Thảo luận:Pháp thuộc

Bình luận mới nhất: 2 năm trước bởi Bachdo trong đề tài Rà nhanh
Dự án Lịch sử
Trang này được thực hiện với sự phối hợp của các thành viên thuộc dự án Lịch sử, một dự án hợp tác giữa các thành viên nhằm nâng cao chất lượng các bài viết về Lịch sử. Nếu bạn muốn tham gia, xin hãy đến thăm trang của dự án! Bạn cũng có thể ghé qua trang thảo luận để trao đổi hoặc đề xuất ý kiến.
?Bài viết chưa được đánh giá chất lượng.
?Bài viết chưa được xếp độ quan trọng.


Untitled sửa

Nội dung khi bị xóa theo biểu quyết vì chất lượng kém. Thaisk (thảo luận, đóng góp) 12:27, ngày 24 tháng 6 năm 2007 (UTC)Trả lời

Chế độ thuộc địa phong kiến phương Tây. Triều Nguyễn tồn tại dưới sự đô hộ của thực dân Pháp Bắt đầu nhân dân Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược vào năm 1858. Trở thành một nước được bảo hộ từ 1885 cho đến năm 1940, trong giai đoạn mở đầu Chiến dịch Thái Bình Dương của Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Đệ Nhất Thế Chiến Đệ Nhất Thế Chiến bùng nổ, Pháp đưa 50,000 binh lính và 50,000 lao công người Việt sang châu Âu tham chiến. Pháp còn buộc người dân Việt Nam phải chịu thêm nhiều sưu thuế nặng nề để tài trợ nỗ lực chiến tranh của Pháp. Nhiều cuộc nổi loạn chống thực dân bộc phát tại Việt Nam nhưng đã bị Pháp đàn áp dễ dàng. Năm 1916, vua Duy Tân xuất cung tham gia cuộc nổi dậy do Thái PhiênTrần Cao Vân tổ chức. Người Pháp được mật báo kế hoạch nổi dậy nên đã bắt giam và xử chém những người lãnh đạo cuộc nổi dậy. Vua Duy Tân bị truất ngôi và bị đày ra đảo RéunionẤn Độ Dương. Đệ Nhị Thế Chiến Đệ Nhị Thế Chiến bùng phát. Do đã đầu hàng Đức Quốc Xã, chính phủ Vichy đồng ý để quân đội Nhật đổ bộ vào Bắc kỳ ngày 22 tháng 9 năm 1940. Và Đế quốc Nhật Bản chiếm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, lật đổ Pháp. Ngay sau đó, Nhật lấy đó làm bàn đạp để đưa quân sang đánh các thuộc địa của Đồng Minh ở khắp Đông Nam Á. Việt Nam thế là nằm dưới sự chiếm đóng của Phe Trục cho đến khi Đồng Minh thắng trận.

Hiệp ước Versailles sửa

Trong bài này có nói đến Hiệp ước Versailles, đây là Hiệp ước Versailles nào vậy? Mekong Bluesman (thảo luận) 13:47, ngày 23 tháng 1 năm 2008 (UTC)Trả lời

Tiếng Việt viết là An Nam (tách rời) 96.229.179.106 (thảo luận) 00:34, ngày 26 tháng 1 năm 2008 (UTC)Trả lời

Cần kết hợp sửa

Để hoàn thiện bài này cần rất nhiều kiến thức và tư liệu, mong các thành viên am hiểu và yêu thích lịch sử cận đại VN dành thời gian cùng kết hợp xây dựng bài bày. 113.22.43.182 (thảo luận) 09:22, ngày 20 tháng 5 năm 2011 (UTC)Trả lời

Có 2 vấn đề:

  1. Tên bài nên đổi sang Pháp thuộc cho thống nhất với Bắc thuộc lần 1, Bắc thuộc lần 2... không cần dài như hiện nay. Các bài Bắc thuộc vốn cũng đổi từ tên dài như Lịch sử Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2... sang tên ngắn)
  2. Nội dung: Thời kỳ xâm chiếm nên tạo (tách ra) thành bài Chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884, thời Pháp thuộc tính từ 1884-1945, chủ yếu quan tâm tới chế độ cai trị, kinh tế, hành chính,... và các phong trào nổi lên giành độc lập, cùng biến cố khác trong thế chiến I, II có liên quan.

Đúng ra dài và rộng, tư liệu rất nhiều, cần khái quát để tránh sa quá sâu vào một chủ đề nào đó. Hiện tại mới có khá nhiều bài con về quân sự và chính trị, các lĩnh vực khác còn ít.--Trungda (thảo luận) 09:49, ngày 20 tháng 5 năm 2011 (UTC)Trả lời

OK, tôi cũng có một số quan điểm như Trungda, cần phải làm rõ giai đoạn Pháp thuộc là từ 1884 (khi nhà Nguyễn ký hiệp ước bảo hộ với Pháp) đến tháng 3/1945 (khi Pháp bị Nhật hất cẳng). Còn các giai đoạn 1858-1884 là giai đoạn chiến tranh, xâm chiếm từng phần của Pháp với Việt Nam. Và cũng đồng ý với Trungda cần phải khái quát từng đề mục tránh sa đà vào 1 nội dung cụ thể nào đó. Nhưng riêng ý kiến của Trungda làm đổi tên thành Pháp thuộc thì đang còn phân vân, liệu có ngắn củn quá hay không?. 113.22.43.182 (thảo luận) 10:00, ngày 20 tháng 5 năm 2011 (UTC)Trả lời
Bắc thuộc đã có từ lâu và quen thuộc thì Pháp thuộc cũng không phải là "dị hình" :D.--Trungda (thảo luận) 16:26, ngày 21 tháng 5 năm 2011 (UTC)Trả lời

Tên bài viết sửa

Chưa rõ ý Paris 16 muốn có "2 bài" khi đổi Pháp thuộc thành tên hiện nay là thế nào?--Trungda (thảo luận) 16:07, ngày 22 tháng 4 năm 2012 (UTC)Trả lời

Tôi nghĩ Pháp thuộc là một chủ đề rất lớn, vì thế đây sẽ là một bài viết bao trùm, đề cập đến tất cả các khía cạnh. Tương lai chúng ta sẽ có các bài nhỏ hơn như Hành chính Việt Nam thời Pháp thuộc, Kinh tế Việt Nam thời Pháp thuộc, Nghệ thuật Việt Nam thời Pháp thuộc... và cả Lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc. Như vậy bài Pháp thuộc sẽ có nội dung tổng quát, với dàn bài chia thành nhiều mục đề cập đến các lĩnh vực, còn bài Lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc sẽ đi sâu vào các sự kiện, các cuộc khởi nghĩa, các hiệp định... và viết theo trình tự thời gian. --Paris (thảo luận) 18:41, ngày 22 tháng 4 năm 2012 (UTC)Trả lời
Pháp thuộc chính là bài tổng, là bài về 1 giai đoạn của lịch sử Việt Nam, tương đương các bài triều đại và thời kỳ khác, như Bắc thuộc lần 1, Bắc thuộc lần 2, nhà Lý, nhà Trần, nhà Nguyễn... Trước đây tôi cũng từng soạn Lịch sử Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2, nhưng sau thấy có thể thu gọn về Bắc thuộc lần 2 là đủ, phản ánh khái quát tổng thể. Các bài nhà Lý, nhà Trần thực chất cũng là lịch sử Việt Nam thời Lý hay lịch sử Việt Nam thời Trần, mà những bài con chính là Nghệ thuật Đại Việt thời Trần hay giáo dục khoa cử Đại Việt thời Lý... Bài Pháp thuộc (tức lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc) cơ bản sẽ cần một kết cấu như các bài Bắc thuộc lần 2, nhà Lý,... theo đó từ các sự kiện chính trị, quân sự đến văn hóa, giáo dục... đều chỉ nêu tổng lược và dẫn chiếu tới các bài con, không cần tách riêng như vậy. Còn bài Pháp thuộc hiện nay, tôi chưa rõ vì sao, lại dẫn chiếu tới bài chính là Liên bang Đông Dương, trong khi giới hạn địa lý chỉ là Việt Nam. Tóm lại, Pháp thuộcLịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc chỉ là một chứ không cần 2 bài, là nơi giới thiệu tất thảy các bài con thuộc mọi lĩnh vực liên quan tới chủ đề này; đó là cách làm chung cho các thời kỳ khác của lịch sử Việt Nam.--Trungda (thảo luận) 03:19, ngày 23 tháng 4 năm 2012 (UTC)Trả lời

Hiện tại đã có Chiến tranh Pháp-Đại Nam (1858-1884) với chất lượng tốt. Bài viết này trong tình trạng "ôm" Chiến tranh Pháp-Đại Nam (1858-1884) lẫn Pháp thuộc; không cần thiết, hơn nữa nội dung trong ruột thiếu nguồn gốc. Vì vậy nên lấy phần đuôi gắn sang bài Pháp thuộc (chỉ tính từ 1884) đang sơ khai, còn phần đầu thiếu nguồn gốc thì bỏ vì đã có Chiến tranh Pháp-Đại Nam (1858-1884). Tôi sẽ trả lại trang thảo luận này về Thảo luận:Pháp thuộc--Trungda (thảo luận) 17:56, ngày 26 tháng 5 năm 2012 (UTC)Trả lời

Hậu quả thời kỳ Pháp thuộc sửa

Bài này khá hay vì nó sẽ giúp người đọc hiểu người Pháp đã cai trị chúng ta thế nào, chúng ta được những gì và mất những gì. Người Pháp phải chịu trách nhiệm rất lớn cho những bi kịch trong lịch sử VN cận hiện đại. Ông Hồ nói sau gần 1 thế kỷ Pháp cai trị, nước ta cái gì cũng kém, chỉ có lòng yêu nước là dồi dào là đúng chứ không sai. Năm 1945, 3 nước Đông Dương kém nhất Đông Nam Á về mọi mặt. Người Pháp cai trị quá tệ. Họ chỉ lo duy trì nền cai trị của họ, nuôi bộ máy hành chính hơn là đem lại văn minh và phồn vinh cho dân thuộc địa. Chính cách cai trị đó khiến những chính trị gia ôn hòa muốn hợp tác với Pháp để phát triển VN không được ủng hộ trong khi những chính trị gia cực đoan muốn giành độc lập bằng mọi giá được dân chúng ủng hộ nhiệt tình. Thanh niên phải biết những chuyện này thì mới hiểu và thông cảm cho cha anh họ vì sao đã chọn con đường đầy máu lửa như vậy.Yeuem123 (thảo luận) 07:03, ngày 7 tháng 6 năm 2015 (UTC)Trả lời

Pháp thuộc là một giai đoạn lịch sử kéo dài gần 1 thế kỷ, làm biến đổi hoàn toàn VN, để lại hậu quả ghê gớm về sau lại chẳng được ai quan tâm. Nếu không có giai đoạn này thì sẽ không có những xung đột, chia rẽ, không có sự tan rã xã hội, không có sự mất mát văn hóa mà chúng ta có thể quan sát thấy những biểu hiện của nó trong xã hội VN hiện nay... Có nghiên cứu mới thấy rằng mất quyền tự chủ tai hại thế nào, di sản người Pháp để lại thật nặng nề. Nếu không nghiên cứu thời Pháp thuộc không thể nào lý giải nổi những gì diễn ra sau này mà chỉ có cái nhìn thiển cận là do chủ nghĩa cộng sản trong khi nước nào cũng có đảng cộng sản mà chẳng nước nào như VN.Yeuem123 (thảo luận) 22:10, ngày 9 tháng 6 năm 2015 (UTC)Trả lời

Bạn đã xóa ngang nhiên của tớ trong mục Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam, giờ tớ lịch sự không xóa ngang nhiên mà chỉ yêu cuẩ có nguồn cho mỗi dòng mà bạn viết dưới đây, cần văn bản đàng hoàng trong một số chú thích. Rất nhiều là nhận xét cá nhân chứ không phải là thông tinTuantintuc17 (thảo luận) 11:25, ngày 15 tháng 6 năm 2015 (UTC)Trả lời

Việt Nam không còn là một quốc gia độc lập, trở thành chế độ quân chủ nửa thuộc địa, phải phụ thuộc vào Pháp. Bằng các hiệp ước ký với triều Nguyễn, Việt Nam bị người Pháp chia thành 3 Kỳ (Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ) với các chế độ chính trị, bộ máy hành chính và hệ thống luật pháp khác nhau. Nhà Nguyễn mất uy tín chính trị, vương quyền không còn là yếu tố đoàn kết quốc gia như các nước quân chủ khác trên thế giới[cần dẫn nguồn]. Chế độ bảo hộ của Pháp đã biến người Việt thành những nhân viên hành chính chỉ biết thừa hành một cách thụ động, thiếu sáng tạo còn quyền lãnh đạo nằm trong tay người Pháp[cần dẫn nguồn]. Thuật lãnh đạo không được truyền lại, khả năng lãnh đạo quốc gia của người Việt thui chột đi[cần dẫn nguồn]. Đa số người Việt bị loại ra khỏi đời sống chính trị quốc gia nên thiếu trưởng thành về mặt chính trị[cần dẫn nguồn]. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan cùng tâm lý bài ngoại nảy sinh và phát triển mạnh mẽ[cần dẫn nguồn]. Trong bối cảnh đó những tư tưởng nổi loạn, vô chính phủ được du nhập từ phương Tây, được truyền bá rộng rãi[cần dẫn nguồn]. Các đảng phái chủ trương dùng bạo lực giành chính quyền hoạt động bí mật tại Việt Nam hoặc lưu vong ở nước ngoài[cần dẫn nguồn].

