Biểu tình Phật giáo tại Huế 1993

Biểu tình Phật giáo tại Huế 1993 là một cuộc biểu tình lớn với sự tham gia của 40.000 người, bao gồm Phật tử và dân thường, diễn ra trước trụ sở Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế vào ngày 24 tháng 5 năm 1993. Cuộc biểu tình là màn đụng độ giữa các phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất với chính quyền Việt Nam kéo dài trong 5 tiếng đồng hồ liên tiếp và đã bị dập tắt chỉ sau một ngày.[4] Đây được xem là cuộc biểu tình với quy mô lớn nhất sau 1975 và dưới chế độ Cộng sản tại Việt Nam.

Biểu tình Phật giáo tại Huế 1993
Diễn biến vụ biểu tình theo trình tự từ trái sang phải, từ trên xuống dưới: (1) Các nhà sư bao vây xe chở Thích Trí Tựu. Những người biểu tình tụ tập trên các con đường; (2) Phản kháng bất bạo động: Các nhà sư tuyệt thực tọa kháng. Cảnh sát dùng vòi rồng giải tán đám đông; (3) Một sinh viên tiếp nước cho Thích Hải Thịnh. Thích Hải Thịnh chặn xe cảnh sát bằng việc nằm dưới bánh xe; (4) Người biểu tình lật xe cảnh sát. Thích Trí Tựu được xích lô chở về chùa Thiên Mụ.[1]
Ngày1993
Địa điểm
Các phe trong cuộc xung đột dân sự
Việt Nam Chính quyền Việt Nam
Số lượng
40.000[2][3]

Bối cảnh

sửa

Nỗ lực kiểm soát Phật giáo miền Nam và Giáo hội Phật giáo Thống nhất sau 1975

sửa

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) là một tổ chức tôn giáo ra đời vào tháng 1 năm 1964, trên cơ sở hợp nhất các hội đoàn, tông phái miền Nam Việt Nam về một mối sau Biến cố Phật giáo 1963.[5] Dựa trên thực tế Phật giáo là tôn giáo lớn nhất tại Việt Nam, GHPGVNTN quy tụ hàng trăm ngàn Phật tử và những người theo đạo khắp miền Nam Việt Nam, nhiều nhất là ở các tỉnh miền Trung và Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM).[6] Mặc dù là tổ chức Phật giáo hoạt động cách mạng tích cực trong Chiến tranh Việt Nam, được nhà nước Việt Nam công nhận hợp pháp vào năm 1977,[7] song giáo hội đã có một lịch sử đụng độ kéo dài với chính quyền Việt Nam kể từ sau tháng 9 năm 1975.[8] Đặc biệt, hai trong số các thành viên chủ chốt giáo hội, Thích Huyền QuangThích Quảng Độ, luôn giữ thái độ bài trừ chủ nghĩa cộng sản từ những năm thập niên 1940, 1950.[9]

Theo Đài Á Châu Tự Do, sau khi thống nhất Việt Nam năm 1975, Chính phủ cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam đã bắt đầu đàn áp Phật giáo miền Nam theo Chỉ thị số 20 của Đảng Cộng sản Việt Nam được Tổng Bí thư Lê Duẩn ký từ năm 1960 và áp dụng trên cả nước, sau khi đã thực thi ở miền Bắc sau 1954.[10] Chính quyền đã đưa ra nhiều chính sách ngăn cản sự phát triển của Phật giáo tại đây, bao gồm việc tich thu ruộng đất các chùa và cấm người dân đi cúng dường; không cho phép nhà sư mặc áo tràng ra ngoài khuôn viên chùa; tổ chức các cuộc họp công dân vào giờ đi chùa; buộc người mới xuất gia phải hoàn tục và trả về cho gia đình; và nhất cử nhất động của nhà sư đều bị theo dõi chặt chẽ.[11] Các địa phương còn yêu cầu nhà sư phải treo hình ảnh Hồ Chí Minh trên bàn thờ, cấm treo cờ Phật giáo và cưỡng chế các cơ sở Phật giáo làm trụ sở quân sự, cơ quan nhà nước hay làm thành chuồng lợn.[10][12]

Ngay từ giai đoạn chính quyền đương thời lên nắm quyền lãnh đạo, việc các cô nhi viện, đại học cơ sở và chùa chiền của GHPGVNTN bị tịch thu làm nổ ra phản ứng từ các tăng ni giáo hội. Tháng 3 năm 1977, Hội đồng chấp hành GHPGVNTN đã công khai lên án hành động phân biệt, đàn áp và can thiệp của chính quyền mới và tổ chức nhiều cuộc biểu tình Phật giáo rầm rộ ở TPHCM. Ngay sau đó, 6 lãnh đạo giáo hội có gồm Thích Huyền Quang, Thích Điều Hành, Thích Quảng Độ, Thích Thiện Minh, lần lượt là nguyên phó chủ tịch điều hành, phó chủ tịch, tổng thư ký Hội đồng Chấp hành giáo hội và quyền Viện trưởng Viện Hóa Đạo,[13][14] đã bị bắt giữ lần lượt hai ngày 7 tháng 4 cùng năm. Tháng 10 năm 1977, những nhà sư bị bắt đã bị tra tấn và ép nhận là gián điệp CIA. Các nhà sư chỉ được thả sau 20 tháng tạm giam và chịu án treo hai năm dựa trên áp lực từ quốc tế.[5][15]

Vào ngày 16 tháng 4 năm 1977, Ủy ban nhân dân (UBND) TPHCM đã phát thông báo yêu cầu Phật tử trên địa phương chống lại GHPGVNTN với nội dung cho rằng nhóm người này có "mưu đồ xấu chống cách mạng, chống Cộng sản" và "âm mưu kích động Phật tử chống lại các chính sách của Nhà nước". Trong thông báo cũng tuyên bố kèm theo sẽ thẳng tay đàn áp.[10] Tháng 11 cùng năm, chính quyền Việt Nam ban hành nghị quyết số 297, trong đó đặt các hoạt động tôn giáo và văn hóa dưới sự kiểm soát của nhà nước và Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Nội dung của nghị quyết bao gồm việc hạn chế các dịch vụ tôn giáo, đào tạo tôn giáo và tổ chức các cuộc tụ họp và cầu nguyện. Nhà nước cũng được quyền lựa chọn giáo sĩ đại diện cho các tổ chức tôn giáo, đồng thời các cơ quan địa phương có quyền thu giữ những tài sản tôn giáo bị coi là trái phép. Điều quan trọng nhất trong số này là MTTQVN có quyền cấm mọi hoạt động tôn giáo đi ngược lại với mục tiêu "xây dựng chủ nghĩa xã hội". Nghị quyết trên đã gây ra bất bình mạnh mẽ từ những người trong nhóm tôn giáo, đặc biệt là nhóm Phật giáo tại Việt Nam.[16][15]

Các vụ tự thiêu phản kháng

sửa

Phản kháng với chính quyền không chỉ diễn ra ở giới lãnh đạo cao tầng GHPGVNTN mà còn ở cả các nhà sư trên khắp miền Nam Việt Nam. Vào ngày 2 tháng 11 năm 1975, trụ trì của Thiền viện Dược Sư Thích Huệ Hiền cùng 11 tăng ni khác đã tổ chức tự thiêu tập thể tại một địa điểm cách Cần Thơ 30 km hướng về tỉnh Sóc Trăng. Khác với phản ứng về vụ tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức 1963, vụ tự thiêu tại một cơ sở của GHPGVNTN này nhanh chóng bị chính quyền ỉm đi; chùa Dược Sư bị tịch thu cùng với thi thể của những người đã tự thiêu. Theo lời trong thư tuyệt mệnh để lại, nguyên do cho cuộc tự sát tập thể này là nhằm yêu cầu chính phủ cách mạng "tôn trọng triệt để tự do tín ngưỡng của các tôn giáo đúng mức".[17]

Trước cái chết của 12 tăng ni, ban lãnh đạo GHPGVNTN đã yêu cầu điều tra khách quan cũng như đòi chính quyền thực hiện quyền tự do tôn giáo. Kết quả, 6 lãnh đạo giáo hội đã bị bắt ngay sau cuộc biểu tình rầm rộ ở TPHCM năm 1977.[18] Theo Ủy ban tự do tôn giáo Hoa Kỳ và Hòa thượng Thích Quảng Độ, Hòa thượng Thích Thiện Minh đã bị "đánh tới chết" trong trại tạm giam.[18][19] Trong một hồi âm của Bộ Nội vụ 6 tháng sau đó, lời khai các nhân chứng mà chính quyền thu thập đã cáo buộc ông Phạm Văn Có (sư Huệ Hiền) từng giết hai ni cô lần lượt vào năm 1972 và năm 1974 sau khi ông ta làm hai người này mang thai, và vì sợ việc làm của mình bị lộ, ông Có quyết định giết chết 11 người khác trong chùa, trong đó có hai thiếu niên, trước khi đốt chùa và tự sát.[17]

Từ lời của sư Thích Thiện Quang, người vượt biên sang Indonesia vào năm 1979, kể lại, trong hai năm 1977 và 1978 đã có thêm 18 tăng, ni Phật giáo khác tự thiêu riêng lẻ để chống lại sự đàn áp của giới cầm quyền, và cuộc biểu tình gần nhất tính tới thời điểm bài phỏng vấn ra đời là vào tháng 3 năm 1979, khi một ni cô đã tự thiêu ngay trước cổng của một cô nhi viện. Theo tổ chức VOICE, các vụ tự thiêu và bắt giữ các nhà sư miền Nam còn tiếp tục diễn ra trong các thập niên tiếp theo nhưng không được tiết lộ hay được thừa nhận bởi chính quyền.[17] Trong một tuyên bố khác của nhà sư Thích Giác Đức, xuyên suốt giai đoạn từ giữa thập niên 1970 đến 1995 đã có hơn 400 tu sĩ Phật giáo bị bắt giữ mà không thông qua xét xử và 50 trong số đó được xác nhận đã chết trong tù.[12]

Đại hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam

sửa

Vì nhận thấy không thể kiểm soát được GHPGVNTN,[16] chính quyền đã tìm cách hạn chế dần hoạt động của GHPGVNTN và đi đến giải tán tổ chức. Theo ông Xuân Thủy – Bí thư Trung ương Đảng kiêm Trưởng ban Dân vận – lý do mà chính quyền muốn giải thể giáo hội là vì Đảng không thể lãnh đạo tổ chức này và thậm chí, tổ chức tạo ra "áp lực chính trị thường trực với Đảng và chính phủ Việt Nam".[20] Ý tưởng trên bắt đầu nhen nhóm từ vài tháng sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính phủ cách mạng lâm thời đã lập ra Ban liên lạc Phật giáo Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh (BLLPGYNTPHCM) để yêu cầu các nhà sư trong GHPGVNTN tham gia vào tổ chức nhưng gặp phải sự phản kháng mạnh mẽ. Dù bị người của chính quyền hăm dọa nhưng đa số các nhà sư khi đó vẫn chọn ở lại trong giáo hội, một số thì chọn cách vượt biên để trốn khỏi sự kiểm soát của giới cầm quyền.[11] Thời gian này, Thích Đôn Hậu, lãnh đạo cấp cao của GHPGVNTN và là một thành viên trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN), cũng gửi một bản đề án về việc thống nhất tôn giáo nước nhà và gửi tới tứ trụ ban lãnh đạo ĐCSVN, gồm Tổng Bí thư Lê Duẩn, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng, Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Bản đề án này đã gặp phải sự từ chối chính quyền do cố gắng tách bạch quyền quyết định độc lập giữa GHPGVNTN với sự kiểm soát của chính phủ, và do đó Đảng đã gắn cho ông có ý đồ xấu chống phá nhà nước.[21][22]

Ngày 9 tháng 4 năm 1980, Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam (BVĐTNPGVN) thuộc Ban Dân vận TW ĐCSVN đã được thành lập tại chùa Quán Sứ, Hà Nội.[23] Tổ chức này ra đời theo đề án Thống nhất Phật giáo do chính quyền đề ra trước đó từ sau 1975, nhằm thống nhất ba tổ chức phật giáo lớn nhất ở Việt Nam, thời điểm đó là Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam ở miền Bắc, GHPGVNTN và BLLPGYNTPHCM ở miền Nam, thành một tổ chức thống nhất nằm dưới quyền kiểm soát của MTTQVN. Thái độ của ban lãnh đạo GHPGVNTN với cuộc vận động này đã có sự chia rẽ:[21] Hai Hòa thượng Thích Đôn Hậu trong Viện Tăng thống và Thích Huyền Quang tỏ thái độ phản đối mạnh mẽ đề án của chính quyền,[5] trong khi Hòa thượng Thích Trí Thủ thuộc Viện Hóa đạo chủ động đứng ra đảm nhận vai trò trưởng ban BVĐTNPGVN.[21] Tổng cộng, 6 lãnh đạo GHPGVNTN có khuynh hướng chống đối đề án đã bị chính quyền bắt giam trong 24 giờ ngay trước ngày đại hội thống nhất.[15] Đến ngày 7 tháng 11 năm 1981, Đại hội Thống nhất Phật giáo Việt Nam được tổ chức ở Hà Nội đã đánh dấu sự ra đời chính thức của Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) như là đại diện Phật giáo hợp pháp duy nhất trong nước,[5][23] với phương châm hoạt động là "Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội".[24] Theo lời Đỗ Trung Hiếu – nguyên Chính ủy BVĐTNPGVN – GHPGVN có cấu trúc hoạt động thấp hơn một hiệp hội và chỉ dành riêng cho tu sĩ nam nữ tham gia, không có sự tồn tại của cư sĩ cũng như các hoạt động xã hội, truyền giáo bị hạn chế tới tuyệt đối.[25]

 
Chùa Ấn Quang, nơi từng là trụ sở của GHPGVNTN, đã bị chính quyền cưỡng chế sau khi GHPGVN thành lập.

