rằng có một cách nhìn méo mó từ phía một số người cộng sản rằng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội là đúng, còn những người yêu nước khác mà không yêu chủ nghĩa xã hội thì không yêu nước đủ như mình. Có hàng trăm con đường yêu nước khác nhau. Tổ quốc Việt Nam không của riêng một đảng, một phe phái, tôn giáo nào... chính kiến khác nhau, ý kiến khác nhau là bình thường, và điều quan trọng là cần phải có đối thoại, nói chuyện với nhau một cách sòng phẳng... chính phủ không nên áp dụng biện pháp hành chính đi đầu với họ, trừ phi là con người hoặc sự việc đó có nguy hại đối với đất nước, nhưng không được quy chụp người ta". Võ Văn Kiệt cho rằng đã tới lúc bỏ lại phía sau những chia rẽ mà theo ông phần nhiều do nước ngoài can thiệp gây ra.[11][12] Mặt khác, Võ Văn Kiệt cũng đề nghị Nhà nước cảnh giác với những mưu đồ lợi dụng dân chủ và nhân quyền để lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong thư gửi Bộ Chính trị năm 1995, ông cho rằng: "Ngày nay, Mỹ và các thế lực phản động khác không thể giương ngọn cờ chống cộng để tranh thủ dư luận và tập hợp lực lượng chống lại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam như trước được nữa. Vì ngọn cờ này đã hết phép mê hoặc, chúng phải chuyển sang ngọn cờ dân chủ và nhân quyền. Song ngay cả ý đồ muốn thủ tiêu nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam của các thế lực đế quốc và phản động cũng phải được đánh giá dưới ánh sáng của cục diện quốc tế mới... Điều hiển nhiên là trên thế giới tiếng nói ủng hộ hay đồng tình với yêu cầu ổn định chính trị của Việt Nam ngày càng mạnh, sự chấp nhận trên thế giới đối với chế độ chính trị một đảng của Việt Nam cũng đang tăng lên – mặc dầu lúc này lúc khác vấn đề dân chủ và nhân quyền được sử dụng như một phương tiện chính trị đối phó với chúng ta."[13]

Về đường lối xây dựng đất nước và quan hệ ngoại giao, ông cho rằng:"quốc gia nào khắc phục được những mâu thuẫn nội tại để cùng tìm thấy niềm tự hào chung, lợi ích chung thì có thể tạo ra sức mạnh nội lực và do đó càng có uy tín quốc tế. Kể cả những nước nhỏ, nếu có những yếu tố đó thì cũng vẫn tạo ra thế mạnh. Ngược lại, nơi nào mà dân tộc chia rẽ, đối địch với nhau, thì dù có tài nguyên quốc gia phong phú, có dân số đông đúc, vẫn không tạo ra sức mạnh, vị thế quốc tế, do đó cũng không thể vững vàng... Những kinh nghiệm quốc tế vừa qua càng chỉ rõ thêm rằng, nếu chỉ dùng đối đầu và bạo lực để giải quyết những thù hận thì chỉ đẻ ra thù hận. Nếu dùng cách cảm hóa để giải quyết thù hận thì có thể triệt tiêu được thù hận và tạo ra sức mạnh càng ngày càng dồi dào hơn. Nếu cứ còn chia rẽ do hận vì bại, kiêu vì thắng, thì có ích gì cho bản thân, cho đất nước, cho hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế? Nhìn ra thế giới, càng nghiệm thấy rằng tài nguyên lớn nhất cho mọi quốc gia chính là tài nguyên con người. Nếu quy tụ được sức người, thì nhiều nguồn lực khác cũng có thể được quy tụ. Con người mà không quy tụ, thì mọi nguồn lực khác cũng rơi rụng... Muốn thế, cần ngồi lại với nhau. Bằng thiện chí, bằng tấm lòng chân thật, hãy cùng nhau xem lại một cách sòng phẳng những chỗ hay, chỗ dở, chỗ nào đã khắc phục được rồi, chỗ nào còn phải hoàn thiện tiếp... "[14]

Võ Văn Kiệt đã lên tiếng trên công luận bày tỏ quan điểm lo ngại về các dự án như: nhà máy lọc dầu Dung Quất,[15] thành phố bên sông Hồng,[16] việc xây dựng tòa nhà quốc hội mới[17] và lần gần nhất là về vấn đề mở rộng địa giới Hà Nội (giữa tháng 5/2008 ông có ra Hà Nội để vận động dừng việc mở rộng thủ đô nhưng ông ốm và mất vài tuần sau đó).[18] Ông viết: "Thủ đô của cả nước, của cả dân tộc và cả của lịch sử. Không nên và không được phép đưa thủ đô làm nơi thí nghiệm cho bất cứ mục đích gì."[19]