Năm 1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh tạo điều kiện cho các đảng phái bí mật công khai hoạt động tuyển mộ đảng viên và thu hút quần chúng[cần dẫn nguồn]. Triều đình nhà Nguyễn cải tổ thành Đế quốc Việt Nam nhưng không đủ uy tín chính trị để thu hút quần chúng, không có lực lượng để duy trì an ninh[cần dẫn nguồn]. Cách mạng tháng Tám đưa những người hoàn toàn thiếu kinh nghiệm cai trị quốc gia và quản lý hành chính, không được học hành đến nơi đến chốn, không được đào tạo về quản lý nhà nước lên nắm chính quyền[cần dẫn nguồn]. Các đảng phái non trẻ, thiếu kinh nghiệm hoạt động trong một nền dân chủ, bị chia rẽ vì những khác biệt ý thức hệ và bất đồng trong đường lối chính trị, cạnh tranh nhau giành quyền lãnh đạo quốc gia[cần dẫn nguồn]. Xung đột bùng phát ngay khi Việt Nam vừa giành độc lập kéo dài cho đến tận năm 1975[cần dẫn nguồn]. Các phe phái chỉ trích nhau là Việt gian, tay sai ngoại bang trong khi dựa vào viện trợ và hậu thuẫn chính trị - quân sự từ các nước lớn để tiêu diệt lẫn nhau nhân danh độc lập dân tộc[cần dẫn nguồn]. Trong một chừng mực nào đó tất cả các bên đều chịu áp lực của các nước lớn khi ra các quyết định chính trị, quân sự; đều tham vấn các nước lớn khi xây dựng những chính sách kinh tế, xã hội và quân sự của mình[cần dẫn nguồn]. Sự chia rẽ của người Việt, tình trạng xã hội tan rã, tâm lý bài ngoại, bộ máy nhà nước có năng lực hạn chế cùng nỗi ám ảnh quá khứ thuộc địa còn kéo dài đến tận ngày nay[cần dẫn nguồn].Tuantintuc17 (thảo luận) 11:25, ngày 15 tháng 6 năm 2015 (UTC)Trả lời

Hợp lý là được mà. Có ai phản đối đâu, chỉ có bạn. Bạn quá thiếu xây dựng. Yeuem123 (thảo luận) 12:05, ngày 15 tháng 6 năm 2015 (UTC)Trả lời

Bài bên MTDTGP, tôi viết rất khoa học phù hợp với ở trên, thì bạn xóa đi và cho tôi viết ko nguồn, vậy tôi đang cần bạn chứng minh là những gì bạn viết là cón guồn thì bạn lại lờ đi. Mà tôi ko (chưa) xóa của bạn, vậy ai biết làm việc một cách khoa học, lịch lãm và dân chủ hơnTuantintuc17 (thảo luận) 11:37, ngày 16 tháng 6 năm 2015 (UTC)Trả lời

Hóa ra vì thế mà bạn cố tình đánh fact vào bài của tôi. Yeuem123 (thảo luận) 13:18, ngày 16 tháng 6 năm 2015 (UTC)Trả lời

Người Pháp chứ không phải người Mỹ mới là kẻ đáng lên án nhất, kẻ phá hủy đất nước này nhiều nhất. Việc chỉ trích những yếu kém, bệnh tật của xã hội VN đương đại sẽ chẳng giúp ích gì cho VN mà chỉ có nghiên cứu lịch sử mới tìm ra nguyên nhân, gốc rễ của vấn đề rồi từ đó mà khắc phục. Lotoryt (thảo luận) 17:05, ngày 21 tháng 7 năm 2015 (UTC)Trả lời

Hiện giờ đọc bài này thấy toàn màu đen. Thật ra người Pháp cũng xây dựng khá nhiều cơ sở hạ tầng, hệ thống y tế, hệ thống giáo dục tại VN dù chưa đủ sức đem lại văn minh cho VN. Các bạn nên đưa những chi tiết này vào bài. Rondano (thảo luận) 15:14, ngày 5 tháng 12 năm 2017 (UTC)Trả lời

Bài này chưa phát triển tương xứng với vai trò của thời kỳ Pháp thuộc. Khoa sử học ở VN cũng chưa nghiên cứu sâu sắc, tập trung đúng mức về thời kỳ này. Đó là điều đáng buồn. Sử học phục vụ tuyên truyền chính trị mấy chục năm khiến nó bị méo mó, thiên lệch đi.Lumiraty (thảo luận) 15:56, ngày 23 tháng 5 năm 2018 (UTC)Trả lời

Cộng sản với Quốc gia đều có thể tha thứ được vì họ dốt nát, thiếu kinh nghiệm trị quốc chứ Pháp thì không thể tha thứ. Ninanon (thảo luận) 14:37, ngày 13 tháng 7 năm 2018 (UTC)Trả lời

Những kẻ ưa đấu tranh vì chủ nghĩa này chủ nghĩa kia, hâm mộ nước này nước kia thực chất là vong bản và vong nô. Có nghiên cứu mới hiểu vì sao VN ta lại ra nông nổi như vậy.Ninanon (thảo luận) 06:59, ngày 20 tháng 7 năm 2018 (UTC)Trả lời

Xóa chú thích sửa

Tôi đề nghị bạn Trần Thế Vinh không xóa chú thích nguồn đủ tiêu chuẩn là sách Đại cương LS Việt Nam, nếu không tôi sẽ thông báo cho BQVTruongthiet (thảo luận) 06:42, ngày 19 tháng 8 năm 2015 (UTC)Trả lời

Tôi không xóa chú thích chính của bạn, tôi chỉ dời nó ra vị trí khác và yêu cầu thêm chú thích cho đoạn mà tôi cho là cần thêm để khách quan. Bạn cứ đi mà méc BQV.-- Trình Thế Vânthảo luận 01:25, ngày 20 tháng 8 năm 2015 (UTC)Trả lời

Lý do lùi sửa sửa

Sao chép nhiều đoạn trong [1] xong xen kẽ đánh lừa nội dung.  A l p h a m a  Talk 07:39, ngày 26 tháng 10 năm 2017 (UTC)Trả lời

 
Hugopako đã xóa thảo luận này của Aifart vì cho rằng nó mang tính chất diễn đàn.
Việc xóa bỏ đã diễn ra vào lúc 18:49, ngày 1 tháng 10 năm 2018 (UTC). Nếu bạn muốn xem lại, xin tra ở lịch sử trang vào thời gian tương ứng.Trả lời

Trung lập sửa

Đề nghị xóa bảng trung lập. Bài hiện đang nghiêng về các mặt tối của thời Pháp thuộc nhưng chưa đến mức đặt biển trung lập. Aifart (thảo luận) 06:59, ngày 22 tháng 9 năm 2018 (UTC)Trả lời

Góc nhìn khác sửa

Bài này hiện giờ đang nghiên theo góc nhìn Pháp là kẻ đem lại tai họa còn Việt Nam là nạn nhân trong khi thực tế phức tạp hơn nhiều. Chính vì Việt Nam chậm mở cửa hội nhập, chậm đổi mới để hiện đại hóa nên Pháp mới giúp Việt Nam làm điều đó. Vì vậy họ xem họ có sứ mệnh khai hóa cho Việt Nam. Thực tế chúng ta thua Pháp về mọi mặt nên mới thua họ và bị họ cai trị gần một thế kỷ. Trong quá trình cai trị Việt Nam họ cũng mang lại nhiều điều tốt dù chưa đủ để Việt Nam thành nước văn minh. Nếu so Việt Nam thời Pháp với Việt Nam thời Tự Đức thì chưa chắc chúng ta thụt lùi. Đó là những thực tế mà bài này chưa phản ánh được. Cần phát triển tiếp bài viết để phản ánh thực tế này. Fiscalert (thảo luận) 14:40, ngày 19 tháng 11 năm 2018 (UTC)Trả lời

thì b Fiscalert cũng có thể viết thêm vào được mà Lengkeng91 13:07, ngày 20 tháng 11 năm 2018 (UTC)Trả lời

Trong nhà trường cũng ko dạy sâu về thời kỳ này, có dạy cũng dạy theo hướng người Pháp mang lại đau khổ cho chúng ta. Tôi không có sử liệu cũng ko đủ trình làm được như bạn nói. Fiscalert (thảo luận) 10:55, ngày 21 tháng 11 năm 2018 (UTC)Trả lời

Sự thất bại của Triều Nguyễn sửa

Sử học nên có thái độ công bằng với triều Nguyễn. Việc quy chụp triều đại này là bạc nhược, bán nước... là không công bằng. Họ đã chống Pháp suốt 30 năm nhưng không nổi nên phải đầu hàng. Họ có chống thêm 30 năm nữa thì kết cục vẫn là mất nước mà Việt Nam thì bị tàn phá. Trong hoàn cảnh bất cân xứng giữa hai nền văn minh như vậy thì chẳng còn cách nào khác là đầu hàng để bảo tồn quốc gia rồi tìm cơ hội khôi phục độc lập. Điều này cũng giống Nhật hay Đức trong thế chiến thứ 2 thôi. Roteyu (thảo luận) 16:46, ngày 10 tháng 12 năm 2018 (UTC)Trả lời

Nếu nói "chênh lệch văn minh", vậy thì cùng thời kỳ đó Etiopia đã đánh bẹp quân Ý đấy, Phùng Tử Tài đã đuổi Pháp chạy tan nát ở Lạng Sơn đấy. Chả nhẽ VN thời đó còn thổ tả hơn Etiopia. Việc lấy yếu thắng mạnh tuy khó nhưng không phải là không thể. Nếu nói địch mạnh quá, nên đầu hàng rồi tính kế về sau thì người Việt lấy đâu ra 3 lần thắng Nguyên Mông, lấy đâu ra 2 lần thắng Tống. Cao Thắng chống được Pháp suốt vài năm, chỉ bằng mấy lò rèn tay ở Hà Tĩnh mà ông đã chế được mấy ngàn khẩu súng nạp hậu kiểu mới, vậy mà cả triều Nguyễn không ai biết làm theo. Hàng triệu lạng bạc ngân khố thì chỉ biết trang trí cung điện chứ không chịu mua vũ khí mới, đã thế Tự Đức còn "tốt bụng" tới mức giúp Pháp truy đuổi nghĩa quân Trương Định thì còn đánh đấm gì nữa. Kém là kém, chiến lược sai thì phải nhìn nhận chứ bào chữa làm gìThaovodoi (thảo luận) 02:55, ngày 11 tháng 12 năm 2018 (UTC)Trả lời

Có thắng trước mắt thì về lâu dài cũng thua thôi vì Pháp hơn Vn về mọi mặt. Sai lầm của nhà Nguyễn là họ không quyết tâm mở cửa canh tân đất nước còn khi người Pháp đã xâm lược thì không có cách nào chống đỡ nổi. Bài này vẫn chưa cho thấy được nguyên nhân vì sao chúng ta thua Pháp, trở thành thuộc địa của Pháp. Cần bổ sung thêm những thông tin như tình hình kinh tế, xã hội, chính trị, quân sự dưới thời Tự Đức; xu hướng canh tân và chống canh tân; quá trình người Pháp xâm chiếm Việt Nam từ từ...Roteyu (thảo luận) 03:30, ngày 11 tháng 12 năm 2018 (UTC)Trả lời

Lịch sử VN từ thời cổ tới giờ là lịch sử lập của dân thanh nghệ tĩnh. Từ Dương Đình Nghệ, tới Lê Hoàn, Lê Lợi, Hồ Chí Minh,/...cho tới nhà Nguyễn. Lịch sử cận đại là lịch sử của dân Nghệ Tĩnh; những gì các ông đọc, nghiên cứu, ...là của dân Nghệ tĩnh tuốt, kể cả văn học như T Kiều hay Hồ Xuân Hương; sách lịch sử cũng là do dân Nghệ Viết, từ Đại Nam thực lục tới Trần Trọng Kim...