Kể từ sau khi thành lập GHPGVN, GHPGVNTN đã bị chính quyền Việt Nam phủ nhận sự tồn tại mà không có một văn bản công khai hay tuyên bố nhất quán nào.[26] Theo Tổ chức Ân xá Quốc tế, việc các nhà sư không tham gia vào tổ chức GHPGVN đều bị coi là "bất hợp pháp": họ bị chính quyền gây áp lực buộc phải gia nhập giáo hội hoặc bị cho vào trại cải tạo hay bị bắt tù giam. Bằng chứng là trong các năm 1984 đến 1986, hàng loạt vụ bắt giữ những nhà sư thuộc GHPGVNTN đã diễn ra tại nhiều tỉnh thành ở miền Nam, trong số đó nhằm vào những nhân vật lớn trong giáo hội này như Thích Tuệ Sỹ, Thích nữ Trí Hải, Thích Trí Siêu,...[11] Trong năm 1982, Thích Quảng Độ và Thích Huyền Quang cùng bốn lãnh đạo giáo hội khác đã bị đày về quê nhà do phản đối việc thành lập GHPGVN và bị quản thúc tại gia trong nhiều năm.[5][10] Đến ngày 7 tháng 7 cùng năm, chính quyền đã cưỡng chế chùa Ấn Quang, trụ sở của GHPGVNTN; toàn bộ tư liệu và hồ sơ tại Viện Hóa Đạo bên trong chùa bị đốt sạch trong năm ngày mới hết.[10] Để hoạt động, nhiều ngôi chùa cũng bị gây áp lực phải bỏ cụm từ "thống nhất" để trở thành "Giáo hội Phật giáo Việt Nam".[27]

Những sự kiện trên xảy ra trong bối cảnh hàng loạt vụ bắt giữ của giới cầm quyền trong Nam với những người có liên quan đến chế độ cũ; các sinh hoạt tôn giáo cũng bị hạn chế nghiêm ngặt cho tới trước giai đoạn chủ nghĩa cộng sản bước vào thời kỳ suy thoái và sụp đổ ở Đông Âu.[5] Nhưng trái ngược với các động thái trên, nguyên Phó Ban Dân vận Trung ương Trần Bạch Đằng khi đó nói rằng, "việc thống nhất Phật giáo nên hay không nên trong lúc này, và cần phải thống nhất như thế nào, quý vị hoàn toàn tự định đoạt lấy". Ông cũng khẳng định Đảng cùng Nhà nước Việt Nam "chỉ tham gia hỗ trợ khi được yêu cầu".[20]

Nguyên nhân

sửa

Cái chết của Thích Đôn Hậu

sửa

Hòa thượng Thích Đôn Hậu là Tăng thống thứ ba của GHPGVNTN, trụ trì chùa Thiên Mụ tại Huế. Ông là một nhân vật quan trọng trong giáo hội, từng có nhiều hoạt động ủng hộ chính quyền miền Bắc Việt Nam nhưng sau này đi ngược lại các chính sách tôn giáo của chính phủ cách mạng.[28] Từ năm 1977, để phản ứng vụ bắt ba lãnh đạo của giáo hội là Thích Huyền Quảng, Thích Quảng Độ và Thích Thiện Minh, người sau này qua đời khi vẫn đang ở trong trại giam,[a] Thích Đôn Hậu đã quyết định từ bỏ chức vụ Đại biểu quốc hội và vị trí Ủy viên trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà chính quyền giao cho ông.[5][7] Ông cũng từ chối gia nhập GHPGVN do chính quyền hậu thuẫn.[29] Năm 1991, ông viết một bản chúc thư hiệu triệu các Phật tử hải ngoại đoàn tụ lại với hội GHPGVNTN theo điều lệ của giáo hội năm 1964. Di chúc của Thích Đôn Hậu cũng chọn người kế vị lãnh đạo giáo hội là Thích Huyền Quang, đối tượng bị chính quyền đày lưu vong ra sống chục năm ở Quảng Ngãi. Hai hành động này về sau đã châm ngòi cho một cuộc xung đột lớn giữa GHPGVNTN và chính quyền Việt Nam, kéo theo là các cuộc biểu tình diễn ra công khai, cả ôn hòa lẫn bạo lực, diễn ra trong ba năm từ 1992 đến 1994 và vấp phải sự đàn áp dứt khoát từ phía nhà nước.[5]

 
Chùa Thiên Mụ, nơi diễn ra lễ tang Thích Đôn Hậu, đồng thời đánh dấu việc Thích Huyền Quang lên làm Tăng thống thứ tư GHPGVNTN.

Ngày 23 tháng 4 năm 1992, Hòa thượng Thích Đôn Hậu được thông báo đã viên tịch tại chùa Thiên Mụ, Huế ở tuổi 88. Tang lễ của ông diễn ra ở chùa Thiên Mụ vào ngày 3 tháng 5 cùng năm. Trước đó, đã có một cuộc đụng độ giữa các giáo sĩ tại chùa với chính quyền trong cách thức tiến hành tang lễ.[28] Mặc dù Thích Đôn Hậu đặc biệt yêu cầu lễ tang của mình phải diễn ra theo đúng truyền thống Phật giáo, song chính phủ muốn tổ chức tang lễ theo nghi thức nhà nước và truy tặng cho ông Huân chương Hồ Chí Minh vì là người có công với cách mạng. Một bộ phận các lãnh đạo giáo hội đã đứng ra chống lại việc tổ chức này vì cho rằng nó không phù hợp với ý muốn của người quá cố. Trong đó, một nhà sư đã dọa tự thiêu và bốn nhà sư khác tuyệt thực tại chùa Thiên Mụ nơi Thích Đôn Hậu trụ trì.[5][30] Cuối cùng, lễ tang Thích Đôn Hậu được GHPGVNTN đứng ra tổ chức, với sự tham gia của Phó Chủ tịch nước Nguyễn Hữu Thọ.[28]

Tại buổi tang lễ Thích Đôn Hậu, Thích Huyền Quang – người ban đầu bị cấm vào Huế – đã được cho phép tham dự sự kiện sau khi tuyệt thực một ngày.[30] Tại đây, ông được Hòa thượng Thích Nhật Liên đích thân trao tặng con dấu của Pháp viện theo di chúc của Đôn Hậu, biểu thị cho sự chuyển giao quyền lực lớn nhất trong giáo hội. Dù bị cấm phát biểu ở buổi lễ, Thích Huyền Quang vẫn công khai phản đối hành động thành lập GHPGVN và yêu cầu nhà nước khôi phục tài sản và quyền hạn của GHPGVNTN. Đến ngày 24 tháng 6 cùng năm, ông viết thành một bản kiến nghị chín điểm phản đối việc chính phủ giải tán GHPGVNTN vào năm 1981, đồng thời yêu cầu cho phép giáo hội này hoạt động hợp pháp trở lại. Những bản ghi âm tang lễ và bản sao bản kiến nghị được rải truyền ra khắp các chùa miền Nam đã gây nên một cuộc đàn áp chính thức. Chính quyền nhanh chóng cho công an lục soát các ngôi chùa để tìm bản sao kiến nghị của Thích Huyền Quang, thẩm vấn những người sở hữu nó và trong một số trường hợp là bắt giữ những người ủng hộ nhà sư.[5][29]

Khi các bài viết và bài phát biểu của Thích Huyền Quang ngày một lan rộng, chính phủ đã cố gắng chuyển sự chú ý từ những yêu cầu của nhà sư sang tính chính danh trong việc bổ nhiệm ông lên làm Tăng thống GHPGVNTN. Ngày 5 tháng 12 năm 1992, trụ trì chùa Thiên Mụ Thích Trí Tựu, cũng là đệ tử thân cận của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, đã lên án chính quyền trong việc buộc ông làm mất uy tín của Thích Huyền Quang sau cuộc gặp với Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tỉnh Thừa Thiên Huế ngày hôm trước. Theo đó, vị chủ tịch đã đặt nghi vấn với Thích Trí Tựu về di chúc cuối cùng của Thích Đôn Hậu là giả mạo nhưng ngay sau đó bị ông phản đối và bảo đảm di chúc "bằng chính mạng sống của mình".[5] Chính quyền sau cùng vẫn giữ nguyên thái độ từ chối không công nhận việc Thích Huyền Quang lên làm Tăng thống kế nhiệm.[6]

Thời kỳ cởi mở tôn giáo

sửa

Kể từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI với sự ra đời của chính sách Đổi Mới, chính phủ Việt Nam đã thực hiện ân xá cho hàng ngàn tù nhân chính trị bị bắt giữ từ sau năm 1975, đồng thời cho phép phơi bày tham nhũng trong nội bộ Đảng và Chính quyền.[31] Nhà nước cũng đã gỡ bỏ những cấm đoán và hạn chề trong các hoạt động tôn giáo nói chung. Điều này dẫn đến sự hồi sinh của Phật giáo tại Việt Nam từ sau thập niên 1990, dù vẫn bị kiểm soát chặt chẽ đã phần nào được nới lỏng: bắt đầu cho phép tự do thờ cúng nhiều hơn; các chùa chiền, nhà thờ được xây dựng và trùng tu; và các dòng tu được tham gia vào những hoạt động công tác xã hội,...[5][32] Vì lẽ đó, nhiều tu sĩ đã xem đây là một thời điểm thích hợp để yêu cầu tự do tôn giáo.[33] Chính vì điều này, thông qua di huấn của Hòa thượng Thích Đôn Hậu, ngày 25 tháng 6 năm 1992 chi nhánh GHPGVNTN quốc tế đã gửi một bản kiến nghị chín điểm tới chính quyền, yêu cầu công khai công nhận giáo hội trở lại, cũng như cho phép sự tự chủ trong việc quản lý giáo hội, trả lại tài sản bị tịch thu trước 1975 và trả tự do cho những tù nhân tôn giáo, chính trị. Đại diện của chính phủ sau đó có đến thảo luận về những khiếu nại này tại với văn phòng GHPGVNTN hải ngoại ở Quảng Ngại, dù không đưa ra một hành động cụ thể để giải quyết các vấn đề dược nêu ra trong bức thư trên.[34][35]

Một nguyên nhân sâu xa khác của cuộc biểu tình là vào năm 1993, Việt Nam đã chứng kiến sự bùng nổ về vấn đề nhân quyền khi hàng trăm bài viết về nhân quyền xuất hiện trên hàng loạt trang báo chính thống của chính quyền. Theo nhà báo Võ Văn Ái, hiện tượng trên xảy ra là do tác động của hai sự kiện lớn xảy ra trong năm này: thứ nhất là Hội nghị Thế giới về Nhân quyên của Liên Hợp Quốc, tổ chức tại Viên cùng Cuộc họp trù bị khu vực Đông Nam Á tổ chức ở Bangkok – nơi lần đầu tiên Việt Nam tuân thủ theo các tiền đề về "hệ giá trị Châu Á". Thứ hai đó là biểu tình Phật giáo ở Huế xảy ra vào tháng 5 cùng năm. Việc một cuộc biểu tình được tổ chức công khai và rầm rộ như vậy đã trở thành một thách thức chưa từng có và gây chấn động cho giới cầm quyền. Các bài viết bàn luận về nhân quyền khi này thường chia thành hai loại bài, loại một là phân tích lý thuyết về tiền đề nhân quyền trong nỗ lực xây dựng một khái niệm cụ thể dựa trên "hệ giá trị Việt Nam", loại hai là chỉ trích những nhà sư tổ chức biểu tình vì "lợi dụng nhân quyền và tôn giáo để làm tổn hại đến nhà nước".[36] Tuy nhiên, có những bài viết lại một mặt bàn luận cởi mở về vấn đề nhân quyền hay lịch sử Phật giáo nhưng mặt khác lại lên án gay gắt một số tổ chức Phật giáo tại Việt Nam, đánh đồng họ với "diễn biến hòa bình" – một âm mưu toàn cầu của các "thế lực thù địch" nhằm phá hoại chế độ.[36][37] Đây được xem là lần đầu tiên và cuối cùng "hệ giá trị Việt Nam" được nhắc đến trên báo chí chính thức, theo sau đó là một cuộc đàn áp rộng rãi các tổ chức Phật giáo nằm ngoài sự quản lý của chính quyền. Nhân quyền tại Việt Nam cũng trở thành vấn đề cấm kỵ trên các phương tiện truyền thông nhà nước nói chung.[37]

Diễn biến

sửa

Cái chết của Tăng thống Thích Đôn Hậu đánh dấu cho các hoạt động mới nhằm tái lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Kể từ ngày tang lễ của Đức Tăng Thống, các cuộc đối đầu dần leo ​​thang và lên đến đỉnh điểm vào 1993 với cuộc biểu tình ở Bà Rịa – Vũng Tàu[5] và đặc biệt là biểu tình lớn xảy ra tại Huế vào tháng 5 năm 1993.