Bên cạnh đó, ông còn bày tỏ rõ quan điểm ủng hộ tự do báo chí đối với các tổ chức chính trị và chính quyền, thể hiện rõ ở việc ông can thiệp vào sự kiện Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh thay thế các vị trí quản lý ở báo Tuổi Trẻ nhằm cài cắm người để quản lý.[20]

Qua đời và lễ tang sửa

Lúc 8 giờ 40 phút ngày 11 tháng 6 năm 2008 (giờ Singapore, tức 7 giờ 40 phút cùng ngày giờ Hà Nội), Võ Văn Kiệt được xác nhận là đã qua đời khi đang điều trị tại Bệnh viện Mount Elizabeth, Singapore.[2][21] Theo hãng tin Reuters thì lý do là tuổi cao và viêm phổi cấp tính,[2] còn theo AP thì nguyên do là tai biến mạch máu não.[1] Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long sau đó đã gửi lời chia buồn và hỗ trợ Việt Nam đưa thi hài của ông sau đó đã đựoc đưa về nước vào tối cùng ngày để chuẩn bị tổ chức quốc tang.

Sau khi các hãng tin quốc tế đã đưa tin và nhiều lãnh tụ nước ngoài đã gửi lời chia buồn, báo chí Việt Nam chính thức thông báo Võ Văn Kiệt mất vào tối ngày hôm sau.[22] Văn phòng Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã thông báo 2 ngày quốc tang[23]. Lễ viếng được tổ chức vào ngày 14 tháng 6 tại Hà Nội, Hội trường Thống Nhất (nơi đặt linh cữu của ông) và trụ sở Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long (quê hương ông), có trưởng ban lễ tang nhà nước là Nông Đức Mạnh, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam. Lễ truy điệu tổ chức vào ngày 15 tháng 6, sau đó đến trưa cùng ngày, linh cữu của Võ Văn Kiệt được đưa đi an táng tại nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh. Lễ truy điệu và an táng được tường thuật trực tiếp trên VTV1, VTV9VOV1. Kênh tiếp sóng lễ truy điệu và an táng là HTV9.

Gia đình sửa

Võ Văn Kiệt có hai đời vợ.

Người vợ đầu của ông, bà Trần Kim Anh, con thứ sáu của một điền chủ, lấy nhau lúc bà 17, ông Kiệt 27 tuổi.[24] Bà có với ông 4 người con: Phan Chí Dũng (sinh năm 1951), Phan Hiếu Dân (sinh năm 1955), Phan Thị Ánh Hồng (sinh năm 1958) và Phan Chí Tâm (sinh năm 1966).[25] Năm 1966, bà cùng hai con nhỏ, một trai một gái, đã thiệt mạng khi quân đội Hoa Kỳ bắn chìm tàu Thuận Phong trong một cuộc càn quét qua chiến khu Củ Chi.[26] Võ Văn Kiệt đã muốn khi chết, tro của mình được rải xuống khúc sông mà hai người con và người vợ của mình đã mãi nằm lại đó. Sau này, tro cốt tượng trưng của ông được đốt từ di ảnh và những di vật quen thuộc của ông được rải xuống đoạn sông Sài Gòn chảy qua huyện Củ Chi, nơi vợ con ông bị giết hại.[cần dẫn nguồn] Phan Chí Dũng, người con cả của ông, hy sinh ngày 29 tháng 4 năm 1972 tại Sóc Trăng trong một lần đi trinh sát.

Người vợ thứ hai của ông (lấy nhau năm 1984) là Giáo sư, Tiến sĩ Hóa học Phan Lương Cầm, giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội, từng được trao tặng Giải thưởng Kovalevskaia, giải thưởng cao nhất dành cho các nhà khoa học nữ Việt Nam.[27][28]

Theo Huy Đức viết trong cuốn sách Bên thắng cuộc, Võ Văn Kiệt có người con riêng là Phan Thanh Nam sinh ngày 25 tháng 2 năm 1952 ở miền Bắc. Mẹ Phan Thanh Nam là bà Hồ Thị Minh, chủ bút đầu tiên của tờ Phụ nữ Cứu quốc Nam Bộ, bà cũng đã từng được cử sang Pháp dự Hội nghị Femmes Francaises. Ông Võ Văn Kiệt gặp bà Minh khi dự lớp "Hoa Nam" do trường Nguyễn Ái Quốc III mở tại xã Kim Bình, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Lớp do Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh giảng dạy.[cần dẫn nguồn]