Làm cách mạng cũng dân Nghệ tĩnh tuốt.

Vì sao ? vì chỉ có dân ấy mới có đủ sức mạnh thể chất, tinh thần, và sự ĐOÀN KẾT để lập team. Còn lại các sắc dân khác chỉ làm theo, nói linh ta linh tinh thôi. Dân Nghệ là dân tổ chức Văn thân, tiêu diệt tay sai dữ dội nhất, sau lại đuổi nhóm này là rời khỏi quốc gia.

171.239.213.219 (thảo luận) 10:18, ngày 29 tháng 6 năm 2020 (UTC)Trả lời

Phát triển tiếp sửa

Bài Pháp thuộc này khá độc đáo vì nó xem nhưng bi kịch thời hiện đại của VN là hậu quả của thời Pháp thuộc trong khi các phe phái ở VN thì đổ lỗi cho nhau và cho ngoại bang. Bài này còn rất hạn chế ở chỗ nó xem người Pháp đem lại tai họa trong khi thật sự họ xây dựng khá nhiều cơ sở hạ tầng, khai hoang, sáp nhập Tây Nguyên... Người Việt đã không học hỏi được nhiều ở người Pháp để tự lực tự cường rồi đổ lỗi cho người ta. Sau này khi giành độc lập người Việt bị chia rẽ nên mới đổ nhiều máu thế trong khi các nước xung quanh giành độc lập rất nhẹ nhàng. Khi nào hết đổ lỗi thì mới khá được. Mong các bạn phát triển tiếp bài này. Hamloi23 (thảo luận) 17:05, ngày 26 tháng 5 năm 2019 (UTC)Trả lời

Hamloi23 Mọi thứ ở đời luôn có hai mặt, ai đã thông suốt chủ nghĩa thực dân thì đều rõ nó để lại cả tích cực và tiêu cực trên khắp các châu lục. Cũng giống như thời Bắc thuộc vậy, VN cũng tiếp thu mặt tiến bộ của văn minh Trung Quốc. Người Việt đánh giá gay gắt thời Pháp thuộc cũng như một người luôn nhớ về giai đoạn trong cuộc đời mà có ai đó đã gây đau khổ cho mình, thường người ta không kể về điểm tốt người khác và cũng ít nói về cái lỗi của mình.  Đ Ô N G - M I N H    17:28, ngày 26 tháng 5 năm 2019 (UTC)Trả lời

Thì đấy. Nhiều thập kỷ trôi qua rồi. Người trong cuộc chết gần hết rồi. Mọi cảm xúc lắng xuống rồi. Giờ là lúc nhìn nhận lịch sử một cách công bằng, khách quan để các thế hệ sau rút ra bài học. Hamloi23 (thảo luận) 17:31, ngày 26 tháng 5 năm 2019 (UTC)Trả lời

 
Trungda đã xóa thảo luận này của Hamloi23 vì cho rằng nó mang tính chất diễn đàn.
Việc xóa bỏ đã diễn ra vào lúc 02:55, ngày 5 tháng 8 năm 2019 (UTC). Nếu bạn muốn xem lại, xin tra ở lịch sử trang vào thời gian tương ứng.Trả lời
 
Trungda đã xóa thảo luận này của Hamloi23 vì cho rằng nó mang tính chất diễn đàn.
Việc xóa bỏ đã diễn ra vào lúc 02:55, ngày 5 tháng 8 năm 2019 (UTC). Nếu bạn muốn xem lại, xin tra ở lịch sử trang vào thời gian tương ứng.Trả lời
 
Trungda đã xóa thảo luận này của Rotire vì cho rằng nó mang tính chất diễn đàn.
Việc xóa bỏ đã diễn ra vào lúc 02:57, ngày 5 tháng 8 năm 2019 (UTC). Nếu bạn muốn xem lại, xin tra ở lịch sử trang vào thời gian tương ứng.Trả lời
 
Trungda đã xóa thảo luận này của Rotire vì cho rằng nó mang tính chất diễn đàn.
Việc xóa bỏ đã diễn ra vào lúc 02:57, ngày 5 tháng 8 năm 2019 (UTC). Nếu bạn muốn xem lại, xin tra ở lịch sử trang vào thời gian tương ứng.Trả lời

Tôi thấy các ông cứ luyên thuyên chứ ai dám đánh Pháp, diệt đám tay sai ? là dân Thanh Nghệ tĩnh, với phong trào Văn thân diệt những tay sai, rồi sau đó năm 75 họ đã đuổi tuốt đám này cho tới đám gốc Tàu .

Phong trào chống Pháp dữ dội, ác nhất là phong trào của P Đình Phùng ở Hà Tĩnh.

Rường cột lịch sử cận đại là lịch sử chống Pháp, Mĩ, và tay sai của dân Nghệ Tĩnh. Ai ra đi tìm đường cứu nước, P B Châu, Hồ Chí Minh, ....

các sinh viên học trường P Đông ở Soviet cũng đa số là Nghệ Tĩnh.

Quan điểm của các nhóm dân khác là THỨ YẾU, nó không quan trọng lắm.

Để làm 1 cái gì đó, thì phải có nhóm mạnh, có thể chất, có học vấn,...đánh nhau cũng vậy thôi, 10 ông Thanh Nghệ tĩnh tôi thấy ngẫu nhiên có thể đập tay bo được với 20 ông miền Nam.

Các ông xem phim VN war mà xem, bọn Mĩ toàn phỏng vấn ai ? toàn là dân thanh nghệ tĩnh, còn phe mà theo Pháp là dân Bắc, dân Nam. Nhà văn bảo ninh, dân Nghệ nói câu rất hay, Người Pháp có thể mang văn minh tới....nhưng người Việt Nam không cần.

thứ tinh thần ấy là thứ mà các ông không hiểu được. never hiểu được về dân Nghệ. 171.239.213.219 (thảo luận) 10:26, ngày 29 tháng 6 năm 2020 (UTC)Trả lời

171.239.213.219 (thảo luận) 10:22, ngày 29 tháng 6 năm 2020 (UTC)Trả lời

Thêm thông tin có nguồn sửa

Tôi sẽ thêm những thông tin có nguồn sau vào bài nếu không bạn nào phản đối:

Lịch sử sửa

Sau khi ký kết Hòa ước Giáp Thân (1884), nước Pháp tuyên bố rằng họ có "sứ mệnh vừa giải phóng vừa khai hóa" cho các dân tộc tại Đông Dương. Một khi ba nước Đông Dương đã hòa nhập vào đế quốc Pháp thì không nước nào có lý do chính đáng để tách ra khỏi đế quốc, đòi hỏi độc lập dân tộc bởi vì Pháp tuyên bố rằng "độc lập dân tộc sẽ khiến các quốc gia đó rơi vào tình trạng lạc hậu". Pháp tuyên bố các thuộc địa "chỉ có thể tiến bộ bên trong hệ thống Đế quốc Pháp và ngày càng có nhiều tự do cá nhân, tự do chính trị, văn hóa và thịnh vượng hơn". Mỗi cá nhân chỉ còn có thể ước vọng trở thành công dân của "Đế quốc Pháp văn minh nhất thế giới". Người Pháp chưa bao giờ có ý định trao trả độc lập cho ba nước Đông Dương, họ chỉ chấp nhận cho người bản xứ tham gia vào bộ máy hành chính và nền chính trị ở mức độ tối thiểu và ban cho các chính quyền bản xứ một ít quyền lực hạn chế.[1]

Đoạn trên đã review ở đây [2] và đã được đưa vào bài và nâng cấp ở đây [3] -Trần Thế Trungthảo luận 14:26, ngày 9 tháng 8 năm 2020 (UTC)Trả lời

Thuốc phiện là mặt hàng được Pháp công khai buôn bán, khuyến khích người Việt sử dụng chứ không bị cấm như ở chính quốc. Lợi nhuận từ thuốc phiện đã đóng góp tới 25% vào ngân sách của Pháp ở Đông Dương. Tổng ngân sách năm 1905 là 32 triệu đồng Đông Dương, trong số này nguồn thu từ độc quyền bán thuốc phiện là 8,1 triệu. Tính đến năm 1900 thì lợi nhuận Pháp thu được từ thuốc phiện đạt hơn phân nửa số tiền thu nhập của toàn Liên bang Đông Dương.[2]

Về thuế ruộng đất, Thực dân Pháp tăng cường chiếm hữu đất đai để khai thác nông nghiệp. Ở Bắc Kì, tính đến năm 1902, người Pháp đã chiếm hữu 182.000 héc ta đất trong đó có 50.000 héc ta ở các vùng trù phú nhất.[3]

Quân Pháp cũng duy trì các vụ trấn áp, hành hình những người Việt chống đối. Trong bức thư gửi về Pháp ngày 1-1-1898, 1 viên đại úy viết: “Vào hôm sau ngày xảy ra vụ manh động, (quân Pháp) cho chặt và bêu 54 cái đầu. Trong vài ngày tiếp theo, người ta đã hành hình 200 người An Nam, trong số đó có cả những đứa nhóc 14 tuổi, với cái tội là đã làm rối giấc ngủ của những vị quan cai trị của chúng ta… Tất cả những điều này thật đáng nôn mửa”[4]

Người Pháp cũng cho thiết lập một số trường lớp để thực hiện đồng hóa văn hóa, và đào tạo một nhóm người bản địa phục vụ cho Pháp. Sách vở hầu hết là do Pháp đem sang, thay vì học lịch sử Việt Nam thì học sinh lại phải học lịch sử Pháp. Có nhiều nội dung là sai đối với người Việt, nhưng học sinh vẫn cứ phải học theo. Tiêu biểu là câu "Tổ tiên chúng ta là người Gô-Loa" (Nos ancêtres sont des Gaulois) là câu học vỡ lòng của trẻ em Pháp, nhưng các trường thuộc địa do Pháp quản lý phải dạy như thế mà không được sửa, thành ra trẻ em Việt Nam lại phải nhận người Gaulois là tổ tiên của mình[5].

Khi chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, do là một thuộc địa của Pháp, Việt Nam đóng góp của cải và hàng vạn sinh mạng cho khẩu hiệu “rồng Nam phun bạc, đánh đổ Đức tặc, phục vụ chiến thắng của mẫu quốc Pháp”[6].