Vụ tự thiêu tại chùa Thiên Mụ

sửa
 
Ngày 21 tháng 5 năm 1993, một Phật tử có tên thật là Nguyễn Ngọc Dũng đã đến ngồi gần mộ Thích Đôn Hậu để tự thiêu.

Căng thẳng giữa GHPGVNTN và chính quyền đã gia tăng từ tháng 4 năm 1993, khi ngày giỗ đầu tiên theo âm lịch của Thích Đôn Hậu đang đến gần. Trong suốt các ngày 10 đến 12 tháng 4 năm 1993, chùa Thiên Mụ, địa điểm đặt lăng mộ Thích Đôn Hậu, đã bị công an canh giữ nghiêm ngặt. Thích Huyền Quang cũng bị chính quyền địa phương nơi ông cư trú ngăn cản tham dự lễ giỗ.[5][38] Trong những tháng trước đó, hai nhà sư Thích Trí Tựu và Thích Hải Tạng, hai lãnh đạo kế cận của chùa Thiên Mụ, đã liên tục bị bắt giữ, thẩm vấn và sách nhiễu nhiều lần bởi chính quyền, đến mức Thích Trí Tựu từng hai lần tuyên bố sẽ tự thiêu nếu chính phủ tiếp tục đàn áp GHPGVNTN.[39]

Vào hồi 9:00 sáng (GMT+7) ngày 21 tháng 5 năm 1993, một cư sĩ ước chừng khoảng 50 tuổi[11] đã đến ngồi cạnh mộ Thích Đôn Hậu và tự thiêu.[5][40] Vụ tự thiêu diễn ra ngay trước sự chứng kiến của những du khách đang tham quan chùa.[11] Theo tường thuật từ tờ The New York Times, trước khi tự thiêu người đàn ông đã đặt hoa và trái cây lên ba chiếc đĩa, mỗi cái đĩa đặt trước một trong ba bức tượng Phật bằng vàng của chùa. Từ vị trí này, ông đi bộ ra khoảng một trăm thước đến sân đá hoa cương ở phía sau chùa rồi đổ xăng vào người, đánh diêm để tự tử. Một trong số các vị lãnh đạo trong chùa cho biết, người đàn ông không hề biểu hiện sự đau đớn trên gương mặt. Trong quá trình tự thiêu, anh luôn liên tục nói, "Đức Phật".[40] Ngay sau đó, cảnh sát địa phương đã có mặt tại hiện trường để di dời thi thể và đem theo tài sản của người đàn ông, bao gồm một bức thư mà người này để lại.[5]

Từ gia đình của người tự thiêu, các nhà sư tại chùa ngày hôm đó đã xác định người đàn ông này là một Phật tử tên Nguyễn Ngọc Dũng, người gốc Huế. Nhưng để bảo vệ gia đình người tự thiêu khỏi bị ảnh hưởng từ vụ việc, những nhà sư đã quyết định không công khai danh tính thật của Phật tử trên.[2][3] Khi trụ trì của chùa là Thích Trí Tựu yêu cầu công an trả lại thi thể người tự thiêu để các nhà sư làm lễ an táng theo nghi thức Phật giáo dành cho người quá cố, các nhà chức trách đã từ chối.[5] Thích Trí Tựu cùng các nhà sư khác quyết định lập một bàn vong nhỏ cho người đàn ông đã tự thiêu, trong đó viết một tấm bảng đặt bên nơi người đàn ông đã tự thiêu với dòng chữ: "Tại đây, vào lúc 9 giờ sáng ngày 21 tháng 5, một Phật tử đã phát đại nguyện tự thiêu để bảo vệ đức tin Phật giáo".[5] Khi nghi thức đang diễn ra thì công an đã xuất hiện và đến phá đi.[10][40]

Phản ứng lại với vụ tự thiêu, chính quyền ngay lập tức phủ nhận người tự thiêu là một nhà sư. Ngay trong tối ngày xảy ra tự thiêu, từ đài phát thanh Huế đã loan tin rằng người tự thiêu ở chùa Thiên Mụ không phải Phật tử mà là "một kẻ nghiện ma túy tuyệt vọng mắc bệnh AIDS".[5][41] Trái ngược với xác định của các nhà sư, chính quyền cũng cho biết người tự thiêu tên Đào Quang Hộ, là người ở tỉnh An Giang.[16][42] Nhiều cơ quan báo chí Việt Nam và quốc tế đã thống nhất dẫn lại theo cái tên này theo báo cáo từ chính quyền.[16][40] Bản tin còn củng cố khẳng định bằng một buổi phỏng vấn với người được cho là vợ của Đào Quang Hộ[3] và một người khác là anh trai người tự thiêu, cho biết em trai quá cố không phải Phật tử mà chỉ là một người "bị trầm cảm nặng nề về chuyện gia đình, và các nhà sư ở Linh Mụ (Thiên Mụ) đã lợi dụng sự trầm cảm của em trai" để ép phải quyên sinh.[5] Mâu thuẫn chuyện gia đình, cụ thể theo chính quyền, là việc hai vợ chồng đã có xung đột với nhau về một chiếc bình cổ.[3][43] Tuy nhiên, bản tin không giải thích được tại sao người đàn ông này phải đi một quãng đường dài từ An Giang đến Huế để tự thiêu, cũng như việc tự thiêu lại nhằm vào đúng ngày giỗ đầu của Thích Đôn Hậu và ngay tại chùa nơi ông trụ trì.[3][11] Lý giải về việc không có bất cứ bức hình nào về người đàn ông được đưa ra, báo chí chính quyền cho biết Đào Quang Hộ đã đốt hết các bức ảnh của mình trước khi đi đến lựa chọn tự sát.[3]

Biểu tình bắt giữ Thích Trí Tựu

sửa

Ngày 22 tháng 5 năm 1993, Đại đức Thích Trí Tựu một lần nữa đã viết đơn xin nhận thi thể người tự thiêu về để nhà chùa làm lễ an táng. Một ngày sau, ngày 23 tháng 5, ông nhận được giấy triệu tập lên Ủy ban nhân dân Thành phố Huế để làm việc sáng ngày mai. Ông một mình đi vào UBND và có ba vị sư đi cùng đứng đợi bên ngoài. Tại buổi làm việc diễn ra từ 7:30 sáng (GMT+7) ngày 24 tháng 5 năm 1993,[3] chính quyền đã yêu cầu ông ký xác nhận người tự thiêu không phải là Phật tử, và vẫn còn sống. Tuy nhiên, ông đã từ chối rồi đi ra trước trụ sở UBND ngồi tuyệt thực để phản đối lại quyết định của chính quyền địa phương. Ngay lúc này, ông đã bị công an hành hung và đưa trở lại vào trong trước sự chứng kiến của các ba vị sư tại chùa.[11][2] Tin tức về Thích Trí Tựu nhanh chóng lan rộng và đến tai các phật tử tại chùa Thiên Mụ. Do lo sợ ông bị công an đánh đập,[11] vào khoảng 9:00 sáng cùng ngày, một nhóm phật tử tại chùa Thiên Mụ đã tổ chức biểu tình bằng cách dàn hàng ngang ngồi trên một con đường gần UBND Thành phố Huế – nơi ông bị tạm giữ – và tuyệt thực.[40][3]

Ban đầu, có 3 nhà sư đến tọa kháng và bị rào lại bằng rào sắt, nhưng khi con số lên đến 7 người thì hàng rào đã thay bằng đám đông vây kín quanh các nhà sư theo dõi sự việc.[44] Các quan chức địa phương và từ Ban Tôn giáo Chính phủ được cử xuống tận nơi để thỏa thuận với các nhà sư, mời họ về trụ sở UBND làm việc. Đáp lại, những nhà sư tọa kháng đã từ chối đề nghị này do nghi ngại bị bắt giữ. Họ cũng yêu cầu UBND phải thả thầy Thích Trí Tựu ra thì mới giải tán đi.[11][45] Một du khách nam gốc Á đã đi ngang qua cuộc biểu tình và giơ máy ảnh chụp lại, nhưng ngay sau đó người của an ninh đã đến thu chiếc máy ảnh của người đàn ông.[46] Ngoài các phật tử, cuộc biểu tình nhanh chóng thu hút sự hiếu kỳ từ nhiều người xung quanh rồi tụ tập lại thành một đám đông lớn, làm tắc nghẽn giao thông ở mọi hướng của vòng xoay giao thông chính trong thành phố và làm tắc nghẽn cả một đoạn Quốc lộ 1.[5][47] Bất chấp việc chính quyền đã bắc loa liên tục yêu cầu những người tham gia giao thông và đường bộ phải giải tán khỏi chỗ các nhà sư tọa kháng,[44] chỉ trong vòng vài giờ đã có 40.000 Phật tử, sinh viên cùng các tầng lớp nhân dân tập trung lại chỗ những nhà sư biểu tình.[2][3] Với số lượng đông đảo người tham gia biểu tình, đây được xem là biểu tình có quy mô lớn nhất kể từ ngày Việt Nam thống nhất.[4][41]

Khi một chiếc xe jeep của chính quyền chở Hòa thượng Thích Trí Tựu từ UBND ra, các nhà sư và đám đông đi theo đã lao đến bao vây lại chiếc xe.[5][46] Dựa trên đoạn băng ghi lại cuộc biểu tình của công an, chiếc xe đã quay mặt lại với hướng cầu Phú Xuân – nơi dẫn đến chùa Thiên Mụ – và hướng về phía Nhà tù Thừa Phú cách trụ sở UBND không xa. Điều này chứng tỏ Thích Trí Tựu thực sự bị bắt giam, khác với lời của chính quyền nói chỉ đưa về nhà chùa.[48] Các nguồn tin Phật giáo cho biết những nhà sư có mặt hôm đó đã nhìn thấy Thích Trí Tựu bất tỉnh ở phía sau xe jeep và nghi ngờ thầy mình bị thương.[5][46] Những Phật tử và nhà sư quanh xe jeep đã chặn đường xe đi bằng việc nằm chắn trước mũi xe hoặc trèo lên hẳn mui xe, liên tục khóc yêu cầu thả thầy mình ra.[48] Những người trong vòng tụ tập ấy sau đó cố gắng mở cửa xe và đưa Hòa thượng Thích Trí Tựu, lúc này có vẻ như đã bất tỉnh, ra ngoài và lên một chiếc xích lô, băng qua đám đông đưa về chùa Thiên Mụ.[5] Một nhà sư trẻ, mặc áo trắng, được cho là người thành công mở cửa chiếc xe jeep và đã bị lực lượng an ninh đánh đập.[49] Nhà sư trẻ Thích Hải Thịnh vẫn đứng trên xe jeep, vừa vẫy tay vừa nói chuyện với đám đông, hô lên khẩu hiệu "Đàn áp Phật giáo" trong sự hưởng ứng của những người bên dưới.[50] Thích Hải Thịnh đã hai lần nhảy xuống để tìm thầy Thích Trí Tựu trong đám đông nhưng không thành.[51] Trong khi đó, bốn nhà sư khác, bao gồm Thích Hải Tạng, tiếp tục ngồi tọa kháng do chưa hề biết tình trạng của thầy mình.[51]

Chiếc xe jeep đã bị người dân lật lại và đốt cháy. Một xe cứu hỏa nhanh chóng được điều đến hiện trường trước khi đám đông đốt xe nhưng đã cố ý không ngăn chặn ngọn lửa để giữ lại chiếc xe.[5][52] Theo The New York Times, việc người biểu tình lật xe của chính phủ là một trong số các hành động chống đối hiếm thấy tại Việt Nam.[53] Nhưng từ báo cáo của những nhân chứng trong cuộc biểu tình, những công an mặc thường phục được cho là người đốt cháy xe để làm nặng thêm tình tiết sự việc. Những người này cũng đã trà trộn vào đám đông và bắt giữ những người biểu tình.[54] Quá trình lật và đốt cháy xe đã khiến cho giao thông bị tê liệt trong 3 giờ đồng hồ.[55] Ngay sau đó, khoảng 200 lính từ lực lượng quân đội nhân dân đã phối hợp với cảnh sát xông vào đám đông và sử dụng vòi rồng, dùi cui điện, và bình xịt hơi cay tấn công vào những người tụ tập.[2][3] Một người phụ nữ mặc áo ngủ hoa đã bị bắt bởi lính quân đội vì tiếp nước cho các nhà sư. Đám đông tụ tập bị rào khỏi chiếc xe đang cháy nhưng sư Thích Hải Thịnh lúc này vẫn ra tọa kháng một mình giữa đường, liên tục hô to "Đàn áp Phật giáo" trong sự bao vây của an ninh.[56] Cuộc biểu tình chỉ kết thúc vào khoảng 2:30 chiều sau hơn 5 tiếng đồng hồ diễn ra, khi một nhà sư từ chùa Thiên Mụ thông báo thầy Thích Trí Tựu đã về chùa một cách an toàn và các nhà sư đứng dậy đi về.[57]