Tặng thưởng sửa

Tháng 12 năm 1997, Võ Văn Kiệt đã được trao tặng Huân chương Sao Vàng, huân chương cao quý nhất của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài ra ông còn được trao tặng nhiều huân, huy chương khác và huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.[29]

Vinh danh sửa

 
Đại lộ Võ Văn Kiệt

Ngày 22/2/2009, tên của ông được đặt cho một con đường dài 23,6 km chạy từ ngã tư Bình Long cắt Quốc lộ 1 trên đường Nguyễn Hoàng qua nhà máy lọc dầu Dung Quất ra cảng Dung Quất, Quảng Ngãi.

Ngày 29 tháng 4 năm 2011, Sở Giao thông Vận tảiỦy ban nhân dân quận 1, TP Hồ Chí Minh đã tổ chức lễ đặt tên đường Võ Văn Kiệt cho Đại lộ Đông – Tây, một trong những tuyến đường hiện đại và quan trọng trong hệ thống hạ tầng giao thông của Thành phố Hồ Chí Minh.

Đại lộ Võ Văn Kiệt có tổng chiều dài hơn 13,42 km, kéo dài từ đoạn giao nhau giữa đường Hàm Nghiđường Tôn Đức Thắng, thuộc bờ Tây sông Sài Gòn, quận 1 đến cầu vượt quốc lộ 1, huyện Bình Chánh.[30]

Dự án đại lộ Đông – Tây là công trình trọng điểm của hệ thống giao thông TP Hồ Chí Minh có tổng chiều dài 21,89 km đi qua địa bàn 8 quận, huyện trên địa bàn thành phố bắt đầu từ nút giao Tân Kiên, huyện Bình Chánh đến nút giao Cát Lái, thành phố Thủ Đức, trong đó có một hầm vượt sông Sài Gòn dài 1.490 m. Dự án có tổng mức đầu tư 9.863 tỷ đồng.[31]

Tại thành phố Cần Thơ, tuyến đường đẹp nối từ trung tâm (đường Mậu Thân) đến cảng hàng không quốc tế Cần Thơ cũng mang tên Võ Văn Kiệt. Đà Nẵng có đường mang tên ông nối đường Nguyễn Văn Linh với Trường Sa.

Tại Hà Nội, tên của ông được đặt tên cho đoạn đường nối từ cầu Thăng Long đến sân bay quốc tế Nội Bài, chạy trên địa bàn các huyện Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn (trước đây là trục đường Bắc Thăng Long – Nội Bài).

Các tên Võ Văn Kiệt hay Phan Văn Hòa còn được đặt tên cho các đường phố và trường học ở nhiều nơi khác tại Việt Nam.

Từ tháng 10/2015, tại Phan Thiết, Bình Thuận có thêm công viên Võ Văn Kiệt với diện tích 4ha để phục vụ người dân đến vui chơi, tập thể dục mỗi ngày. Đặc biệt, vào mỗi dịp tối cuối tuần, lễ tết, công viên tấp nập du khách gần xa vào đây để tham gia các hoạt động ngoài trời.[32]

Ngày 8/11/2015, UBND tỉnh Trà Vinh long trọng tổ chức lễ công bố nghị quyết của HĐND tỉnh Trà Vinh về đặt tên ông cho đoạn đường với điểm đầu từ ngã ba Sóc Ruộng và điểm cuối đến quốc lộ 53.[33]

Tại Đồng Tháp, tên ông được đặt cho đoạn đường từ thị trấn Thanh Bình (huyện Thanh Bình) đến xã Trường Xuân (huyện Tháp Mười). Đây được xem là tuyến đường đi xuyên Đồng Tháp Mười của tỉnh Đồng Tháp với chiều dài 40 km.[34]