Sau khi người Pháp nắm được quyền kiểm soát Việt Nam, họ đã thực hiện hàng loạt các cuộc thám hiểm và chinh phục vùng đất Tây Nguyên. Trước đó, các nhà truyền giáo đã đi tiên phong lên vùng đất còn hoang sơ và chất phác này. Năm 1888, một người Pháp gốc đảo Corse tên là Mayréna sang Đông Dương, chọn Dakto làm vùng đất cát cứ và lần lượt chinh phục được các bộ lạc thiểu số. Ông thành lập Vương quốc Sedang có Quốc kỳ và phát hành giấy bạc, có cấp chức riêng và tự mình lập làm vua xưng là Marie đệ Nhất. Nhận thấy được vị trí quan trọng của vùng đất Tây Nguyên, nhân cơ hội Mayréna về châu Âu vận động xin viện trợ từ các cường quốc Tây phương, chính phủ Pháp đã đưa công sứ Quy Nhơn F. Guiomar (1889 - 1890) lên tiếp thu. Mayréna trên đường trở lại Đông Dương khi quá cảnh Tân Gia Ba thì bị nhà chức trách giữ lại. Chính phủ Pháp cũng ra lệnh cấm Mayréna nhập cảnh. Mayréna mất không lâu sau đó ở Mã Lai. Vùng Tây Nguyên kể từ năm 1889 được đặt dưới quyền quản lý của Công sứ Quy Nhơn và vương quốc Sedang cũng bị giải tán.[7]

Đoạn trên đã review ở đây [4] và đã được đưa vào bài và nâng cấp ở đây [5] -Trần Thế Trungthảo luận 14:26, ngày 9 tháng 8 năm 2020 (UTC)Trả lời

Chính trị sửa

Năm 1891, bác sĩ Alexandre Yersin mở cuộc thám hiểm và phát hiện ra Cao nguyên Lang Biang. Ông đã đề nghị với Chính phủ thuộc địa xây dựng một thành phố nghỉ mát tại đây. Nhân dịp này, người Pháp bắt đầu chú ý khai thác kinh tế đối với vùng đất này. Tuy nhiên, về danh nghĩa, vùng đất Tây Nguyên vẫn thuộc quyền kiểm soát của Triều đình Huế. Vì vậy, ngày 16 tháng 10 năm 1898, Khâm sứ Trung Kỳ là Léon Jules Pol Boulloche (1898 - 1900) đề nghị Cơ mật Viện triều Nguyễn giao cho Pháp trực tiếp phụ trách an ninh tại các cao nguyên Trung Kỳ. Năm 1898, khi vương quốc Sedang bị giải tán thì ngay năm sau (tức 1899), thực dân Pháp buộc vua Đồng Khánh ban dụ ngày 16 Tháng 10[7] trao cho họ Tây Nguyên để họ có toàn quyền tổ chức hành chính và trực tiếp cai trị các dân tộc thiểu số ở đây. Triều đình Huế chỉ giữ việc bổ nhiệm một viên quan Quản đạo có tính cách tượng trưng. Năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer đích thân thị sát Đà Lạt và quyết định chọn Đà Lạt làm thành phố nghỉ mát, bắt đầu sự can thiệp trực tiếp trên cao nguyên.

Đoạn này đã phục hồi (và chỉnh sửa) ở đây [6] -Trần Thế Trungthảo luận 05:58, ngày 16 tháng 8 năm 2020 (UTC)Trả lời

Về mặt hành chánh năm 1901 người Pháp đặt sở Đại lý ở Trà Mi, tỉnh Quảng Ngãi để quản lý toàn vùng sơn cước bốn tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình ĐịnhPhú Yên. Tuy đây chưa phải là đất Cao nguyên nhưng được dùng làm cơ sở tiếp quản dần, tách rời vùng mạn ngược với miền xuôi.[7] Năm 1907, tòa Đại lý ở Kontum đổi thành tòa Công sứ Kontum, cùng với việc thành lập các trung tâm hành chính Kontum và Cheo Reo với viên Công sứ Kontum đầu tiên là Guenot. Tiếp theo là tỉnh lỵ Pleiku ra đời, công sứ Pháp đầu tiên là Leon Plantié[7]. Năm 1923 thành lập tỉnh Darlac dưới quyền công sứ Pháp Sabatier.[7]

Đoạn này đã phục hồi (và chỉnh sửa) ở đây [7] -Trần Thế Trungthảo luận 05:58, ngày 16 tháng 8 năm 2020 (UTC)Trả lời

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, người Pháp áp dụng chính sách "chia để trị" triệt để khi thấy tình thế ngày càng bất lợi cho chế độ thực dân. Ngày 27 tháng 5 năm 1946, Cao ủy Đông Dương Georges d’Argenlieu ký văn bản thành lập Xứ Thượng Nam Đông Dương (tiếng Pháp: Pays Montagnards Du Sud Indochinois, PMSI) với quyền tự trị cho sắc dân Thượng cách biệt khỏi quyền quản lý của người Kinh ở miền xuôi.[8]

Năm 1927, những người Việt theo chủ nghĩa dân tộc thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng (giống Trung Hoa Quốc dân Đảng) với mục tiêu "Làm một cuộc cách mạng quốc gia, dùng võ lực đánh đổ chế độ thực dân phong kiến, để lập nên một nước Việt Nam Độc lập Cộng hòa. Đồng thời giúp đỡ các dân tộc bị áp bức trong công cuộc tranh đấu giành độc lập của họ, đặc biệt là các nước lân cận: Ai Lao, Cao Miên."[9]. Đến năm 1930, sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Việt Nam Quốc dân Đảng bị suy yếu nghiêm trọng, một số lãnh đạo chủ chốt của nó phải lưu vong sang Trung Quốc. Cùng năm, những người Việt theo chủ nghĩa Marx-Lenin thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Theo Điều lệ Đảng năm 1935 thì "Đảng Cộng sản Đông Dương, đội tiền phong duy nhất của vô sản giai cấp, tranh đấu để thu phục đa số quần chúng vô sản, lãnh đạo nông dân lao động và tất thảy quần chúng lao động khác, chỉ huy họ làm cách mạng phản đế và điền địa (mưu cho Đông Dương được hoàn toàn độc lập, dân cày được ruộng đất, các dân tộc thiểu số được giải phóng), lập chính quyền Xô viết công nông binh, đặng dự bị điều kiện tranh đấu thực hiện vô sản chuyên chính, kiến thiết xã hội chủ nghĩa là thời kỳ đầu của cộng sản chủ nghĩa theo chương trình của Quốc tế Cộng sản.". Đảng Cộng sản Đông Dương mau chóng trở thành mục tiêu tiêu diệt của Pháp khi bùng nổ cao trào cách mạng năm 1930-1931 mặc dù tổ chức của họ thân thiện với Mặt trận Bình dân cánh tả trong chính quyền Pháp (khi phe Mặt trận Bình dân nắm quyền thì Pháp ân xá một số tù nhân chính trị, nhưng khi phe cánh hữu nắm quyền thì chính sách của Pháp lại trở về như cũ). Người Pháp không ngừng tuyên truyền Đảng Cộng sản Đông Dương là tay sai của Quốc tế Cộng sản đang tìm cách nổi dậy chống lại Pháp và làm suy yếu phương Tây.[10]

Đoạn này đã phục hồi (và chỉnh sửa) ở đây [8] -Trần Thế Trungthảo luận 06:29, ngày 16 tháng 8 năm 2020 (UTC)Trả lời

Kinh tế sửa

Dưới thời Pháp thuộc, phương thức canh tác nông nghiệp không thay đổi trong hàng ngàn năm, quan hệ sản xuất tại nông thôn vẫn là quan hệ địa chủ - tá điền. Ngoài ra còn có thêm việc chiếm hữu diện tích lớn đất đai của thực dân Pháp và giáo hội Thiên Chúa giáo. Ở Bắc Kì, tính đến năm 1902, người Pháp đã chiếm hữu 182.000 héc ta đất trong đó có 50.000 héc ta ở các vùng trù phú nhất.[3] Sau khi chiếm đất, thực dân Pháp chủ yếu vẫn áp dụng phương pháp phát canh thu tô. Một số tư bản thực dân có kinh doanh trong những sở đồn điền mới theo lối tư bản chủ nghĩa, nhưng số này ít, chủ yếu là nhằm tận dụng nhân công rẻ mạt. Ngoài địa chủ Pháp, giáo hội Thiên Chúa chỉ riêng ở Nam Kỳ đã sở hữu 1/4 diện tích đất canh tác.[3] Theo thống kê phân bố ruộng đất ở miền Bắc trước năm 1945, chỉ có 4% dân số đã chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất.[3] Còn lại phần lớn nông dân nghèo thì không có hoặc chỉ có rất ít đất canh tác. Đầu năm 1945, nông dân chiếm 95% dân số Việt Nam nhưng làm chủ không quá 30% diện tích ruộng đất. Riêng tầng lớp nông dân nghèo (không có hoặc chỉ có rất ít ruộng đất) chiếm 60% dân số nông thôn, nhưng chỉ có khoảng 10% ruộng đất. Còn giai cấp địa chủ chiếm không tới 5% dân số nhưng chiếm hữu 70% ruộng đất.[11]

Cơ cấu giai cấp nông dân vận động theo hướng bần nông, cố nông ngày càng khốn khó; trung nông ổn định tương đối; địa chủ thì mở rộng sự chiếm hữu. Cuộc sống của nông dân Việt Nam phụ thuộc vào ruộng vườn, nhưng do việc địa chủ chiếm hữu ngày càng nhiều ruộng đất, diện tích đất canh tác bình quân ngày càng giảm, đến năm 1945 chỉ còn mức 0,18 ha (Thanh Hoá), 0,17 ha (Hà Tĩnh), 0,12 ha (Nghệ An); sản lượng lúa tính theo đầu người cũng giảm theo, trung bình chỉ còn 1,2 tạ/người/năm. Nông dân bị bần cùng hoá nhanh hơn bởi vì sự chuyển biến của nông nghiệp không theo kịp đà tăng dân số, phân chia ruộng đất bất bình đẳng. Diện tích gieo trồng tính theo đầu người ở bắc trung kỳ đã giảm 5 lần tính từ thời vua Tự Đức đến năm 1945 (ở mức 1 mẫu/người xuống mức 2 sào/người). Sản lượng lúa theo đầu người giảm một nửa tính từ những năm đầu thế kỷ 20 đến năm 1945 (ở mức 3,2 tạ/người/năm xuống 1,7 tạ/người/năm ở Thanh Hoá; 1,6 tạ/người/năm xuống 0,8 tạ/người/năm ở Nghệ An).[12] Tại Nam Kỳ, đất đai phì nhiêu nhưng nông dân chỉ vừa đủ ăn. Trung bình điền chủ thâu 80% số lúa thu hoạch được. Trung bình đất tốt được 1600kg lúa mỗi mẫu, đất xấu khoảng 1000kg. Mỗi người tiêu thụ khoảng 200kg, không kể để làm rượu, chăn nuôi, thì tá điền chỉ còn đủ lúa để mua sắm ăn chơi trong mấy ngày Tết rồi ra giêng thì bắt đầu vay nợ mới. Ngay từ cuối những năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã mô tả nông dân Việt Nam như sau: “Ruộng bị Tây chiếm hết, không đủ mà cày. Gạo bị nó chở hết, không đủ mà ăn. Làm nhiều, được ít, thuế nặng... Đến nỗi chết đói, hoặc bán vợ đợ con, hoặc đem thân làm nô lệ như những người nó chở đi Tân thế giới...” [13]. Miền Bắc Việt Nam thường rơi vào tình trạng đói kém khi mất mùa hoặc gặp thiên tai, lũ lụt. Trong nạn đói năm Ất Dậu làm 2 triệu người chết, tỷ lệ chết đói cao nhất là những nông dân không có đất canh tác.