Đã có nhiều báo cáo trái ngược nhau về vụ biểu tình. Các nhà chức trách Việt Nam đã cho rằng Hòa thượng Thích Trí Tựu cùng các tu sĩ Phật giáo khác đã kích động đám đông dẫn đến xô xát bạo lực khiến cho một chiếc xe chính phủ bị lật và nhiều cảnh sát bị thương. Trong khi đó, Thích Trí Tựu lại cho rằng đám đông chỉ đang đáp trả việc lực lượng vũ trang Việt Nam đã sử dụng hơi cay, vòi rồng tấn công vào họ. Đến khi thông tin Hòa thượng Tựu trở về chùa thì vụ biểu tình mới nhanh chóng lắng xuống.[16] Dẫn lời trên The New York Times, một bức thư được cho là từ Thích Trí Tựu gửi đến nhóm bất đồng chính kiến tại Paris đã cảnh báo chính phủ Việt Nam nhượng bộ việc "đàn áp" các Phật tử, còn không sẽ "biến cơ thể của mình thành ngọn đuốc soi sáng sự thật".[58]

Bắt giữ và xét xử

sửa

Sau khi vụ biểu tình tại Huế diễn ra, cảnh sát đã lần lượt bắt giữ sáu nhà sư chùa Thiên Mụ, trong đó có Hòa thượng Thích Trí Tựu, với tội danh kích động biểu tình. Theo nguồn tin Phật giáo, ít nhất 50 người khác cũng bị bắt vì có liên quan đến cuộc đối đầu.[5][53] Những người bị bắt hầu hết đều là thành viên của GHPGVNTN.[16] Ngày 5 tháng 6 năm 1993, Thích Trí Tựu, Thích Hải Tạng và Thích Hải Thịnh bị bắt tại chùa;[5] ba ông đã bị chính quyền yêu cầu giữ lại y phục tu sĩ khi bị bắt giữ. Đến ngày 10 tháng 6, chính quyền xác nhận việc bắt giữ ba nhà sư trên cùng chín cá nhân "cực đoan" khác vì vai trò của họ trong việc phá hủy chiếc xe jeep công. Vào ngày 19 tháng 7 cùng năm, Hòa thượng Thích Hải Chánh và hai sa di nam khác đã bị bắt vì tội “xúi giục người khác gây rối trật tự công cộng và phá hoại tài sản nhà nước" trong cuộc biểu tình.[5][29]

Trong vòng 5 tháng trước phiên tòa xét xử, báo chí trong nước liên tục tung ra bài viết bôi nhọ uy tín những nhà sư bị bắt ở Huế.[11][59] Có tổng cộng 110 bài báo chỉ trích đã xuất hiện trên 8 tờ báo đại chúng để công kích các nhà sư.[60] Vũ Quang, Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ, đã mô tả các bị cáo là "những kẻ dối trá đánh mất uy tín trong mắt nhân dân bằng cách sử dụng lời khai gian, giả mạo và bạo lực", ngụ ý rằng họ phải chịu trách nhiệm về cái chết của người đàn ông tự thiêu tại chùa. Vũ Quang cũng nói với các phóng viên rằng chính phủ đang điều tra vụ tự thiêu ở chùa Linh Mụ là "giết người hay tự sát" và nói rằng Thích Trí Tựu "phải chịu trách nhiệm về cái chết trên vì nó xảy ra ngay tại chùa của ông".[5]

Vào ngày 15 tháng 11 năm 1993, một phiên tòa kín xét xử các bị cáo trong vụ biểu tình đã diễn ra trong vòng một ngày tại doanh trại quân đội ở Huế. Hòa thượng Thích Trí Tựu, người bị công an triệu tập lên thẩm vấn và bất tỉnh trên xe jeep, bị buộc tội là "thủ lĩnh của cuộc bạo loạn". Ông phải chịu án 4 năm tù giam – ngang với án tù của người phá hoại chiếc xe tên Nguyễn Văn Minh, nhưng Minh còn phải chịu thêm phí phạt khoảng 22.000 USD.[5] Thích Hải Tạng cũng bị kết án bốn năm tù do kích động các thành viên trong đám đông chặn xe lại, lật ngược xe lên và đốt nó. Hai nhà sư Thích Hải Thịnh và Thích Hải Chánh nhận án 3 năm tù với nguyên do tương tự, đặc biệt là Thích Hải Thịnh bị cáo buộc đã đứng lên trên mui xe jeep của UBND Huế và "phỉ báng" giới cầm quyền.[16][53] Bốn giáo dân còn lại bị kết án tù từ 6 đến 12 tháng vì tội gây rối trật tự công cộng. Riêng hai sa di bị bắt cùng với Thích Hải Chánh đã không phải tham dự phiên xét xử mà được chính quyền cho tại ngoại.[5] Đáng chú ý tại phiên tòa này, gia đình Phật tử tự thiêu tại chùa Thiên Mụ, tên Nguyễn Ngọc Dũng lần đầu tiên đã xuất hiện và công khai sự thật về danh tính người thân của mình.[3]

Cuối tháng 1 năm 1994, Thích Trí Tựu, Thích Hải Tạng, Thích Hải Thịnh và Thích Hải Chánh bị chuyển nơi cải tạo từ trại giam Thừa Phú ở Huế về trại giam Ba Sao ở Phủ Lý, tỉnh Nam Hà cũ.[5] Vào cuối tháng 4 cùng năm, bốn nhà sư quyết định tổ chức tuyệt thực trong hai tháng để kháng cáo bản án mà chính quyền đưa ra. Các tù nhân chính trị khác cũng tham gia hưởng ứng. Lãnh đạo trại giam sau đó đã chuyển họ từ khu A dành cho tù nhân chính trị sang khu B dành cho tội phạm nguy hiểm thông thường.[4] Các nhà sư bị ép tiêm nước muối thay ăn, và những người đến thăm nhà sư đều bị từ chối. Kể từ cuộc tuyệt thực tháng 4 năm 1994, báo cáo của HRW vào tháng 3 năm 1995 cho biết Thích Hải Tạng đang ở trong tình trạng sức khỏe yếu và bị bệnh về dạ dày.[5] Tuy nhiên, chính quyền đã từ chối yêu cầu điều trị y tế cho các nhà sư.[4]

Hệ quả

sửa
Tỉnh, thành phố diễn ra các cuộc biểu tình liên quan đến căng thẳng sau cuộc biểu tình ngày 24 tháng 5 năm 1993.

Biểu tình ở chùa Sơn Linh 1993

sửa

Hai tháng sau cuộc biểu tình lớn ở Huế, một cuộc bắt giữ và biểu tình khác giữa các nhà sư với chính quyền đã diễn ra ở chùa Sơn Linh, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Vào năm 1982, sư Thích Hạnh Đức đã được bổ nhiệm làm trụ trì chùa Sơn Linh bởi GHPGVN. Đến tháng 7 năm 1992, Mặt trận Tổ quốc và Ủy ban nhân dân tỉnh Vũng Tàu ban hành lệnh trục xuất Thích Hạnh Đức cùng các nhà sư khác tại chùa, sau khi ông công khai đọc bản thỉnh nguyện của Thích Huyền Quang, cũng như ủng hộ việc khôi phục GHPGVNTN.[5] Ông còn bị cáo buộc tổ chức một vụ biểu tình chống chính phủ hồi đầu tháng 6 năm 1993.[16] Vào ngày 23 tháng 2 năm 1993, ông chính thức bị trục xuất khỏi GHPGVN vì "vi phạm các nguyên tắc của Phật giáo Việt Nam". Xung đột chính xảy ra vào ngày 9 tháng 7 năm 1993, khi chính quyền vào tận nhà chùa để thực hiện lệnh trục xuất, sau hành động ủng hộ biểu tình Huế của Thích Hạnh Đức và việc ông thách thức tính hợp lệ của lệnh trục xuất trên.[5][16]

Theo chính quyền, những người ủng hộ Thích Hạnh Đức đã bắt một người của chính quyền làm con tin không cho đưa thầy đi. Vũ Quang cũng cáo buộc đám đông đã tấn công chính quyền và chùa tàng trữ vũ khí, chất nổ trái phép.[5] Nhưng theo GHPGVNTN, cảnh sát đã bị chèn ép giữa đám đông tụ tập quá lớn tại chùa. Sau đó, một cuộc xô xát đã xảy ra khi lực lượng an ninh cố gắng xông vào chùa bằng xe tăng, sử dụng hơi cay và đánh đập người biểu tình bằng dùi cui. Theo Giáo hội Thống nhất, đám đông hoàn toàn bất bạo động và chỉ phản vệ chính đáng bằng việc ném đá vào lực lượng an ninh đang tấn công. 100 nhà sư và những người ủng hộ Thích Hạnh Đức đã bị bắt giữ trong cuộc đối đầu; hầu hết những người bị bắt đều lập tức được thả ra ngoại trừ Thích Hạnh Đức, sư Thích Thiện Thọ và bốn, năm người ủng hộ bị cho là sở hữu kho vũ khí gồm 5 kg thuốc nổ, gậy và dao.[16] Sau cùng, Thích Hạnh Đức bị kết án ba năm tù giam do tội "chống người thi hành công vụ" với cáo buộc "hoạt động trái pháp luật" và "phát tán tài liệu thù địch với chính quyền xã hội chủ nghĩa". Thích Thiện Thọ phải chịu án 18 tháng quản thức tại gia với tội danh tương tự.[5][16]

Gia tăng căng thẳng sang 1994–1996

sửa

Sau biểu tình lớn tháng 5 năm 1993, trong giai đoạn 1993–1994 chính phủ Việt Nam vẫn tiếp tục các chiến dịch đàn áp mạnh mẽ GHPGVNTN, đặc biệt là phá hủy các bảng ghi có chứa "Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất" trong khuôn viên các cơ sở thờ tự.[61]

Trong năm 1994, các vụ biểu tình và tự thiêu chống lại chính sách tôn giáo của chính quyền ngày một diễn ra nhiều hơn không chỉ trong số các thành viên thuộc GHPGVNTN mà còn có sự đồng cảm và tham gia của GHPGVN.[5][62] Nhiều nhà sư, lãnh đạo cấp cao trong Giáo hội Phật giáo Thống nhất đã bị bắt giữ và quản thúc tại gia như một nước đi của chính quyền nhằm dẹp bỏ hoàn toàn tổ chức. Nổi bật trong số này có vụ bắt giữ Thích Huyền Quang vào ngày 29 tháng 12 năm 1994 và Thích Quảng Độ vào ngày 5 tháng 1 năm 1995. Cùng với những vụ bắt giữ lớn này sẽ là vụ bắt giữ nhắm vào những nhà sư khác trong giáo hội, như việc bắt giam 5 nhà sư vì có ý định tổ chức quyên góp từ thiện cho trận lũ lớn trên sông Cửu Long, dưới danh nghĩa GHPGVNTN.[5][63]

Theo một thống kê của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) vào năm 1995, có ít nhất hai chục Phật tử đang ở trong tình trạng bị giam giữ tại Việt Nam kể từ 1992 đến thời điểm báo cáo được xuất bản; 5 người trong số này không rõ tung tích. Đáng chú ý, những nhà sư bị bắt không được chính quyền xem như là người của tôn giáo; họ bị cáo buộc bằng tên gọi thế tục thay vì tên gọi tôn giáo, và họ cũng bị buộc phải mặc thường phục khi đến tòa án thay vì mặc áo cà sa. Những vụ bắt bớ các nhà sư đều được hợp thức hóa qua điều 70 của Hiến pháp Việt Nam năm 1992; điểm b, c trong điều 81 của Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1981 và điều 5 trong Nghị định số 69 của Hội đồng Bộ trưởng; cùng với đó là các phiên tòa xét xử công khai nhà sư, bất chấp việc hành động này đi ngược lại những điều nằm trong Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị mà Việt Nam đã ký và thông qua vào năm 1982.[5]

Miền Nam Việt Nam

sửa

Vào giữa trưa ngày 28 tháng 5 năm 1994, nhà sư Thích Huệ Thâu ở khu vực Ba Càng thuộc Đồng bằng sông Cửu Long đã tự thiêu trong tư thế xếp bằng ở một con đê phía sau chùa. Theo người thân của nhà sư, ông đã quyết định đến với cái chết do không tìm thấy "sự độc lập". Trước đó, nhà sư Thích Huệ Thâu được cho là đã bị cấm hành đạo trong số các ngôi chùa ở Vĩnh Long do ông là thành viên của GHPGVNTN, trong khi các ngôi chùa lúc này do GHPGVN quản lý. Do vậy, ông đã tự dựng một ngôi chùa nhỏ nhưng sau đó đã bị chính quyền Việt Nam dỡ bỏ và buộc tội ông vào hoạt động "mê tín".[33] Khoảng 3 ngày trước khi tự tử, ông cũng đã dẫn đầu một nhóm khoảng 47 Tăng Ni mang theo cờ Phật giáo biểu tình ôn hòa đến trụ sở của UBND tỉnh Vĩnh Long để yêu cầu về quyền tự do tôn giáo.[64]