Chú thích sửa

  1. ^ a b BEN STOCKING. “Ex-Vietnamese prime minister Kiet dies”. Associated Press. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2008.
  2. ^ a b c Jerry Norton. “Reformist ex-Vietnam premier Vo Van Kiet dies”. Reuters. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2008.
  3. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. VnExpress. 12 tháng 6 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2008. Đã định rõ hơn một tham số trong |tên bài=|title= (trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày= (trợ giúp)
  4. ^ Những công trình mang tên Võ Văn Kiệt Lưu trữ 2013-10-29 tại Wayback Machine Cổng thông tin ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2011.
  5. ^ “CÁC THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ TIỀN NHIỆM”. Trang tin Thủ tướng Chính Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
  6. ^ “Võ Văn Kiệt, nhà lãnh đạo kiệt xuất thời kỳ Đổi mới”. VietNamNet. 11 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày= (trợ giúp)
  7. ^ BBC phiên bản Việt ngữ (ngày 14 tháng 6 năm 2008). “Ông Kiệt:"nên đối thoại sòng phẳng". BBC. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2008.
  8. ^ BBC phiên bản Việt ngữ. “BBC phỏng vấn ông Võ văn Kiệt”. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2008.
  9. ^ Việt Nam Net. “Võ Văn Kiệt, nhà lãnh đạo kiệt xuất thời kỳ Đổi mới”. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2008.
  10. ^ Nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt: 'Chúng ta đừng ru ngủ mình', 30 tháng 4 năm 2005
  11. ^ Ông Võ Văn Kiệt kêu gọi hòa giải, BBC tiếng Việt, ngày 30 tháng 4 năm 2007
  12. ^ BBC phỏng vấn ông Võ văn Kiệt, BBC tiếng Việt
  13. ^ https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2015/08/150809_vo_van_kiet_gui_bo_chinh_tri
  14. ^ Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt: Ðại đoàn kết dân tộc - cội nguồn sức mạnh của chúng ta, Võ Văn Kiệt, Bộ Ngoại giao Việt Nam
  15. ^ Nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt góp ý cho dự án Dung Quất
  16. ^ Xây dựng thành phố dọc sông Hồng: Phải hết sức cân nhắc Lưu trữ 2009-01-22 tại Wayback Machine, Phỏng vấn tại báo Tuổi trẻ, 20/09/2007
  17. ^ Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt góp ý về Nhà Quốc hội
  18. ^ Võ Văn Kiệt, Mở rộng Hà Nội: Không thể chỉ là một ý tưởng cảm tính Lưu trữ 2009-01-22 tại Wayback Machine, Báo Tuổi trẻ, 05/05/2008
  19. ^ “Võ Văn Kiệt: Không được phép đưa thủ đô làm nơi thí nghiệm”. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2008.
  20. ^ Vụ báo Tuổi Trẻ: ông Võ Văn Kiệt lên tiếng, Bài viết trên diendan.org, 24/08/2007
  21. ^ “Cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt qua đời”. BBC. ngày 14 tháng 6 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2008.
  22. ^ “Báo VN đợi đưa tin về ông Võ Văn Kiệt”. BBC Tiếng Việt. ngày 12 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2008.
  23. ^ “Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt từ trần”.
  24. ^ Bên thắng cuộc
  25. ^ Huy Đức (ngày 16 tháng 6 năm 2008). “Từ nỗi đau của ông, Võ Văn Kiệt”. Báo Tuổi trẻ. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2008.
  26. ^ BBC phiên bản Việt ngữ (ngày 11 tháng 6 năm 2008). “BBC phỏng vấn ông Võ văn Kiệt”. BBC. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2008.
  27. ^ “Thành quả khoa học - công nghệ nổi bật”. Trang chủ của Đại học Bách khoa Hà Nội. ngày 11 tháng 6 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2008.
  28. ^ “Khai mạc Duyên dáng Việt Nam 14: Lộng lẫy những nhịp điệu dân tộc”. Báo Thanh Niên. ngày 7 tháng 1 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2008.
  29. ^ Báo Chính phủ điện tử ngày ngày 23 tháng 11 năm 2017: "Đồng chí Võ Văn Kiệt - Nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và Cách mạng Việt Nam"
  30. ^ “Chính thức đặt tên đường Võ Văn Kiệt cho Đại lộ Đông – Tây”. HCM CityWeb. ngày 29 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2011.
  31. ^ Trích từ baothintuc.vn của tác giả Hoàng Anh Tuấn số ra ngày Chủ Nhật, 01/05/2011
  32. ^ “Công viên Võ Văn Kiệt”. mybinhthuan.vn.
  33. ^ “Trà Vinh có tên đường Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Thiện Thành”.
  34. ^ “Đồng Tháp đặt tên đường Võ Văn Kiệt”.

Liên kết ngoài sửa

Tiền nhiệm:
Phạm Hùng
(quyền) Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
10-3-198822-6-1988
Kế nhiệm:
Đỗ Mười
Tiền nhiệm:
Đỗ Mười
Thủ tướng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
8-8-199125-9-1997
Kế nhiệm:
Phan Văn Khải