Ở Nam Kỳ, người Pháp sớm nhận thấy tiềm năng thu lợi nhuận từ nông nghiệp của vùng này[14]. Tại đây, tính đến năm 1936, Pháp đã đào được 1360 km kênh chính, 2500 km kênh phụ với kinh phí lên đến 58 triệu Franc. Hệ thống kênh đào được thực hiện trong khoảng 80 năm ở Nam Kỳ đã làm thay đổi hẳn diện mạo nông nghiệp ở Đồng bằng Sông Cửu Long khiến diện tích đất canh tác được mở rộng, sản lượng lúa mỗi ngày một tăng, hình thành nên thị trường hàng hóa nông nghiệp. Giao thông vận tải cũng phát huy hiệu quả qua hệ thống đường thủy.[15] Người Pháp thúc đẩy việc khai khẩn rừng tràm, đồng cỏ và các vùng đất thấp ở Nam Kỳ như Long Xuyên, Châu ĐốcĐồng Tháp Mười[16]. Trong nửa thế kỷ (1880-1937), diện tích trồng lúa tăng lên 420% (1880: 522.000 mẫu; 1937: 2,2 triệu mẫu), số lúa xuất cảng tăng lên 545% (1880 : 284.000 tấn; 1937: 1,5 triệu tấn), số dân tăng 260% (1880: 1,7 triệu, 1937: 4,5 triệu)[17]. Những quan chức người Việt cộng tác với thực dân Pháp chiếm hữu được nhiều ruộng đất nhất. Tứ đại phú hộ ở Nam Kỳ thời đó đều là quan chức người Việt cộng tác với thực dân Pháp, họ được thực dân Pháp ưu tiên cấp cho những khu đất rộng và tốt nhất, lại được biết những thông tin về việc đào kênh mương nên biết rõ mua đất ở đâu là thuận lợi nhất. Thực dân Pháp thu được 235 triệu Franc (trong lúc tiền đầu tư chỉ 54 triệu Franc) tiền bán đất cho các điền chủ người Pháp và người Việt, trong đó giới điền chủ lớn đã chiếm 1.035.000 ha (riêng quan hội đồng Trần Trinh Trạch - cha công tử Bạc Liêu chiếm 145.000 ha), trong đó điền chủ người Pháp chiếm 308.000 ha ruộng tốt, gần sông rạch, điền chủ nhỏ từ 10-50 ha chiếm 620.000 ha, quan xã, thôn ấp chiếm 230.000 ha. Còn lại hơn 4 triệu nhân khẩu nông dân chỉ chia nhau hơn 500.000 ha[14].

Đoạn trên đã phục hồi và có sửa (rút gọn lại) ở một số chỗ. -Trần Thế Trungthảo luận 16:07, ngày 5 tháng 9 năm 2020 (UTC)Trả lời

Ở Bắc bộ thì tình hình lại xấu hơn nhiều. Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc (1884-1945), người Pháp vẫn không thể trị thủy sông Hồng. Do các lần vỡ đê vào các năm 1893, 1899, 1904, 1905, 1911, 1913 và khủng khiếp nhất là năm 1915, khiến cho Bắc bộ điêu tàn. Năm 1915, 4 tỉnh hữu ngạn sông Hồng (Hà Nội, Hà Đông, Ninh Bình, Nam Định) bị lụt suốt 3 tháng, diện tích lúa mất trắng lên tới 221.000 ha, 200 người bị chết đuối. Năm 1926 vỡ đê sông Hồng, sông Luộc, sông Tiên Lãng, trong lúc mực nước mới đạt 11,92 m. Giai đoạn 1927-1944 đê sông Hồng không vỡ, nhưng năm 1936 vỡ đê sông Đuống do nguyên nhân chủ quan. Năm 1941, 1942 đập Đáy tiếp tục được thử với lũ nhỏ nhưng lần nào cũng xảy ra sự cố. Việc phân lũ qua sông Đáy bị quên lãng cho đến cách mạng tháng Tám[14]. Sau Cách mạng tháng 8, ngày 11/10/1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam họp phiên toàn thể về tu bổ đê, quyết dốc ngân khố kêu gọi nhân dân góp tiền của và công sức sửa sang đê. Nhưng quân Pháp quay lại tấn công, Mật lệnh 48/ZN ngày 11/1/1952 của Vullemey, chỉ huy quân viễn chinh Pháp lệnh “Phải phá một cách có hệ thống các đập nước và tất cả các phương tiện tưới ruộng”. Cho đến năm 1954, hệ thống thủy nông toàn miền Bắc hầu như bị phá hủy, làm cho nạn lụt lội, hạn hán các năm 1952, 1953, 1954 rất trầm trọng, diện tích tưới từ 227.500 ha tụt xuống chỉ còn 26.200 ha[18].

Năm 1904, Pháp bắt đầu trồng cao su ở Nam Kỳ với quy mô lớn. Năm 1918, Pháp sở hữu một diện tích đất 184.700 ha ở Nam Kỳ trong đó có 7000 ha dùng trồng cao su. Trong 25 năm, số diện tích canh tác tăng gấp đôi và sản lượng tăng lên gấp 20 lần: năm 1920 : 70000 mẫu đồn điền, 3000 tấn cao su; 1930 : 80000 mẫu, 8000 tấn; 1940 : 97300 mẫu, 58000 tấn; 1945 : 138400 mẫu, 77400 tấn. Đồn điền cao su ở miền Đông Nam Kỳ tập trung trong tay 5 đại công ty của Pháp. Ngoài các công ty lớn do Pháp làm chủ còn có độ 60 đồn điền cao su nhỏ, diện tích trên dưới 100 mẫu của người Việt. Từ khi khai thác cao su ở Nam Kỳ, số xuất cảng cao su ở Nam Kỳ đã chiếm một tỷ lệ quan trọng trong tổng giá trị xuất cảng ở Đông Dương: năm 1936 chiếm 14,3%, năm 1937 : 18%, năm 1939 : 27,4%. Trong vòng 10 năm (1928-1939) trị giá cao su xuất cảng đã tăng lên gấp 7 lần, từ 11 triệu quan năm 1928 lên đến 96 triệu năm 1939.[19]

Chính sách bóc lột nhân công biểu hiện rõ trong việc khai thác đồn điền cao su. Năm 1939, 19 công ty cao su Đông Dương lời được 309 triệu quan, trong khi số lương trả cho nhân công chỉ 40 triệu.[20] Bị bóc lột và đói khổ, công nhân cao su bỏ trốn quay trở về quê do đó nhu cầu mộ phu là vấn đế cấp thiết. Mỗi công nhân được tuyển dụng, người mộ phu sẽ được trả từ 10 đến 20 đồng khiến người ta thực hiện cưỡng ép tại một số vùng nông thôn tạo ra sự bất bình mà điển hình là vụ ám sát người chuyên mộ phu cao su René Bazin năm 1929 đã khiến hơn 200 đảng viên Quốc Dân Đảng bị bắt giam và 76 người bị cầm tù. Des Rousseaux trong một báo cáo mật gởi cho Toàn Quyền Đông Dương viết "Người nông dân chỉ chấp nhận rời khỏi làng đi làm việc nơi khác là khi nào họ bị đói. Do đó phải đi đến kết luận lạ lùng cho phương thuốc thiếu nhân công [ở đồn điền] là phải bần cùng hóa nông thôn, rút bỏ các khoản trợ cấp, hạ giá nông sản...[21]".

Sau khi thực dân Pháp thiết lập nền cai trị tại Việt Nam, đầu thế kỷ XX, các công ty Pháp bắt đầu xây dựng một số cơ sở công nghiệp trong các ngành khai khoáng, cơ khí, rồi đến hệ thống công nghiệp dịch vụ và công nghiệp chế biến. Công nghiệp phát triển trên năm lĩnh vực chủ yếu: khai thác mỏ, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí vận tải, và cuối cùng là các ngành công nghiệp chế biến.[22]

Khai thác than đá là ngành công nghiệp dẫn đầu ở Việt Nam. Trong những năm cuối của thế kỷ XIX, số công nhân mỏ trên 4.000 người. Kỹ thuật khai thác chủ yếu còn là thủ công với sản lượng khoảng 10.000-12.000 tấn/năm. Đến năm 1913, sản lượng than đã tăng gấp 5, đạt tới nửa triệu tấn. Từ khi Đại chiến thế giới lần thứ nhất kết thúc, sản lượng than đạt 3-4 triệu tấn/năm. Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế 1929-1930, sản lượng than giảm xuống dưới mức 2 triệu tấn và chỉ tăng dần trở lại vào giữa thập kỷ 30. Năm 1937 đạt 2.308.000 tấn, 1939 đạt 2.615.000 tấn. Đa số than khai thác ra được xuất khẩu. Từ sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất, tỷ lệ than sử dụng trong nước tăng lên. Đến năm 1939, tỷ lệ than xuất khẩu trong tổng sản lượng than vẫn còn ở mức 68%, trong đó khoảng 10-20% là xuất khẩu sang Pháp, phần còn lại xuất cho các nước thuộc Viễn Đông.[22]

Sau than là kẽm và thiếc, hai thứ này chiếm khoảng 10% tổng giá trị sản lượng công nghiệp khai thác mỏ của Pháp ở Đông Dương. Đến năm 1936, sản lượng thiếc đã đạt tới 2.416 tấn/năm. Năm 1926, sản lượng kẽm đã đạt tới 62.000 tấn. Tới năm 1929, kẽm chiếm tới 9,7% trong tổng giá trị công nghiệp ở Đông Dương. Nhưng về sau, do giá kẽm trên thị trường thế giới giảm liên tục, nên việc khai thác kẽm sa sút dần. Việc khai thác các kim loại khác, ngoài kẽm và thiếc, không có gì đáng kể: đó là những mỏ crôm, kền ở Thanh Hoá, mỏ bạc ở Ngân Sơn, mỏ đồng ở Vạn Tài, mỏ sắt ở Linh Nham và Na Dương. Mỏ vàng ở Bồng Miêu đã từng có thời kỳ Pháp khai thác được khoảng 100 kg/năm, nhưng sau một số năm thì vàng cạn kiệt, chi phí khai thác quá tốn kém, không có lãi, nên mỏ này cũng ngừng hoạt động.[22]

Ngành khai thác khoáng sản tăng lên nhanh chóng vào sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất và đạt tới đỉnh cao là 18 triệu đồng tiền Đông Dương vào năm 1929. Nhưng sau đó, do khủng hoảng kinh tế thế giới, nó giảm sút nghiêm trọng, còn hơn một nửa. Đến cuối thập kỷ 30 và đầu thập niên 40 của thế kỷ XX, nó đạt lên đỉnh cao nhất, khoảng 30 triệu đồng. Trước tình hình chiến sự ở Đông Dương, đặc biệt là sự khống chế của quân đội Nhật, việc khai thác mỏ của người Pháp cũng giảm sút nghiêm trọng, xuống còn 14 triệu đồng năm 1944 và hơn 4 triệu đồng năm 1945.[22]

Sau khi Pháp chiếm Bắc kỳ thì ngành công nghiệp vật liệu xây dựng mới phát triển mạnh. Cơ sở quan trọng đầu tiên là Nhà máy Xi măng Hải Phòng do Công ty Xi măng Portland nhân tạo Đông Dương xây dựng năm 1894 với 4 lò quay. Ngành sản xuất gạch và ngói được phân tán hầu như ở tất cả các tỉnh miền Bắc và miền Trung. Tuy nhiên, cũng có những nhà máy lớn, nổi tiếng ở Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Đáp Cầu, Biên Hoà...[22]

Những nhà máy cơ khí vận tải cũng hình thành như nhà máy đóng tàu biển Bason, những nhà máy sửa chữa và chế tạo toa xe lửa ở Gia Lâm, Vinh, Sài Gòn, một số nhà máy lắp ráp và sửa chữa ô tô như Avia, Star ở Hà Nội...[22]

Công nghiệp chế biến của Pháp ở Việt Nam về cơ bản là công nghiệp chế biến nông sản và lâm sản. Trong công nghiệp chế biến nông sản, ngành xay xát lúa gạo chiếm vị trí quan trọng nhất và cũng ra đời sớm nhất. Nhà máy xay xát đầu tiên được xây dựng tại Chợ Lớn vào năm 1870. Đến năm 1885, khắp Nam bộ đã có tới 200 xưởng xay xát. Đi kèm với nó là các nhà máy dệt bao đay, sữa chữa máy móc, xe cộ, thuyền bè... Đi đôi với ngành công nghiệp xay xát, có ngành công nghiệp nấu rượu nhằm giải quyết nhu cầu ngân sách cho chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương. Nấu rượu là độc quyền của chính quyền thuộc địa. Chỉ một hãng rượu Đông Dương tại Hà Nội đã xây dựng tới 4 nhà máy vào năm 1901, mỗi tháng dùng khoảng 3.000 tấn gạo để nấu rượu. Ngành công nghiệp đường cũng được phát triển. Đến năm 1923, Công ty tinh lọc đường đã xây dựng nhiều nhà máy sản xuất đường ở cả ba miền Bắc - Trung - Nam. Đến năm 1938, sản lượng đường đã lên tới 10.000 tấn. Pháp còn xây dựng một số nhà máy bia khá lớn. Ở Nam kỳ, Hãng Victor Larue có tới 14 nhà máy. Ở Bắc kỳ, Công ty Bia Hommel đã xây dựng một nhà máy lớn ở Hà Nội, vừa sản xuất bia, vừa sản xuất nước đá và nước có ga.[22]