Tại Thành phố Hồ Chí Minh, từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 8 cùng năm, một cuộc biểu tình của các Phật tử đã diễn ra với sự lãnh đạo của thành viên GHPGVNTN Thích Giác Nguyên, trụ trì chùa Long An ở tỉnh Trà Vinh. Những nhà sư đã tụ tập trước trụ sở Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh để phản đối chính quyền can dự vào các vấn đề trong nội bộ nhà chùa. Kết quả, ngày 7 tháng 8 cùng năm Thích Giác Nguyên đã bị bắt giữ tại một ngôi chùa trong thành phố và đến ngày 18 tháng 8 chính quyền xác nhận việc giam giữ và thẩm vấn ông.[5] Trả lời với hãng thông tấn Agence France-Presse, một phát ngôn viên của chính phủ cho biết vụ việc không liên quan đến tôn giáo và người này đã bị bắt vì hành vi "bất đồng chính kiến".[33]

Vào tháng 10 năm 1994, Thích Quảng Độ cùng Thích Đức Nhuận đã chỉ đạo nhiều nhà sư khác bao gồm Thích Không Tánh, Thích Nhật Ban, Thích Hồng Ngọc, Thích Nguyên Lý... thành lập "Tăng đoàn bảo vệ chánh pháp" và "Ban công tác từ thiện xã hội – GHPGVNTN".[65][66] Hai tổ chức này đã đại diện GHPGVNTN phát động chiến dịch cứu trợ lũ lụt tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, nơi vừa trải qua trận lũ kỷ lục trong lịch sử.[67] Trong hai ngày 5 và 6 tháng 11 cùng năm, 60 nhà sư trong giáo hội cùng 300 tín đồ Phật giáo đã tụ về Thành phố Hồ Chí Minh để chuẩn bị công việc từ thiện.[66] Theo cáo buộc của chính quyền, khoảng 150 Tăng Ni, Phật tử tham gia đã treo cờ Phật giáo, giăng băng rôn "GHPGVNTN".[65][63] Nhưng ngay khi đoàn định xuất phát thì công an bất ngờ phát động một cuộc bắt giữ.[66] 5 nhà sư đã bị bắt lại;[5] hàng cứu trợ gồm 10 đoàn xe chở thuốc, chăn màn và lương thực cũng bị tịch thu toàn bộ.[61][66] Đến ngày 15 tháng 8 năm 1995, trong phiên xét xử kín diễn ra một ngày tại Tòa án nhân dân TPHCM,[68] nhiều cá nhân đã bị xử phạt với tội danh "phá hoại chính sách đoàn kết" và "lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để xâm phạm quyền lợi Nhà nước".[67] Các nhà quan sát ngoại giao từ Đại sứ quán châu Âu và Mỹ được cử đến đã bị từ chối không cho tham dự phiên tòa. Ba luật sư người Pháp từ Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền (FIDH) được GHPGVNTN ủy nhiệm biện hộ không thể lấy visa vào Việt Nam, trong khi những nhà sư cố gắng lẻn vào bị bắt giam cho đến khi hết phiên tòa.[69] Ba Phật tử sau đó đã kháng cáo các bản án dành cho họ vào ngày 28 tháng 10 nhưng bị từ chối tại phiên phúc thẩm.[66]

Huế

sửa

Vào ngày 27 tháng 11 năm 1994, một nhóm các nữ tu và nhà sư đã phản đối việc mở một trường tôn giáo tại chùa Báo Quốc, Huế. Nhóm các nhà sư thuộc GHPGVN đã mang thỉnh nguyện thư phản đối chính sách tuyển sinh phân biệt đối xử của trường và chính sách tuyên truyền chính trị trong chương trình giảng dạy. Chính phủ Việt Nam tuyên bố những người biểu tình đã xông vào chùa Báo Quốc và làm bị thương những người tại hiện trường. Một nguồn tin khác cho biết đã xảy ra xô xát dữ dội giữa các nhà sư tham dự lễ khai trường và những người phản đối. Hai người trong nhóm nhà sư phản đối đã ném đá vào phía còn lại, được cho là theo sự xúi gục của cảnh sát chìm cải trang trong đám đông hỗn loạn. Thay vì tập trung vào nội dung chính của biểu tình, chính quyền đã cố gắng chuyển sự chú ý sang vụ ẩu đả và tô vẽ sự việc như cuộc tranh chấp giữa những tín đồ Phật giáo trong tỉnh. Một phóng sự ghi lại toàn cảnh đánh nhau đã được phát trên Đài Truyền hình Việt Nam, và hai nhà sư trẻ Thích Thái Hưng và Thích Hạnh Đức sau đó bị bắt vì là người ném đá trong cuộc biểu tình.[5]

Ngày 22 tháng 11 năm 1996, 200 cảnh sát đã xông vào chùa Thiên Mụ và bắt hai nhà sư Thích Hải Thịnh, Thích Hải Chánh. Vụ bắt giữ chính thức diễn ra sau khi ngôi chùa này của GHPGVNTN bị chính quyền cho dừng hoạt động và đưa vào diện bảo tồn theo xếp hạng di tích lịch sử quốc gia.[70]

Bắt giữ Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ

sửa

Từ năm 1992 đến 1994, Hòa thượng Thích Huyền Quang đã công bố liên tiếp ít nhất bảy thư thỉnh nguyện kêu gọi khôi phục Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Vì uy tín của ông trong giới Phật giáo, chính quyền bắt đầu tìm cách cô lập và hủy bỏ tư cách lãnh đạo của ông. Ngày 4 tháng 8 năm 1993, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã có công văn cấm Thích Huyền Quang nhân danh GHPGVNTN tiến hành mọi hoạt động và yêu cầu cho ông phải từ bỏ con dấu của Pháp viện được trao tại lễ tang Thích Đôn Hậu. Hai ngày sau đó, Đài Tiếng nói Việt Nam đưa tin các sư trụ trì chùa của GHPGVN đã tụ họp ở Quảng Ngãi và Hà Nội để ủng hộ lệnh cấm trên. Cuộc đàn áp còn diễn ra tới 1994 khi căng thẳng leo thang, đặc biệt là sau cuộc biểu tình ở Thành phố Hồ Chí Minh. Trong một bức thư của tăng thống GHPGVNTN, ông cho biết bản thân vẫn bị giam giữ nghiêm ngặt tại chùa Hội Phước, Quảng Ngãi như 13 năm trước và không được tiếp cận bất kỳ du khách nào. Sau vụ tuyệt thực của Thích Huyền Quang để phản đối giam giữ các nhà sư biểu tình tại UBND Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 12 năm 1994 chính quyền đã chuyển ông đến một ngôi chùa ở làng biệt lập trong tỉnh và ngăn cho nhà sư có liên lạc nào với thế giới bên ngoài.[5][71]

Vào ngày 19 tháng 8 năm 1994, Hòa thượng Thích Quảng Độ, lúc này vừa lên đảm nhiệm chức Tổng Thư ký Viện Hóa Đạo của GHPGVNTN, đã có thư gửi đến Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười sau các cuộc đàn áp Phật giáo và quyết định kỷ niệm một ngày Quốc tang tại Việt Nam dành cho Tổng Bí thư Đảng Lao động Triều Tiên Kim Nhật Thành của Chính phủ Việt Nam.[72] Trong lá thư, ông đã chất vấn việc chính quyền tôn vinh lãnh đạo Triều Tiên thay vì các nhà sư tử đạo, kèm theo đó là một bài phê bình dài 44 trang phê phán chủ nghĩa cộng sản cũng như chính sách đàn áp Phật giáo của chính phủ.[5] Một bản sao của lá thư đã được gửi bí mật cho Võ Văn Ái – Phát ngôn viên Quốc tế của GHPGVNTN tại Paris, Pháp. Thích Quảng Độ đã yêu cầu ông Ái công khai lá thư nếu 6 tháng kể từ khi gửi mà chính phủ Việt Nam không có phản hồi.[61]

Sau vụ giam giữ các nhà sư trong vụ từ thiện lũ lụt tháng 11 năm 1994, việc Thích Quảng Độ lên tiếng phản đối đã dẫn đến việc chùa Tánh Minh nơi ông trụ trì ở Thành phố Hồ Chí Minh bị tăng cường giám sát. Thái độ bất bình của Thích Quảng Độ qua bức thư trên cũng dẫn đến vụ bắt giữ ông vào ngày 4 tháng 1 năm 1995 vì tội "kích động gây rối" và "vi phạm pháp luật Việt Nam", dù trước đó ông đang bị điều tra về hành vi "gây rối trật tự nơi công cộng".[5] Chính quyền Hà Nội tuyên bố đang xét xử Thích Quảng Độ "với tư cách một tên côn đồ, không phải với tư cách một Phật tử".[66] Sau đó, ông cùng với 5 nhà sư khác trong đoàn cứu trợ lũ lụt bị kết án 5 năm tù giam, 5 năm quản chế[63] theo tội "phá hoại chính sách đoàn kết và lợi dụng quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích nhà nước", tuy nhiên Thích Quảng Độ đã được ân xá sớm vào tháng 9 năm 1998 vì áp lực ngoại giao từ phía Mỹ yêu cầu Việt Nam trả tự do cho nhà sư.[73][70] Nhưng theo phía chính quyền, lý do Thích Quảng Độ ra tù sớm là vì ông đã viết thư "ăn năn hối cải" trong đợt ân xá Quốc khánh.[63][74]

Nhiều nhà sư và tín đồ Phật giáo miền Nam đã viết kiến nghị lên chính quyền phản đối việc bắt giữ Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ. Sau khi Thích Huyền Quang bị cô lập, 49 chức sắc cao trong GHPGVNTN ở tỉnh Bình Định đã gửi yêu cầu tới chính phủ Việt Nam lập tức thả Đại Thượng Phu Huyền Quang. Tháng 9 năm 1995, 280 tăng ni và Phật tử ở TPHCM viết thư cho thủ tướng Võ Văn Kiệt phản đối phiên tòa xét xử bất công với Thích Quảng Độ và 5 nhà sư khác cứu trợ lũ lụt. Một đơn kiến nghị khác, viết bởi 233 tu sĩ và nông dân tại ĐBSCL, cũng được bí mật gửi cho nhà báo Võ Văn Ái, không những mô tả những khó khăn sau trận ngập lụt năm 1994 mà yêu cầu chính quyền thả các nhà sư cứu trợ bị bắt, tuyên bố: "Họ chỉ cố gắng giải cứu chúng tôi chứ không làm gì chống lại chính phủ".[75] Các vụ bắt và giam giữ cũng thu hút sự chú ý từ truyền thông quốc tế[76] và phản ứng của các chính khách tại Hoa Kỳ. Ba lá thư từ Thượng viện Hoa Kỳ, lần lượt do John McCainJohn Kerry gửi đến Tổng Bí thư Đỗ Mười (10 tháng 1), Orrin G. Hatch, J. Robert Kerrey, Tom DaschleCharles S. Robb gửi đến Thủ tướng Võ Văn Kiệt (23 tháng 1) cũng đã yêu cầu chính quyền Việt Nam làm rõ trường hợp bắt giữ Thích Huyền Quang cùng Thích Quảng Độ, đồng thời tái cam kết sẽ thực hiện các nguyên tắc cơ bản về nhân quyền. Tuyên bố chung trong các bức điện, các Thượng nghị sĩ đã khẳng định vụ bắt giữ trên là hành động gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới quan hệ song phương giữa Hoa Kỳ và Việt Nam và theo đó đã yêu cầu chính quyền Việt Nam ngay lập tức thả các nhà sư.[77]

Phản ứng chính quyền Việt Nam

sửa

Biểu tình Phật giáo tại Huế xem là một cuộc biểu tình lớn "chưa từng có" dưới chế độ Cộng sản.[66] Tại Hội nghị "Diễn biến Hoà bình" diễn ra ở Hải Phòng ngày 26 tháng 6 năm 1993, Thượng tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Đặng Vũ Hiệp đã đánh giá cuộc biểu tình của các Phật tử Huế gây ra "nguy cơ mất nước".[10] Các cảnh sát và người của chính quyền đều có thái độ bị động, hoàn toàn chưa chuẩn bị trước cuộc biểu tình này. Hành động của lực lượng an ninh trong biểu tình chỉ là cố gắng kiềm chế bạo lực trong đám đông và hạn chế mọi cách làm tổn hại đến các nhà sư đang tuyệt thực để tránh tạo ra phản ứng dây chuyền; và chỉ đến khi các nhà sư đi hết thì chính quyền mới cho người giải tán đám đông.[54] Từ sau vụ biểu tình ở Huế 1993, Bộ Chính trị ĐCSVN đã ra chỉ thị cho quân đội trực tiếp tham gia vào việc kiểm soát các tôn giáo nói chung tại Việt Nam.[78]

"Tôi có thể nói, các nhà sư [này] đang cố gắng phá hoại sự đoàn kết của Phật giáo Việt Nam, họ không được đa số người dân Việt Nam ủng hộ. Hành động của các nhà sư ở Huế là bất hợp pháp. Đi ngược lại giáo lý của Phật giáo, vốn phi bạo lực."