Ngành công nghiệp nhẹ lớn nhất của Pháp ở Việt Nam là ngành công nghiệp dệt. Nhà máy dệt đầu tiên được xây dựng vào năm 1890, tại miền Nam. Đến năm 1900, A.Dadre và Dupré lập ra ở Nam Định một nhà máy dệt lớn, đứng hàng thứ 3 trong số 269 công ty của Pháp, đạt lợi nhuận tới 52.000.000 FF năm 1939. Từ năm 1903, cũng đã xuất hiện ngành công nghiệp tơ lụa. Những nhà máy đầu tiên sản xuất lụa được lập ra ở Trung kỳ, chủ yếu ở Quảng Nam. Ở Bắc kỳ, cũng thời kì này, Dadre đã xây dựng một nhà máy tơ ở Nam Định. Tất cả những sản phẩm của nhà máy tơ lụa đều được xuất khẩu sang Pháp.[22]

Công nghiệp chế biến lâm sản bắt đầu phát triển từ đầu thế kỉ XX. Ba ngành quan trọng nhất thuộc lĩnh vực này là giấy, gỗ và diêm. Đến thập kỷ 1930 đã xuất khẩu sang các thị trường Hồng Kông, Singapore, Nhật. Từ năm 1913, Pháp đã thành lập Công ty Giấy Đông Dương. Công ty này có hai nhà máy Nhà máy Giấy Việt Trì và Nhà máy Giấy Đáp Cầu, sản xuất nhiều loại giấy khác nhau, như giấy viết, giấy in báo, bìa carton,… Năm 1891, Pháp xây dựng một nhà máy sản xuất diêm đầu tiên ở Hà Nội. Đến năm 1897, Pháp lập một nhà máy diêm lớn hơn tại Bến Thuỷ (Nghệ An). Đến năm 1899, Schneider lập thêm một xưởng nữa ở Hà Nội.[22]

Ngoài những lĩnh vực công nghiệp kể trên, Pháp còn mở một số ngành công nghiệp khác khác nữa, nhưng quy mô không lớn, vì nhu cầu của xã hội về các mặt hàng này còn thấp: Nhà máy sản xuất xà phòng ở Hải Phòng xây dựng năm 1899; Xưởng in của Schneider tại Hà Nội sử dụng 150 công nhân, cũng lập ra năm 1899; Các nhà máy thủy tinh, chủ yếu là làm kính và vỏ chai lập ra ở Hải Phòng, Nam Định, Hà Nội, Sài Gòn.[22] Các dịch vụ như điện, nước... thời kỳ này phát triển tương đối chậm, lệ thuộc nhiều vào sự hình thành các đô thị[22].

Công nghiệp bản xứ của Việt Nam phần lớn hoạt động trong ngành chế biến, với những xí nghiệp vừa và nhỏ, chiếm tỷ lệ nhỏ bé trong tổng số vốn đầu tư, trong sản lượng công nghiệp, số lao động sử dụng cũng rất ít. Người Việt chiếm lĩnh một số lĩnh vực mà Pháp và Hoa kiều ít đặt chân tới, đó là sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ cho người Việt. Phần lớn các nhà kinh doanh công nghiệp Việt Nam cũng đồng thời là những người có đầu óc dân tộc, yêu nước, có những hoạt động xã hội.[22] Thủ công nghiệp Việt Nam từng có quá khứ huy hoàng nhưng đã suy tàn nên được Pháp khuyến khích và khai thác. Các nghề thủ công có những khiếm khuyết như thiếu công nghệ hiện đại, thiếu tính sáng tạo, nhàm chán, lặp lại và đặc biệt không phù hợp với thị hiếu Châu Âu. Chính quyền thuộc địa chủ trương củng cố những nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống bằng cách đào tạo lao động tại chỗ, cải thiện chất lượng sản phẩm để có thể dễ dàng tiêu thụ. Nhiều khoá tập huấn nghề đã được thực hiện ở các tỉnh Hà Đông, Nam Định, Bắc Ninh, Hà Nội. Tuy nhiên, ứng dụng công nghệ mới vẫn hạn chế khiến năng suất lao động thấp.[23]

Mức đầu tư của tư bản Pháp, từ 1924 đến 1939, vào ngành thương mại là 421 triệu france Pháp, chiếm 5,6% tổng số đầu tư tư nhân Pháp tại Việt Nam. Số tư bản này chủ yếu trong các lĩnh vực nhập khẩu và xuất khẩu, mà trước hết là xuất, nhập khẩu với chính quốc và với các thuộc địa Pháp. Trong giai đoạn đầu, hoạt động thương nghiệp của Pháp chủ yếu tập trung ở các thương cảng: các tàu Pháp đem hàng vào bán, rồi thông qua các đại lý mua hàng để xuất khẩu.[22]

Ngoài việc kinh doanh xuất nhập khẩu, Pháp độc quyền kinh doanh đối với 3 sản phẩm quan trọng là muối, rượu, thuốc phiện để nâng giá 3 mặt hàng này lên rất cao, rồi thông qua độc quyền, hoặc cưỡng bức tiêu thụ để thu tiền cho ngân sách. Cách kinh doanh theo lối độc quyền của chính phủ thực dân dựa trên nhu cầu của dân bản xứ để bòn rút họ: một thói hư - thuốc phiện, một thói quen - rượu, một nhu cầu cơ bản - muối đã tạo ra nhiều lãi và đóng góp tới 60-70% tổng thu ngân sách.[22]

Người Hoa đóng vai trò đáng kể trong việc nhập cảng và tiêu thụ nội địa. Về xuất khẩu, người Hoa chiếm phần lớn nhất trong việc thu gom, xay giã và xuất khẩu lúa gạo mà Chợ Lớn là trung tâm qui tụ nguồn lúa gạo của toàn đồng bằng Nam Bộ. Về nhập khẩu, người Hoa gần như độc quyền trong việc nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng từ Nhật Bản, Singapore, nhất là từ Hồng Kông và Thượng Hải, gồm vải vóc, thực phẩm, dụng cụ gia đình, nến, giấy, bút mực, diêm, giầy dép, quần áo... là những thứ mà Pháp không quan tâm, hoặc có kinh doanh nhưng giá đắt hơn do chí phí vận tải quá lớn.[22]

Ba mươi năm đầu tiên của thế kỷ XX, để thực hiện chính sách khai thác thuộc địa, Pháp đã xây dựng một hệ thống đường sắt từ Bắc vào Nam nhằm phục vụ công cuộc cai trị và khai thác thuộc địa của họ.[24] Đến năm 1936, người Pháp xây dựng xong đường sắt Bắc Nam với tổng chiều dài 2600 km[25]. Đến năm 1912 người Pháp tiến hành xây dựng hệ thống đường bộ cho Đông Dương, trong đó chủ yếu là Việt Nam. Từ đó Việt Nam hình thành 3 loại đường bộ gồm: Đường thuộc địa – Trục đường quan trọng của quốc gia và xuyên Đông Dương. Đường thuộc Xứ -Trục đường trong phạm vi 3 xứ (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ) và đường nối 3 xứ.[25] Từ 1900 đến 1935, Pháp đã sử dụng 145 triệu franc để lập đường xe lửa và 45 triệu franc để mở mang đường sá[26]. Đường thiên lý Bắc Nam được xây dựng dưới triều Nguyễn được người Pháp nâng cấp, mở rộng, gọi là đường thuộc địa số 1. Cùng với xây dựng đường số 1, dài khoảng 2000km, các trục đường thuộc địa khác cũng được xây dựng như các trục đường số 2,3,4,5,6 ..ở miền Bắc; trục đường: 7,8,9,11,12 (cũ),14... ở miền Trung và các trục đường 13, 15,16,51, 20, 21 (cũ), 22, Sài Gòn – Cà Mau (đường số 1 kéo dài)... Đến năm 1919 người pháp đã xây dựng 21 con đường thuộc địa. Tổng chiều dài các đường thuộc địa khác ngoài đường số 1 là khoảng trên 6.600km được rải đá. Các trục đường bộ song song với các tuyến đường sắt được nâng cấp, trở thành các trục đường liên tỉnh như: Đường 2, đường 70 ( Hà Nội - Tuyên Quang- Lao Cai) đường 3 ( Hà Nội -Thái Nguyên – Cao Bằng), đường 5 (Hà Nội - Hải Phòng). Hàng trăm cây cầu kiên cố cũng được xây dựng, trong đó có các cầu lớn như Cầu Bình Lợi (Sài Gòn) cầu Gềnh (Đồng Nai), Đà Ràng (Tuy Hòa), cầu Bạch Hổ (Huế): cầu Hàm Rồng (Thanh Hóa), Cầu Long Biên (Hà Nội)... Pháp cũng xây dựng các trục đường tỉnh và vươn tới nhưng vùng xa xôi hẻo lánh, có các mỏ quặng, than đá và vùng biên giới. Điển hình là các trục đường: Hà Nội- Cao Bằng, Việt Trì- Tuyên Quang, Vinh- Sầm Nưa. Đầu thế kỷ 20, Pháp đã làm được 20.000km đường bộ. Đến năm 1930, Pháp đã mở được 15.000 km đường bộ, trong đó khoảng 2.000 km đường rải nhựa. Năm 1945, Việt Nam có khoảng 11 sân bay, bao gồm: Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng, Gia Lâm, Cát Bi, Bạch Mai, Đồng Hới, Huế, Nha Trang, Cà Mau, Phan Thiết, Sóc Trăng...[25] Ngoài ra họ còn thiết lập hệ thống điện tín, hệ thống cảng biển, cảng sông với các cảng nổi tiếng, có quy mô lớn trong khu vực thời bấy giờ như Cảng Sài Gòn, Cảng Hải Phòng. Tóm lại, dưới thời Pháp thuộc, từ năm 1890 đến năm 1945, Việt Nam có một giai đoạn phát triển hạ tầng giao thông toàn diện và cơ bản nhất trên quy mô toàn quốc với các loại hình: đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông và cảng hàng không...phục vụ cho các hoạt động giao thương cho những năm sau này ở Việt Nam[25].

Bên cạnh đó người Pháp còn xây dựng các thành phố lớn từ những đô thị có sẵn như Hà Nội, Sài Gòn hay thành lập mới như Hải Phòng, Đà Nẵng... Ngày 19 tháng 7 năm 1888, Tổng thống Pháp Sadi Carnot ký sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội. Thành phố Hà Nội lúc này có diện tích nhỏ bao gồm 2 huyện Thọ Xương và huyện Vĩnh Thuận thuộc phủ Hoài Đức. Phạm vi thành phố bó hẹp nằm trong khu vực Phố Huế, Đại Cồ Việt, Khâm Thiên, Giảng Võ, Đường Thụy Khuê, Hồ Tây đến cầu Long Biên. Năm 1902, Hà Nội trở thành thủ đô của Liên bang Đông Dương và được người Pháp xây dựng, quy hoạch lại, được mệnh danh là Tiểu Paris phương Đông thời bấy giờ. Nhờ sự quy hoạch của người Pháp, thành phố dần có được bộ mặt mới. Lũy thành thời Nguyễn dần bị triệt hạ, đến năm 1897 hầu như bị phá hủy hoàn toàn,[27] chỉ còn lại Cột Cờ, Cửa Bắc với vết đạn năm 1873, Đoan Môn và lan can rồng đá ở trong hoàng thành cũ. Năm 1901, các công trình phủ Thống sứ, Nhà bưu điện, Kho bạc, Nhà đốc lý, Nhà hát lớn, Cầu Long Biên, Ga Hà Nội, những quảng trường, bệnh viện... được xây dựng. Hà Nội cũng có thêm trường đua ngựa, các nhà thờ Cơ Đốc giáo, trường Đại học Y khoa, Đại học Đông dương, Đại học Mỹ thuật, các trường Cao đẳng Pháp lý, Nông lâm cùng những nhà máy sản xuất rượu bia, diêm, hàng dệt, điện, nước... Khi những nhà tư bản người Pháp tới Hà Nội ngày một nhiều hơn, các rạp chiếu phim, nhà hát, khách sạn... dần xuất hiện, những con phố cũng thay đổi để phù hợp với tầng lớp dân cư mới.[28] Vào năm 1921, toàn thành phố có khoảng 4.000 dân châu Âu và 100.000 dân bản địa.[29]

Năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần cho một số nhóm người Hoa tị nạn triều Mãn Thanh tới Mỹ Tho, Biên Hòa và Sài Gòn để lánh nạn[30]. Đến năm 1698, chúa Nguyễn sai tướng Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý miền Nam. Trên cơ sở những lưu dân Việt đã tự phát tới khu vực này trước đó, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định và hai huyện Phước Long, Tân Bình. Vùng Đông Nam Bộ được sáp nhập vào cương vực Việt Nam.[31] Thời điểm ban đầu này, khu vực Biên Hòa, Gia Định có khoảng 10.000 hộ với 200.000 khẩu. Công cuộc khai hoang được tiến hành theo những phương thức mới, mang lại hiệu quả hơn. Cuối thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18, Mỹ ThoCù lao Phố là hai trung tâm thương mại lớn nhất Nam Bộ. Tuy nhiên, cuối thế kỷ 18, sau các biến loạnchiến tranh, thương nhân dần chuyển về vùng Chợ Lớn. Khu vực Sài Gòn dần trở thành trung tâm kinh tế lớn nhất Nam Bộ. Năm 1802, sau khi chiến thắng Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi và đẩy mạnh công cuộc khai khẩn miền Nam. Miền Nam được chia thành 5 trấn, gọi là "Gia Định ngũ trấn". Ngay sau khi chiếm được thành Gia Định vào năm 1859, thực dân Pháp gấp rút quy hoạch lại Sài Gòn thành một đô thị lớn phục vụ mục đích khai thác thuộc địa. Đồ án thiết kế được Phó Đô đốc Pháp là Page (về sau là Charner) cử trung tá công binh Pháp là Paul Florent Lucien Coffyn (20/5/1810 – 5/8/1871), nguyên Lãnh sự Pháp ở Hoa Kỳ, thiết kế. Theo bản đồ của Coffyn được công bố vào ngày 13/5/1862, quy hoạch ban đầu của Sài Gòn bao gồm cả tỉnh Chợ Lớn với khoảng 500.000 dân (Saigon ville de 500.000 âmes), tức khoảng 20.000 dân/km²[32]. Quy hoạch này tương ứng với quy hoạch khu vực phòng thủ của tướng Nguyễn Cửu Đàm năm 1772, khi dân số Sài Gòn chỉ khoảng 20.000–30.000 người[32]. Nhưng đến 1864, nhận thấy diện tích dự kiến của thành phố quá rộng, khó bảo đảm về an ninh, Soái phủ Pháp ở Nam Kỳ (Gouverneur Amiral de la Cochinchine) lúc đó là Chuẩn đô đốc Pierre Rose quyết định tách Chợ Lớn khỏi Sài Gòn. Ngày 3/10/1865, Pierre Rose ra lệnh quy hoạch lại Sài Gòn chỉ còn là khu vực nằm giữa rạch Thị Nghè, sông Sài Gòn, rạch Bến Nghé và đường mới khu cầu Ông Lãnh hiện nay. Toàn bộ quy hoạch chỉ còn rộng khoảng 3 km²[32]. Rất nhanh chóng, các công trình quan trọng của thành phố, như Dinh Thống đốc Nam Kỳ, Dinh Toàn quyền, được Pháp thiết kế và huy động nhân công xây dựng. Sau 2 năm người Pháp xây dựng và cải tạo, khu quy hoạch rộng khoảng 3 km² nói trên đã hoàn toàn thay đổi.[33] Thành phố Sài Gòn khi đó được thiết kế theo mô hình châu Âu, nơi đặt văn phòng nhiều cơ quan công vụ như: dinh thống đốc, nha giám đốc nội vụ, tòa án, tòa thượng thẩm, tòa sơ thẩm, tòa án thương mại, tòa giám mục,... Nam Kỳ Lục tỉnhthuộc địa của Pháp và Sài Gòn nằm trong tỉnh Gia Định.

Năm 1911, tổng số thuế Pháp thu về là 4,8 triệu đồng; năm 1920 là 6,2 triệu đồng, năm 1930 là 10 triệu đồng[34].

Văn hóa, giáo dục sửa

Học giả Trần Trọng Kim nhận định "Xét ra cho kỹ, sự bỏ cũ theo mới của ta hiện thời bây giờ không phải là không cần cấp, nhưng vì người mình nông nổi, không suy nghĩ cho chín, chưa gì đã đem phá hoại cả đi, thành thử cái xấu, cái dở của mình thì vị tất đã bỏ đi được, mà lại làm hỏng mất cái phần tinh túy đã giữ cho xã hội của ta được vững bền hàng mấy nghìn năm nay. Phàm người ta muốn bỏ cái cũ đã hẩm nát, tất là phải có cái mới tốt hơn, đẹp hơn để thay vào. Nay ta chưa có cái mới mà đã vội vàng bỏ cái cũ đi, thành ra đổ nát cả, mà không có cái gì thay vào được. Ấy là cái tình trạng nước ta ngày nay là thế, khác nào như chiếc thuyền đi ra giữa biển, đánh mất địa bàn chỉ nam, không biết phương hướng nào mà đi cho phải đường, cứ lênh đênh mãi, không khéo lại bị sóng gió va vào đá vỡ tan mất cả[35]".

Tuy nhiên, khác với Nhật Bản, người Việt cũng không có ý thức học Pháp đến nơi đến chốn để canh tân quốc gia, tự lực tự cường. Phan Châu Trinh nói về điều này "Nước ta từ ngày Pháp sang bảo hộ trên mấy mươi năm, người mình học Tây học chỉ làm được việc phiên dịch nói phô mà thôi, không có ai hấp thu được chỗ tinh túy, phăn tìm đến nơi màu nhiệm về mà đào tạo ra học trò để làm việc vẻ vang cho nòi giống. Trái lại, bụng không một hạt gạo mà nói chuyện thi thư, tay không nửa đồng mà tự xưng Khổng Mạnh. Có lẽ da thịt huyết tủy của người nước mình mấy ngàn năm nay đã bị cái hấp lực của huyết dẫn người Tàu chi phối hết cả, nên ngày nay đành làm nộm rối cho người Tàu mà không tự biết chăng? Không thế thì sao lửa đốt bên da mà không biết nóng, sét đánh ngang trán mà không biết sợ, thày hay bạn giỏi ở một bên mà không biết gắng sức bắt chước bước theo. Thậm chí nữa trằn trọc tráo trở, một hai toan tìm một nước thứ ba nào yêu thương mình mà vui lòng làm tôi làm tớ[36]".

Theo học giả Trần Trọng Kim "Đến nay vì thời thế biến đổi, cái văn hóa của Âu Tây tràn sang, cách cư xử, sự hành động đều bị cái thế lực mới đổi hết cả đi, người ta thì cường thịnh và khôn ngoan đủ điều, mà mình thì suy nhược và thua kém mọi đường... Người mình trông thấy thế, không xét xem sự kém hèn của mình bởi đâu mà ra, vội vàng bỏ những điều xưa nay mình vẫn tín ngưỡng mà bắt chước cái mới của người ta. Tính bắt chước vốn là tính tự nhiên của loài người, dẫu ở nước nào cũng thế cả. Nhưng giá ta có sẵn cái tinh thần tốt rồi thì bắt chước lấy những điều có bổ ích thêm cho tinh thần ấy thì thật hay lắm. Chỉ hiềm vì mình để cái tinh thần của mình hư hỏng đi, mà lại mong bắt chước sự hành động của người ta thì sự bắt chước ấy lại làm cho mình dở hơn nữa. Vì đã gọi bắt chước là chỉ bắt chước được cái hình hài bề ngoài mà thôi còn tinh thần ở trong, phi lâu ngày nhiễm lấy được mà hóa đi thì khó lòng mà bắt chước được. Thành thử bao nhiêu những sự bắt chước của mình chỉ là làm loạn cả tính tình tư tưởng và phong tục của mình. Có lắm người vọng tưởng rằng mình cố bắt chước được người ngoài, là mình làm điều có ích cho sự tiến hóa của giống nòi mình. Không ngờ rằng sự bắt chước vội vàng quá, không suy nghĩ cho chín, lại thành cái độc gây ra các thứ bệnh cho xã hội của mình[37]".

Phạm Quỳnh nói về việc học phương Tây không đến nơi đến chốn "Thử xét trong những kẻ tự xưng là hạng tân tiến, mấy người đã học được đến nơi đến chốn? Mấy người có thể đối đáp nghị luận với Tây, nói những chuyện văn chương mỹ thuật, chính trị triết học mà người ta phải chịu phải phục? Hay là phần nhiều chỉ mới học mót được mấy câu văn sáo đã đem ra mà huyễn diệu đồng bào. Ấy là không nói những kẻ học chữ Tây cũng còn chửa thông, nói một câu không khỏi sai mẹo, mà cũng làm ra mặt thông thạo các lối văn minh mới, nhất thiết tự xưng là duy tân cả, coi văn hóa cũ của nước nhà như cỏ rác hết. Tưởng học được của người những gì hóa ra chỉ học được những thói tự do rởm, bình đẳng xằng, những cách du đãng phóng túng với cái tính khinh bạc ngạo mạn mà thôi. Lắm lúc trông thấy cái kết quả bất lương đó mà ngờ rằng nếu học Tây mà đến thế thì thà không học nữa còn hơn[38]".

Báo chí quốc ngữ xuất hiện lần đầu tiên vào ngày 15 tháng 4 năm 1865 với sự ra đời của Gia Định báo tại Sài Gòn do Trương Vĩnh Ký làm giám đốc[39].

Y tế sửa

Năm 1913, Tổng thống Pháp đổi tên trường thành Y khoa Đông Dương trực thuộc toàn quyền Đông Dương. Năm 1916, trường được đổi tên thành Y Dược khoa Đông Dương. Năm 1923, trường được nâng cấp thành Trường Y Dược toàn cấp Đông Dương. Trường đào tạo bác sĩ với chương trình học 4 năm và dược sĩ với chương trình học 3 năm. Trường có một số bệnh viện thực hành như Nhà thương Phủ Doãn, Viện Mắt và bệnh viện tâm thần Vôi (Bắc Giang), bệnh viện René Robin sau trở thành bệnh viện Bạch Mai. Trong suốt quá trình tồn tại, trường Y Đông Dương đã đào tạo ít nhất 483 bác sĩ, quá ít so với dân số hơn 20 triệu người Việt Nam lúc đó nhưng cũng góp phần tạo ra những cán bộ chủ chốt cho ngành y tế Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc sau khi giành được độc lập. Nhiều người từng tốt nghiệp trường Y Đông Dương đã trở thành các các nhà lãnh đạo nổi tiếng.[40]