— Vũ Quang, Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ[b]

Nhìn chung, chính quyền coi cuộc biểu tình là một "cuộc bạo động có tổ chức", dù diễn biến của sự việc cho thấy mọi thứ đều mang tính tự phát.[29] Theo đó, tuyên bố chung của chính phủ đã xem biểu tình ở Huế của các nhà sư là hành động lợi dụng tự do tôn giáo để "thực hiện mưu đồ chính trị", gây rối phá hoại sự đoàn kết của đất nước.[75] Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ Vũ Quang cho biết các "vị sư xấu" ở Huế đang cố vẽ chân dung ông Nguyễn Ngọc Dũng như một người tử đạo và xem "hành động của chư Tăng tại Huế là vi phạm pháp luật".[40] Trả lời với thời báo Tampa Bay Times, cán bộ Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Xuân Phong đã cáo buộc trụ trì Thích Trí Tựu "cấu kết với các tổ chức chống cộng ở hải ngoại".[cần dẫn nguồn] Một cán bộ ngoại giao khác ở thành phố Hồ Chí Minh cũng khẳng định động cơ các nhà sư là "gây bất ổn xã hội và lật đổ chính quyền".[29]

Sau 2 tháng kể từ khi cuộc biểu tình diễn ra, vào ngày 23 tháng 7 năm 1993, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã ký quyết định từ Văn phòng Chính phủ ban hành Chỉ thị 379/TTg về các hoạt động tôn giáo. Chỉ thị yêu cầu chính quyền địa phương cho phép các nơi thờ tự tôn giáo được tu sửa, đồng thời, trao trả một số cơ sở tôn giáo mà Nhà nước đã "mượn" nếu "sử dụng không đúng". Đồng thời, chỉ thị cũng yêu cầu cho phép in ấn kinh sách tôn giáo, đối với các kinh sách nước ngoài cần phải được kiểm tra "nhanh gọn". Ngoài ra, yêu cầu toàn bộ UBND tỉnh, thành phố và Ban tôn giáo Chính phủ phải gửi báo cáo tình hình tôn giáo mỗi quý về cho Văn phòng Chính phủ. Đồng thời, cũng cảnh báo về việc cấm "lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống Chính quyền, gây chia rẽ mối đoàn kết dân tộc".[79] Trước đó hôm 4 tháng 6, sau khi cuộc biểu tình diễn ra hơn một tuần, Chính phủ Việt Nam cũng đã ban hành Nghị định phân bổ quyền hạn, nhiệm vụ cho Ban Tôn giáo của Chính phủ.[80]

Ngoài các văn bản công khai, trong những tháng sau vụ biểu tình chính quyền đã ban hành hai chỉ thị mật liên quan tới việc tăng cường đàn áp GHPGVNTN một cách có tổ chức và trình tự trên mọi mặt trận truyền thông và an ninh. Trong đó, tài liệu thứ nhất được đánh dấu "Tối mật", ban hành bởi Ban Dân vận TW vào ngày 17 tháng 8 năm 1993 và ký bởi Trưởng ban Phan Minh Tánh; tài liệu thứ hai được phân loại "Tuyệt mật" do Bộ Nội vụ và Công an tỉnh Quảng Ngãi ban hành, do Đại tá Trương Hữu Quốc ký ngày 18 tháng 8 cùng năm. Các tài liệu mật này sau khi bị lộ ra và bị hai tổ chức FIDH cùng Ủy ban Nhân quyền Việt Nam đệ trình lên Ủy ban Nhân quyền LHQ vào tháng 2 năm 1993 đã không nhận được phản hồi chính thức nào từ phái đoàn Việt Nam trong ủy ban.[34]

Trái ngược thái độ chung từ giới cầm quyền tại Hà Nội với vụ biểu tình của các nhà sư, đã có những tiếng nói phản đối từ các Đảng viên, lên án các chính sách quản trị và đàn áp của ĐCSVN.[75] Tiêu biểu, Đỗ Trung Hiếu (bí danh Mười Anh), nguyên Chính ủy Đoàn công tác thống nhất Phật giáo Việt Nam trong Ban Tôn giáo Chính phủ, vào năm 1995 đã công bố một tài liệu đánh máy dài 50 trang đặt tên là "Thống nhất Phật giáo Việt Nam".[81] Tài liệu này ngoài kể lại chi tiết sự nhúng tay của chính quyền trong việc thành lập GHPGVN vào năm 1981 còn tố cáo nhà cầm quyền muốn "biến tướng Phật giáo Việt Nam trở thành tổ chức bù nhìn của Đảng".[82][83] Toàn bộ văn bản đã được ông gửi đến Ủy ban Nhân quyền Việt Nam sau đó.[81] Vì tài liệu này mà ông ngay lập tức bị bắt vào ngày 14 tháng 6 cùng năm và phải thụ án 18 tháng tù giam.[75][82]

Truyền thông Việt Nam

sửa

Trên báo Nhân Dân, một cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam đã phủ nhận sự tồn tại của GHPGVNTN sau 1965, và việc Thích Quảng Độ tiếp tục dẫn dắt tổ chức này là một trong các "chiêu bài để che đậy các hoạt động chính trị". Bình luận trước tác phẩm "Nhận định về những sai lầm tai hại của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc và Phật giáo Việt Nam" của Thích Quảng Độ đăng tải trên tập san Quê mẹ thuộc Phòng thông tin Phật giáo quốc tế, tờ báo cũng cho đây là những "nội dung vu khống" và "phản ánh trí tuệ thấp kém của tác giả".[84] Dẫn lời trên Tampa Bay Times, một giáo sư kiêm Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Ngoại ngữ Hà Nội đã cho biết, chính phủ Việt Nam đã bắt đầu cởi mở hơn đối với tôn giáo khi cho phép góp tiền xây dựng và tu sửa các cơ sở tôn giáo. Ông này cũng cho rằng, "chính phủ đã học được cách chung sống hòa bình hơn với tôn giáo". Một trụ trì tại Huế cũng có nhận định tương tự, người này cho biết, ngôi chùa đã được phép tân trang mà không có sự can thiệp của Chính phủ, đồng thời, số lượng Phật tử đến chùa cũng gia tăng với việc "đứng ngoài chính trị".[55]

Trong một bài báo xuất bản vào tháng 8 năm 1999, Hoàng Ngọc Vĩnh của tạp chí Sông Hương đã so sánh vụ biểu tình Phật giáo 1993 với biến cố Phật giáo 30 năm về trước, đều làm "náo động cả nước và thế giới". Bài viết lưu ý tuy có sự liên quan nhưng không thể đánh đồng tính chất hai vụ việc với nhau, song coi đó là bằng chứng cho vị trí của Phật giáo trong lòng người dân Huế xuyên suốt các giai đoạn lịch sử khác nhau.[85] Trong một tài liệu về quốc phòng xuất bản vào tháng 3 năm 2020, Học viện Nông nghiệp Việt Nam cũng đã đề cập tôn giáo và dân tộc như một trong các lĩnh vực mà "thế lực thù địch" sử dụng để chống phá nhà nước và bao gồm cả GHPGVNTN như một "tổ chức phản động".[86]

Phóng sự Tiếng chuông chùa

sửa

Toàn bộ cuộc biểu tình tại Huế ngày 24 tháng 5 năm 1993 đã được quay trọn lại trong một băng hình từ phía cảnh sát nhằm thu làm bằng chứng chống lại các nhà sư tham gia vào biểu tình ngày hôm đó.[11] Có đến 8 máy quay phim đã được đặt sẵn tại hiện tường để thu lại diễn biến của biểu tình từ nhiều góc độ khác nhau. Những người ghi lại biểu tình không chỉ có người của đài truyền hình mà còn có cả lực lượng an ninh. Điều này có thể thấy rõ qua tiếng của công an ra lệnh cho quay cận mặt những người tụ tập xung quanh xe của chính quyền.[54] Âm thanh của cuốn băng đã bị cố tình làm tệ đi và nhiều lúc không thể nghe được, đặc biệt là cảnh các nhà sư phát biểu trong đám đông biểu tình.[48]

Đối với các video bạo loạn trong cuộc biểu tình trước đó, chính quyền địa phương đã sử dụng nó như mục đích tuyên truyền chính trị, cáo buộc Phật tử GHPGVNTN có mặt hôm đó là những kẻ kích động. Toàn bộ cuộc biểu tình dài 5 giờ đã được biên tập và cắt ghép xuống thành 56 phút và thu trong băng cassette.[4] Dựa vào đoạn băng này, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Mai đã trả lời trên sóng phát thanh Việt Nam cho rằng, "nhà sư nhảy lên nóc xe Jeep [...] la hét, và đó không phải là một nhà sư Việt Nam trong mắt người dân Việt Nam". Nói thêm, "những người theo Phật giáo đi tranh giành quyền lực không phải là một Phật tử". Chính quyền địa phương cũng cáo buộc GHPGVNTN đang có ý định phục hồi chính quyền Việt Nam Cộng hòa.[33]

Tôn Nữ Thị Ninh, Vụ trưởng Vụ Quan hệ Quốc tế và các quan chức khác trong Bộ Ngoại giao Việt Nam sau đó đã thực hiện một chuyến tour dài ngày, đến thăm các chính phủ và tổ chức nhân quyền ở châu Âu, Canada và Hoa Kỳ để gửi bản sao từ đoạn băng cuộc biểu tình và chèn vào đó là những bình luận từ phía chính quyền Việt Nam.[59] Cũng trong vụ biểu tình Phật giáo ở Huế, lần đầu tiên và duy nhất chính quyền đã thử nghiệm việc cho phát sóng đoạn băng cuộc biểu tình lên kênh Đài Truyền hình quốc gia để truyền tải thái độ thù địch một cách rộng rãi tới quần chúng. Những hình ảnh trong buổi phát sóng đó được chủ đích khắc họa hình ảnh những nhà sư "cực đoan" trong cuộc biểu tình. Tuy nhiên, lần thử nghiệm này đã không đem lại hiệu quả mà ngược lại còn phản tác dụng nghiêm trọng, khi đã có thêm nhiều công chúng bày tỏ thái độ thiện cảm với vấn đề Phật giáo này.[37]

Nhiều báo cáo về sự việc về sau đã tham khảo từ đoạn băng để miêu tả lại tình tiết cuộc biểu tình.[5][16] Trong một bài bình luận về video của Ủy ban Nhân quyền Việt Nam, đoạn băng đã bị xem như là một sản phẩm mang tính định hướng của chính quyền, và đã được biên tập kỹ lưỡng để cho thấy những hình ảnh xấu về các nhà sư, mà theo ủy ban chúng vốn chỉ là một phần của sự thật.[3] Khác với khẳng định từ chính phủ Việt Nam, ủy ban đã đưa ra nhận định rằng cuộc biểu tình ở Huế năm 1993 là một biểu tình ôn hòa, cũng như các nhà sư hoàn toàn không có thái độ kích động hoặc cổ vũ bạo lực xuyên suốt sự kiện. Vì Huế là trung tâm Phật giáo Việt Nam và các nhà sư tại đây được người dân đặc biệt tôn trọng, đám đông chỉ cho thấy đang cố gắng bảo vệ các nhà sư khỏi bắt bớ của chính quyền. Bằng chứng là nhiều người xuất hiện trong đoạn băng đã cố gắng tránh nắng nóng cho những nhà sư tuyệt thực, quạt mát và tiếp nước cho họ. Ngay cả cảnh sát cũng ngần ngại trong việc sử dụng vũ lực chống lại các nhà sư. Xét trên số lượng người có mặt ngày hôm đó, nếu các nhà sư thực sự có thái độ kích động bạo lực thì có thể một cuộc bạo động mang tính toàn diện đã diễn ra tại Huế.[39]

Giáo hội Phật giáo Việt Nam

sửa

Trong một bài phỏng vấn của Thông tấn xã Việt Nam được đăng tải trên báo Quân đội nhân dân, Hòa thượng Thích Thanh Tứ cho rằng, bản thân GHPGVN "tôn trọng quá khứ lịch sử" GHPGVNTN và khẳng định tổ chức giáo hội này đã gia nhập và trở thành GHPGVN từ năm 1981 và việc một số tu sĩ Phật giáo sử dụng cái tên GHPGVNTN trong thời gian sau đó là "mạo xưng" và làm chia rẽ Phật giáo và tổn hại đến dân tộc Việt Nam.[65] Theo các nhà sư Phật giáo độc lập và người dân Huế, các tu sĩ tại chùa Thiên Mụ được cho là không nhận được nhiều sự ủng hộ của quần chúng trong giai đoạn diễn ra cuộc biểu tình.[55]