Sazxe (thảo luận) 05:36, ngày 9 tháng 8 năm 2020 (UTC)Trả lời

Tham khảo

  1. ^ Paris - Saigon - Hanoi, trang 41, Philippe Devillers, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2003
  2. ^ Golden Triangle Opium Trade, an Overview, Bertil Lintner, 2000.
  3. ^ a b c d ĐẠI CƯƠNG LỊCH SỬ VIỆT NAM, TẬP 2, trang 121, Đinh Xuân Lâm chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2000.
  4. ^ Người Pháp và người Annam - Bạn hay thù? - P. Devillers, Ngô Văn Quỹ dịch, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2006
  5. ^ Báo Trung lập, Sài Gòn, số 6721 (4/5/1932)
  6. ^ “Paul Doumer: Ba mặt một con người”. Người Lao động. 11 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2020.
  7. ^ a b c d e Lê Đình Chi. Người Thượng Miền Nam Việt Nam. Gardena, CA: Văn Mới, 2006. tr 401-449
  8. ^ A Debt Too Far
  9. ^ Hoàng Cơ Thụy. Việt sử khảo luận. Paris: Nam Á, 2002. tr 1780.
  10. ^ Paris - Saigon - Hanoi, trang 52-53, Philippe Devillers, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2003
  11. ^ NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA GIAI CẤP NÔNG DÂN VÀ QUAN HỆ ĐỊA CHỦ - TÁ ĐIỀN Ở NAM BỘ THỜI KỲ CẬN ĐẠI, Lâm Quang Huyên, Kỷ yếu hội thảo Việt Nam học lần thứ 3.
  12. ^ CHUYỂN BIẾN CỦA NÔNG NGHIỆP VÀ XÃ HỘI NÔNG THÔN BẮC TRUNG KỲ THỜI THUỘC PHÁP, Trần Vũ Tài, Khoa Lịch sử - Đại học Vinh
  13. ^ Phạm Xuân Nam, Chính sách xã hội trong Cách mạng tháng 8 năm 1945 và trong sự nghiệp đổi mới ngày nay, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(96) - 2015 download
  14. ^ a b c Hào hùng thủy lợi Việt Nam: Thời Pháp thuộc, báo Nông nghiệp Việt Nam, 11/11/2014
  15. ^ Nguyễn Thanh Lợi. Tạp chí Xưa &Nay, số 286, số 6, 2007
  16. ^ Sơn Nam, Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam - Lưu ý, Nxb Trẻ, 2014
  17. ^ Nguyễn Thế Anh. Việt Nam thời Pháp đô hộ, trang 181, Saigon : Lửa Thiêng, 1970
  18. ^ Hào hùng Thủy lợi Việt Nam: Kỳ tích trong gian khó, Báo Nông nghiệp Việt Nam, 11/11/2014,
  19. ^ QUÁ TRÌNH ĐẦU TƯ VÀ KHAI THÁC THUỘC ĐỊA VỀ CAO SU CỦA TƯ BẢN PHÁP Ở VIỆT NAM (1858-1945), Hội khoa học lịch sử Bình Dương, 25/07/2012
  20. ^ Huỳnh Lứa, Lịch sử phong trào công nhân cao su VN, trang 81, TPHCM : Nxb Trẻ, 2003
  21. ^ Huỳnh Lứa, Lịch sử phong trào công nhân cao su VN, trang 23, TPHCM : Nxb Trẻ, 2003
  22. ^ a b c d e f g h i j k l m n o TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945, Bộ Công thương Việt Nam, 22/07/2019
  23. ^ Tiểu thủ công nghiệp ở Bắc Kỳ thời Pháp thuộc, Trần Thị Phương Hoa, Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 (112) - 2017
  24. ^ “Lịch sử ngành đường sắt”. Truy cập 2009. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày truy cập= (trợ giúp)
  25. ^ a b c d Giao thông Việt Nam thời Pháp ( 1890 – 1945). Đường thuộc địa, đường sắt và cảng sông, biển mở đầu phát triển hạ tầng giao thông Việt Nam, Hội KHKT Cầu đường Việt Nam, 2014/12/2
  26. ^ Nguyễn Thế Anh. Việt Nam thời Pháp đô hộ, trang 179, Saigon : Lửa Thiêng, 1970
  27. ^ Logan, William Stewart (2000). Hanoi: Biography of a City. UNSW Press. tr. 86. ISBN 9780868404431. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2010.
  28. ^ “Hà Nội thời Pháp thuộc”. Hà Nội theo năm tháng. ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
  29. ^ Papin, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Fayard. tr. 381–386. ISBN 2213606714.
  30. ^ Hai nhóm người Hoa theo Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên bỏ xứ ra đi vì không cam chịu sự cai trị của Mãn Thanh, không phải mang danh nghĩa phản Thanh phục Minh.
  31. ^ “Lịch sử hình thành đất Sài Gòn”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014.
  32. ^ a b c Quy hoạch Sài Gòn 1772 vượt xa tầm nhìn người Pháp 1865, Báo Tuổi trẻ, 22/03/2016
  33. ^ “Sài Gòn biến đổi và hình thành một thành phố theo kiểu phương Tây”. Website Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014.
  34. ^ Nguyễn Thế Anh. Việt Nam thời Pháp đô hộ, trang 158, Lửa Thiêng, Saigon, 1970
  35. ^ Nho giáo, Lời phát đoan, Trần Trọng Kim, Trung Bắc tân văn, 1930
  36. ^ Hiện trạng vấn đề, Phan Châu Trinh, 1907
  37. ^ Nho giáo, Lời phát đoan, Trần Trọng Kim, Trung Bắc Tân Văn, 1930
  38. ^ Phong hóa suy đồi, Phạm Quỳnh, Nam Phong, 1932
  39. ^ Nguyễn Văn Trung (2015). Hồ sơ về Lục Châu học - Tìm hiểu con người ở vùng đất mới. Nhà xuất bản Trẻ. trang 398–399; 402–403; 416
  40. ^ Đại học Y Hà Nội thời kỳ thuộc Pháp (1902 - 1945), Hanoi Medical University.

Rà nhanh sửa

Phiền Lệ Xuân bỏ chút ít thời gian ra rà nhanh xem bài này mạo nguồn, nội dung POV chỗ nào thì cứ xóa thẳng tay. Tôi xin   Ủng hộ. –  Băng Tỏa  15:36, ngày 9 tháng 5 năm 2021 (UTC)Trả lời

Phiền bạn Xamxiduc, Xotchuacay, hoặc bất kỳ tài khoản mới nào của bạn, chứng minh cái câu "Mối đe dọa đáng sợ cho chính quyền thực dân Pháp là Nho giáo qua các sách vở Hán văn, bởi Nho giáo cổ vũ lòng yêu nước chống ngoại xâm và khuyến khích giới trí thức quan tâm đến các vấn đề chính trị", chứ cuốn France in Indochina (tôi đoán vậy, vì trong bài ghi được mỗi cái tên tác giả chứ làm gì ghi tên sách), trang 36 của Nicola Cooper tôi tìm không thấy? Và cái đoạn:

Hơn nữa người Pháp rất khó chịu trước giới sĩ phu Nho học không ngừng đả kích chế độ thực dân, kích động sự bất mãn của dân chúng thậm chí lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa chống Pháp. Vì vậy người Pháp đã dồn nhiều nỗ lực vào việc cải biến nền giáo dục bản xứ: loại bỏ Nho học và cấm giảng dạy lịch sử Việt Nam, thay vào đó là các kiến thức khoa học phương Tây, văn chương và lịch sử Pháp. Tiếng Pháp là ngôn ngữ chính được dùng trong trường học còn tiếng Việt và tiếng Hán chỉ là ngoại ngữ. Một chứng cứ khác là sách giáo khoa thời Pháp thuộc không dùng danh từ "Việt Nam" mà chỉ nhắc đến "Đông Pháp" và các xứ lệ thuộc. Các kỳ thi khoa bảng Việt Nam cũng bị loại bỏ, thay vào đó là các kì thi bằng tiếng Việt và tiếng Pháp phỏng theo các kì thi của Pháp. Hệ thống giáo dục Nho học cũ trở nên không hợp thời. Nhà Nguyễn ban đầu cải cách kỳ thi Hương bằng cách đưa chữ Quốc ngữ vào nội dung thi sau đó bãi bỏ luôn các kỳ thi thuộc hệ thống Khoa bảng Việt Nam vào năm 1919. Học giả Trần Trọng Kim nhận định "Xét ra cho kỹ, sự bỏ cũ theo mới của ta hiện thời bây giờ không phải là không cần cấp, nhưng vì người mình nông nổi, không suy nghĩ cho chín, chưa gì đã đem phá hoại cả đi, thành thử cái xấu, cái dở của mình thì vị tất đã bỏ đi được, mà lại làm hỏng mất cái phần tinh túy đã giữ cho xã hội của ta được vững bền hàng mấy nghìn năm nay. Phàm người ta muốn bỏ cái cũ đã hẩm nát, tất là phải có cái mới tốt hơn, đẹp hơn để thay vào. Nay ta chưa có cái mới mà đã vội vàng bỏ cái cũ đi, thành ra đổ nát cả, mà không có cái gì thay vào được. Ấy là cái tình trạng nước ta ngày nay là thế, khác nào như chiếc thuyền đi ra giữa biển, đánh mất địa bàn chỉ nam, không biết phương hướng nào mà đi cho phải đường, cứ lênh đênh mãi, không khéo lại bị sóng gió va vào đá vỡ tan mất cả[1]".

Đoạn trên đây mà bạn dẫn nguồn cụ Trần Trọng Kim, tôi xin xác nhận, nhưng nguồn này chỉ dành cho cái đoạn quote của cụ, chứ đoạn bôi đen là bạn tự chém chứ làm gì có trong nguồn? Thông tin bạn đưa ra có thể đúng, nhưng không nguồn thì làm sao có thể kiểm chứng được? Để chứng minh được thông tin mà bạn đưa ra, thì bạn nên học cách biên tập và cách dẫn chứng nguồn đầy đủ. Giới trẻ tuy có thể chưa trải "nhiều sự đời" như thế hệ cha anh đi trước, nhưng rõ ràng họ có nhiều điểm mạnh mà thế hệ đi trước có thể học tập, nhất là ở khâu biên tập bài viết. Tiền bối có thể tham khảo những bài viết chất lượng như Nhà Minh, Ukiyo-e để hiểu hơn về cách dẫn nguồn phù hợp. Trên đây là đôi lời của bậc hậu sinh, mong tiền bối hãy để tâm. Hankiz tl 01:26, ngày 10 tháng 5 năm 2021 (UTC)Trả lời

@Lệ Xuân: Nhà Minh chủ yếu là dịch lại, tự biên tập có ít thôi, trong đó thì nguồn tiếng Việt có mỗi hai quyển sách, không đáng kể. Không biết bạn có nhận ra không nhưng phần "Quân đội" được biên soạn theo ý chí của một pro-Ming, nên có đề cập chỗ nặng nhẹ, nâng chỗ này lên, ém bớt chỗ kia đi (tất nhiên là không tới mức cắt hẳn), ha ha ha. À thì vẫn đảm bảo có nguồn mạnh, không trích dẫn sai và đảm bảo nó vẫn trung lập. Matuyda (thảo luận) 08:20, ngày 10 tháng 5 năm 2021 (UTC)Trả lời
@Matuyda "Đại Minh uy vũ 大明威武, Hoàng đế uy vũ 皇帝威武" (Bonus cái cover) – Hankiz tl 12:45, ngày 10 tháng 5 năm 2021 (UTC)Trả lời

Bạn Lệ Xuân thông thái thật đấy. Bạn phát triển bài này đi. Bachdo (thảo luận) 11:57, ngày 14 tháng 5 năm 2021 (UTC)Trả lời

Thông cảm nhé, mặc dù là người rất thông thái, nhưng đáng tiếc là quỹ thời gian của tôi có hạn, không thể thực hiện yêu cầu của quý thành viên rồi. Bạn có vẻ tâm huyết với chủ đề, dù bị cấm vẫn không từ bỏ khiến tôi thực sự phải cảm phục 'ý chí kiên định' của bạn. Có gì thì cứ thu nhận lời góp ý mà triển khai nhé. – Hankiz tl 20:31, ngày 14 tháng 5 năm 2021 (UTC)Trả lời

Ở trên thấy bạn phân tích lỗi của người khác tưởng bạn sẽ phát triển hoàn chỉnh bài này ai dè cũng chỉ nói xuông. Dù sao trình độ và nhân cách của bạn vẫn cao hơn những người đã khóa bài này. Đã không đủ sức viết bài lại còn ngăn không cho người khác viết. Bachdo (thảo luận) 02:54, ngày 15 tháng 5 năm 2021 (UTC)Trả lời

Tham khảo

  1. ^ Nho giáo, Lời phát đoan, Trần Trọng Kim, Trung Bắc tân văn, 1930
Quay lại trang “Pháp thuộc”.