Phản ứng quốc tế

sửa

Cuộc biểu tình sau khi nổ ra đã thu hút sự chú ý từ quốc tế tới vấn đề Phật giáo tại Việt Nam và gây được phản ứng ủng hộ GHPGVNTN mạnh mẽ từ đại diện nghị viện ở các nước châu Âu, châu Á, Hoa Kỳ, châu Phi, Úc; các hội đoàn quốc tế trong đó có Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền (FIDH), Liên đoàn lao động và hiệp hội của các tổ chức công nghiệp Hoa Kỳ (AFL-CIO), Tổ chức Ân xá Quốc tế; bên cạnh nhiều tổ chức tôn giáo và chính trị trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Theo Hòa thượng Thích Huyền Quang, điều này có thể thấy rõ qua thái độ của chính phủ các nước Úc và châu Âu trong chuyến thăm của nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt trong năm 1995, kêu gọi trả tự do cho các nhà sư và công nhận sự tồn tại của GHPGVNTN.[87]

Tổ chức, chính phủ nước ngoài

sửa

Nhiều thành viên trong Thượng và Hạ viện Hoa Kỳ đã bày tỏ sự ủng hộ đến các nhà sư bất đồng chính kiến và đưa ra các cảnh báo về việc tố tụng hình sự các nhà sư trong cuộc biểu tình sẽ ảnh hưởng đến việc bình thường hóa quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Thượng nghị sĩ William Warren Bradley của Đảng Dân chủ cho biết bản thân đã gửi thư lên Ngoại trưởng Warren Christopher về vấn đề bắt giữ các tu sĩ. Đồng thời, ông cũng đưa ra tuyên bố, việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước còn phụ thuộc vào nhân quyền tại nước này.[53] Trước việc chính phủ Việt Nam đàn áp Phật giáo trong nước, nhiều cuộc biểu tình khác cũng đã diễn ra trên thế giới.[88] Nhiều nhóm ủng hộ dân chủ ở Hoa Kỳ cũng đã kêu gọi chính quyền Clinton hoãn việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam cho đến khi nước này tôn trọng nhân quyền.[55] Trong tài liệu về phiên điều trần của Hoa Kỳ trước Tiểu ban về các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương thuộc Ủy ban Đối ngoại của Thượng viện Hoa Kỳ, đã có một số ý kiến từ các Nghị sĩ kêu gọi Hoa Kỳ nên không bình thường hóa quan hệ với Việt Nam khi quốc gia này chưa đảm bảo về việc cải cách dân chủ và đảm bảo quyền tự do cho người dân Việt Nam.[89] Sau khi Thích Trí Lực bị bắt giữ khi đang đại diện GHPGVNTN cứu trợ lũ lụt, Tổ chức Ân xá Quốc tế đã xem ông như một tù nhân lương tâm, đồng thời Nghị viện châu Âu cũng thông qua nghị quyết kêu gọi Chính phủ Việt Nam trao trả tự do cho nhiều tu sĩ của giáo hội sau khi bị kết án.[88]

Theo một thành viên của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền tại Châu Á Dinah PoKempner, người này cho rằng, nhiều giáo sĩ đã thực hiện các vụ biểu tình, đòi quyền tự do khi có cảm giác thời điểm này là phù hợp trong bối cảnh chính phủ đang "tự do hóa nền kinh tế".[33] Trong báo cáo tháng 2 năm 1995 của Tổ chức Ân xá Quốc tế đã cho biết tổng cộng 23 nhà sư đã bị chính phủ Việt Nam bắt giữ từ cuối tháng 10 năm 1994 và khẳng định đây là "sự đàn áp liên tục đối với Phật tử Việt Nam". Từ cuối năm 1970, ít nhất 36 Phật tử đã bị Chính quyền Việt Nam bắt giữ, theo tổ chức này công bố.[90] Đến ngày 1 tháng 10 năm 2003, Tổ chức Ân xá Quốc tế đã kêu gọi chính phủ Việt Nam trả tự do cho các tù nhân lương tâm bao gồm Thích Huyền Quang bị quản thúc tại nhà ở độ tuổi 86.[91]

Ngày 8 tháng 11 năm 1995, nhà báo Võ Văn Ái, Chủ tịch Ủy ban Nhân quyền Việt Nam tại Paris kiêm phó Chủ tich Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền (FIDH) đã đệ trình bản báo cáo về Phật giáo tại Việt Nam lên Ủy ban Hạ viện Hoa Kỳ về Tiểu ban Quan hệ Quốc tế về Châu Á và Thái Bình Dương, dưới tiêu đề "Nhân quyền tại Việt Nam: Đàn áp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất". Với tư cách là phát ngôn viên hải ngoại của GHPGVNTN, ông đã trình bày về tình hình Phật giáo tại miền Nam Việt Nam và những vụ bắt giữ, biểu tình liên quan tới giáo hội, đặc biệt là kể từ vụ biểu tình Huế năm 1993, sau khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Ông cũng thay mặt Thích Huyền Quang đề ra các yêu cầu cho chính phủ Mỹ gây sức ép lên Việt Nam nhằm hợp thức hóa hoạt động GHPGVNTN, đồng thời thả các nhà sư và xóa bỏ các rào cản tiến đến cải cách dân chủ.[c][92] Ủy ban nhân quyền Việt Nam và FIDH cũng gửi một bản báo cáo khác tới phiên họp thứ 17 của Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc (1995), trình bày các vụ bắt giữ "tùy tiện" và "vi phạm quyền tự do ý kiến" của chính quyền Việt Nam nhắm tới các nhà sư GHPGVNTN, Đảng viên bất đồng chính kiến kể từ sau vụ biểu tình lớn và kêu gọi thả những tù nhân chính trị tại đây.[93]

Truyền thông quốc tế

sửa

Tác giả Philip Shenon bình luận trên The New York Times cho rằng, sự tự thiêu mở màn cho các phong trào biểu tình diễn ra như một sự "nhắc nhở" đối với Chính phủ Việt Nam khi công khai đi theo chủ nghĩa vô thần và bắt giữ những người bất đồng chính kiến. Huế đồng thời cũng trở thành nơi đám đông tập trung trái phép lớn nhất tại Việt Nam kể từ khi chiến tranh kết thúc.[40] Tiến sĩ Robert Topmiller bình luận trên BBC News vào năm 2007, việc Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, phần nào đó đã giúp cho GHPGVNTN giảm thiểu các hạn chế lên các tổ chức tôn giáo.[94] Trong khi đó tờ báo The Christian Science Monitor lại cho rằng, điều mà chính phủ Việt Nam quan ngại nhất đối với GHPGVNTN chính là về vấn đề thay đổi chính trị khi tổ chức này liên tục đòi các quyền về tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do hội họp...và đồng thời chấm dứt sự kiểm soát của Đảng Cộng sản Việt Nam.[33] Cũng dẫn lời trên trên The Christian Science Monitor, nhiều nhà quan sát chính trị Việt Nam và quốc tế đã cho rằng GHPGVNTN đang cố gắng lợi dụng sự bất mãn của dân chúng và những mối bận tâm trong nội bộ ĐCSVN.[90]

Trái ngược với sự tự do trong việc đưa tin Biến cố Phật giáo 1963, với vụ biểu tình này các nhà báo và phóng viên phương Tây đã bị cấm đi vào Huế để tác nghiệp. Trong một cuộc phỏng vấn với nhà báo Malcolm Browne, người từng đưa tin về vụ tự thiêu của Thích Quảng Đức, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Mai cho biết những người ngoại quốc đến Việt Nam để bày tỏ quan điểm về nhân quyền tại Việt Nam đều "không được chào đón".[95] Trước khi vụ biểu tình xảy ra, không có một nhà báo quốc tế nào xuất hiện tại Huế; các cơ quan tin tức và thông tấn lớn cũng không đặt trụ sở tại đây; và tất cả phim, ảnh chụp vào ngày xảy ra biểu tình đều bị công an địa phương tịch thu một cách có hệ thống.[3] Theo Tampa Bay Times, trong khoảng thời gian sau vụ biểu tình, cảnh sát địa phương cũng thường xuyên mặc thường phục theo dõi các nhà sư và du khách bên trong khuôn viên các chùa. Chính quyền địa phương cố gắng ngăn cản việc phóng viên phỏng vấn các nhà sư tại đây.[55]

Vào đầu tháng 11 năm 1994, Ủy ban Nhân quyền Việt Nam có trụ sở tại Pháp – một tổ chức vận động dân chủ liên minh với GHPGVNTN đã khẳng định việc chính quyền đã bắt giữ thêm 5 nhà sư và giáo dân. Tuy nhiên, chính quyền Việt Nam đã phủ nhận các cáo buộc. Trả lời với phóng viên quốc tế, nhiều nhà sư cho biết họ bị giám sát liên tục, không được viết thư cũng như các đường dây diện thoại quốc tế bị cắt sóng. Tại hai trong số các ngôi chùa đã diễn ra các cuộc biểu tình trước đó, nhiều nhà sư khẳng định đã không được phép nói chuyện với các nhà báo quốc tế mà chưa được sự báo trước, và ngay lập tức phải yêu cầu họ rời khỏi đó. Một thông dịch viên cho tờ báo The Christian Science Monitor đã bị cảnh sát yêu cầu không được dẫn phóng viên tờ báo này đến gặp các nhà sư thuộc GHPGVNTN.[33] Sang đầu năm 1995, chính phủ Việt Nam đã bắt đầu tiếp nhận danh sách câu hỏi từ phía The Christian Science Monitor, nhưng sau đó lại từ chối trả lời. Chuyển tiếp lời cảnh báo từ Bộ Nội vụ Việt Nam, một nhân viên trong trung tâm báo chí tại Hà Nội cũng khẳng định, sẽ bị bắt giữ khi "thực hiện các hoạt động báo chí ở Huế".[90]

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất

sửa

Cuối năm 1993, trong khuôn khổ Đại hội GHPGVNTN Âu Châu lần thứ I tại Đức, tổ chức này đã tố cáo chính quyền Việt Nam đàn áp tôn giáo và gọi đây là "nạn chung của toàn dân chứ không riêng một giới nào".[96] Trong năm 1994, Tăng thống đương thời của GHPGVNTN Thích Huyền Quang đã ra thông báo cho rằng Phật giáo đang trong "pháp nạn 2" và cho biết mong muốn của giáo hội là "chỉ vì lập trường của Giáo hội không chấp nhận làm công cụ cho bất cứ một thế lực chính trị nào" và "chỉ yêu cầu để Phật giáo được sinh hoạt độc lập trong khuôn khổ tôn giáo và pháp luật".[97] Trước đó, ông cũng đã yêu cầu Đảng và Nhà nước giao lại các tài sản đã bị tịch thu và thả tự do cho nhiều tu sĩ bị quản thúc. Tuy nhiên, sau đó, chính quyền địa phương vẫn tiếp tục hành động quản thúc và bắt giữ toàn bộ ban lãnh đạo của GHPGVNTN.[94] Trước bối cảnh bị đàn áp, giáo hội cũng đã cộng tác với những sự ủng hộ từ quốc tế để tái lập giáo hội.[33] Trong một buổi phỏng vấn mật với Tampa Bay Times, một nhà sư đã chia sẻ các quyền tôn giáo đã liên tục bị chính quyền vi phạm, đồng thời, mong muốn thay thế Giáo hội Phật giáo Việt Nam do Chính phủ sáng lập bằng một giáo hội độc lập.[55]

Ngày 20 tháng 11 năm 1995, Thích Huyền Quang tiếp tục công bố một thư tuyên ngôn chín điểm từ Quảng Ngãi tới chính quyền. Trong đó, ông đã chỉ trích chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau Đổi Mới, chỉ cải cách về kinh tế thay vì chính trị. Tuyên ngôn của Hòa thượng truy về lịch sử Phật giáo trong nước và sự ra đời mang tính chính danh của GHPGVNTN, để từ đó lên án các hành động phớt lờ giáo hội của chính quyền cũng như tăng cường đàn áp đối với tổ chức thông qua các nhiều hình thức khác nhau, từ truyền thông tới bắt giữ các tăng ni giáo hội. Bản tuyên ngôn đã kêu gọi chính quyền cải thiện tình hình thông qua các hành động hòa giải mang tính thực tiễn ở phương diện tôn giáo và sai lầm trong quá khứ, đồng thời chấp nhận sự tồn tại của giáo hội theo các điều tự do cơ bản trong khuôn khổ pháp luật; xem xét lại việc kết án các nhà sư thuộc giáo hội tham gia cứu trợ lũ lụt năm 1994. Toàn văn bản tuyên ngôn của Thích Huyền Quang sau đó đã được sao in rộng rãi tới các tổ chức trong và ngoài nước, chính khách Việt Nam và các nhà sư trong GHPGVNTN.[98]

Tác động

sửa

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất

sửa

Sau khi được chính quyền Việt Nam trả tự do vào năm 1998, Thích Quảng Độ cùng Thích Huyền Trang, Thích Đức Nhuận đã gặp gỡ Võ Văn Ái, Thích Hộ Giác, Thích Viên Lý... để kêu gọi phục hồi trở lại giáo hội. Tuy nhiên, vào lúc chuẩn bị thực hiện "Đại hội Phật giáo Việt Nam thống nhất nhiệm kỳ 9" ngay tại Tu viện Nguyên Thiều, tỉnh Bình Định để đưa Thích Quảng Độ lên giữ chức Viện trưởng Viện Hóa đạo.[65][99] Năm 1999, Thích Quảng Độ giữ chức Viện trưởng Viện Hóa đạo đã giao phó ông Võ Văn Ái trở thành Giám đốc Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế và trở thành Phát ngôn nhân cho GHPGVNTN trong nước sau đó.[100] Ngoài ra, Thích Huyền Quang cũng được bổ nhiệm chức Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống; Thích Đức Nhuận, cố vấn chỉ đạo Viện Hóa đạo; Thích Tuệ Sỹ, Phó Viện trưởng kiêm Tổng Thư ký Viện Hóa đạo. Vào tháng 7 năm 2003, Thích Huyền Quang đã triệu tập một phiên họp của Giáo hội diễn ra tại chùa Nguyên Thiều, tỉnh Bình Định. Tuy nhiên, sau đó phiên họp đã bị cản trở do có sự ngăn cản của lực lượng vũ trang địa phương. Đến tháng 9 cùng năm, Giáo hội đã triệu tập lần nữa với sự tham gia của 80 chư tăng sau khi Thích Quảng Độ kháng thư đến Thủ tướng Phan Văn Khải. Phiên họp đã suy tôn Thích Huyền Quang trở thành Tăng thống thứ tư cho GHPGVNTN. Những ngày sau đó, các lãnh đạo cấp cao của GHPGVNTN cũng đã bị bắt giữ hàng loạt. Một tháng sau đó, tại Tu viện Quảng Đức ở Úc, lễ suy tôn Tăng thống thứ tư của Giáo hội cũng như có phiên họp bất thường về đường lối hoạt động của Giáo hội trong và ngoài nước.[96] Kể từ năm 2005, cơ quan này đã quyết định thành lập Đài Phát thanh Phật giáo Việt Nam truyền phát thanh vào 19 giờ tới 19 giờ 30 phút vào thứ sáu mỗi ngày về lại Việt Nam.[100]

Chính sách, pháp luật

sửa

Vào tháng 4 năm 1999, Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải đã công bố một Nghị định 26/1999/NĐ–CP về tôn giáo. Nghị định đã khẳng định việc cấm phân biệt đối xử đối với tôn giáo; cũng như việc bình đẳng trước pháp luật giữa người theo tôn giáo và không theo tôn giáo. Tuy nhiên, ở Điều 5 của Nghị định cũng khẳng định việc sử dụng tôn giáo để chống Nhà nước hay "mê tín dị đoan" đều sẽ bị xử lý theo pháp luật.[101] Sau khi Nghị định được thông qua, GHPGVNTN do đã bị cấm từ trước nên các chiến dịch đàn áp đối với giáo hội này cũng ngày càng gia tăng chặt chẽ hơn kể từ đó.[102] Cũng trong năm 1999, Ban Tôn giáo Chính phủ ban hành thông tư 01/1999/TT/TGCP được gọi là "hướng dẫn" thực hiện một số Điều từ Nghị định 26/1999/NĐ–CP. Trong thông tư cũng đã nhấn mạnh, việc phong chức đối với Hòa thượng, Ni trưởng phải được sự chấp thuận từ Thủ tướng Chính phủ; đối với Đại đức, Thượng, Ni sư phải do Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt. Đồng thời, việc bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sức cũng phải có sự chấp thuận từ chính quyền địa phương.[103]

Kiểm soát Phật giáo trong nước sau năm 1993

sửa

Những vụ bắt giữ và cải tạo các nhà sư vẫn tiếp tục diễn ra tại miền Nam Việt Nam sau cuộc biểu tình. Theo một thống kê của Ủy ban Helsinki về nhân quyền Việt Nam năm 1995, có đến 67 nhà lãnh đạo Phật giáo và hàng loạt các nhà sư khác đã bị chính quyền bắt vào trại cải tạo hoặc quản thúc trong nhà.[104] Các vụ bắt giữ có quy mô, tổ chức các nhà sư thuộc GHPGVNTN trên diện rộng gieo nên mầm mống sợ hãi lên các nhà sư tại miền Nam và khiến nhiều cái tên từng hoạt động chính trị tích cực buộc phải im lặng để không bị bắt bớ.[105] Trong đó bao gồm quá trình bắt giữ nhiều lần Thích Trí Lực của chính quyền Việt Nam khi ông chạy trốn sang Campuchia để hưởng quy chế tị nạn của Liên Hợp Quốc, nhưng sau đó, đã bị công an Việt Nam sang bắt giữ trở về nước với tội danh "trốn đi nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân".[67] Năm 2003, hàng loạt các chức sắc tôn giáo của GHPGVNTN đã bị bắt giữ khi đang trên đường trở về Thành phố Hồ Chí Minh; tất cả các ngôi chùa đều bị đặt dưới sự giám sát bởi chính quyền.[96][106] Trong báo cáo về tự do tôn giáo tại Việt Nam của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vào năm 2022, dẫn lời một số nhà quan sát, nhiều tín đồ tôn giáo tại Việt Nam đã quyết định không công khai tôn giáo của mình do quan ngại về hậu quả bất lợi trong tương lai.[107]

Để hoạt động các phong trào từ thiện, năm 2000, GHPGVNTN tiếp tụ phát động kêu gọi quyên góp lũ lụt tại miền Trung và "hóa thân" thành các tổ chức không danh.[96] Vào năm 2007, Thích Quảng Độ, lúc này đang là Viện trưởng Viện Hóa Đạo thuộc GHPGVNTN được cho là đã cử Thích Không Tánh phân phát 300 triệu đồng cho nhiều người khiếu kiện để yêu cầu tập trung tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 22 tháng 8 để tổ chức biểu tình bao gồm việc tập trung đông người, bất bạo động, diễu hành... Tuy nhiên, sau đó việc biểu tình đã bị dời sang 23 tháng 8. Kế hoạch biểu tình sau đó đã bị chính quyền Việt Nam cô lập và ngăn chặn.[108][109] Khi bị bắt giữ, Thích Không Tánh cho rằng bản thân đang phát tiền cho người nghèo.[109] Các cuộc biểu tình này được lên kế hoạch để tổ chức trong bối cảnh trước dịp Quốc khánh tại Việt Nam.[99]

Kon Tum vào năm 2019, một ngôi chùa do tu sĩ Thích Đồng Quang xây dựng cũng đã bị phá hủy chỉ còn lại một căn nhà tạm sau khi xây dựng từ năm 2009. Ngay sau đó, chùa Thiên Quang – một ngôi chùa của GHPGVNTN đã quyết định mua lại mảnh đất và giao cho Thích Nhật Phước quản lý, nhưng đến ngày 27 tháng 10 năm 2022, UBND địa phương ra quyết định cưỡng chế ngôi chùa, và cho phép ông di dời trong vòng 45 ngày. Quyết định này đã cáo buộc ngôi chùa được "xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp", mặc dù trước đó trụ trì của ngôi chùa đã có đơn xin phép xây dựng nhưng đã bị chính quyền địa phương từ chối.[110][111] Trong năm 2020, chính quyền tỉnh Nghệ An cũng đã buộc tháo dỡ một cơ sở Phật giáo tại xã Thanh Yên, huyện Thanh Chương do "xây dựng không phép" và lấn chiếm đất trên di tích quốc gia.[112][113] Bốn cán bộ địa phương sau đó cũng đã bị khiển trách vì đã để cơ sở Phật giáo này xây dựng không phép.[113] Tại Bà Rịa – Vũng Tàu vào ngày 17 tháng 3 năm 2023, chính quyền địa phương đã yêu cầu tháo dỡ chùa Thiên Quang nằm ở xã Hòa Bình, huyện Xuyên Mộc sau khi cơ sở tín ngưỡng này được cho là đi theo GHPGVNTN.[114] Tuy nhiên, đến ngày 6 tháng 4, UBND huyện Xuyên Mộc đã tống đạt quyết định cưỡng chế chùa Thiên Quang và xem đây là các công trình xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp. Phía GHPGVN cũng lên tiếng khẳng định không trực thuộc quản lý chùa Thiên Quang.[115] Trước lệnh cưỡng chế này, ngay sau đó, nhiều nhà ngoại giao Hoa Kỳ và Đức đã có mặt tài chùa như để phản đối lệnh cưỡng chế của chính quyền địa phương.[114]

Xem thêm

sửa

Chú thích

sửa

Danh sách các cụm từ viết tắt

sửa

Ghi chú

sửa
  1. ^ Cái chết của Thích Thiện Minh sau này, theo Hòa thượng Thích Quảng Độ trả lời phỏng vấn trên Đài Á Châu Tự Do là do đã bị "đánh chết trong tù".[19]
  2. ^ Nguyên mẫu tiếng Anh: "I can tell you, these monks who are trying to destroy the solidarity of Buddhism in Vietnam, they are not supported by the majority of the Vietnamese people. The actions of the monks in Hue was illegal. It was against the doctrine of Buddhism, which is nonviolence".[58]
  3. ^ Tiêu đề gốc tiếng Anh là "Human Rights in Vietnam: Repression against the Unified Buddhist Church of Vietnam".

Tham khảo

sửa
  1. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 124.
  2. ^ a b c d e FIDH 2023, tr. 23.
  3. ^ a b c d e f g h i j k l m United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 171.
  4. ^ a b c d e United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 170.
  5. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag ah ai aj ak al am an ao ap aq ar as at au “Vietnam: The Suppression of the Unified Buddhist Church” [Việt Nam: Cuộc đàn áp Giáo hội Phật giáo Thống nhất]. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (bằng tiếng Anh). tháng 3 năm 1995. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2024.
  6. ^ a b Kerkvliet 2018, tr. 62.
  7. ^ a b Nguyễn Túc (3 tháng 3 năm 2023). “Đại lão hòa thượng Thích Đôn Hậu - Người thể hiện nhuần nhuyễn "Đạo pháp và dân tộc". Báo Đại biểu Nhân dân. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  8. ^ “Vietnam human rights in a season of transition: Law and Dissent in the Socialist Republic of Vietnam”. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (bằng tiếng Anh). tháng 8 năm 1995. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  9. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 202-203.
  10. ^ a b c d e f g Ỷ Lan (27 tháng 4 năm 2015). “Cuộc đàn áp quy mô Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sau 30/4”. Đài Á Châu Tự Do. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  11. ^ a b c d e f g h i j k Trần Phương (22 tháng 3 năm 2020). “Phật giáo miền Nam sau 30/4/1975: Cuộc đại nạn thật sự của Phật giáo”. Luật Khoa tạp chí. Đệ tử VOICE. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2024.
  12. ^ a b United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 83.
  13. ^ Abuza 2001, tr. 1992.
  14. ^ Kerkvliet 2018, tr. 61.
  15. ^ a b c United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 203.
  16. ^ a b c d e f g h i j k l “Socialist Republic of Viet Nam: Buddhist monks in detention” [Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Nhiều tu sĩ Phật giáo bị giam giữ]. Tổ chức Ân xá Quốc tế (bằng tiếng Anh). 30 tháng 4 năm 1994. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  17. ^ a b c Trần Phương (8 tháng 3 năm 2020). “Phật giáo miền Nam sau 30/4/1975: Khi các nhà sư vỡ mộng”. Luật Khoa tạp chí. Đệ tử VOICE. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2024.
  18. ^ a b Quoc-Hung Tran. Lời khai của Quoc-Hung Tran (PDF) (bằng tiếng Anh). Ủy Ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ.
  19. ^ a b Ỷ Lan (29 tháng 4 năm 2015). “Phỏng vấn Đại Lão HT Thích Quảng Độ về GHPGVNTN 40 năm qua”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  20. ^ a b Hoàng Hạ (15 tháng 5 năm 2021). “Tiến trình vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam”. Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  21. ^ a b c Đỗ Trung Hiếu (1995). “Tiến Trình Thống Nhất Phật Giáo - Đỗ-trung-hiếu”. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2024 – qua Thư viện Hoa Sen.
  22. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 133.
  23. ^ a b Vương Trần (5 tháng 11 năm 2021). “Sự ra đời của Ban Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam”. Lao Động. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2024.
  24. ^ Thích Minh Ân (16 tháng 11 năm 2023). “Nhìn lại chặng đường 42 năm hình thành và phát triển Giáo hội Phật giáo Việt Nam”. Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  25. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 132.
  26. ^ “Sự Biến Lương Sơn”. quangduc.com. 14 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2024.
  27. ^ Bùi Văn Phú. 'Thầy Quảng Độ là bậc tu hành bất khuất vì đạo pháp'. BBC News Tiếng Việt. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  28. ^ a b c “Căng thẳng giữa Phật giáo và chính quyền trong dịp lễ tang đại lão hoà thượng Thích Đôn Hậu”. AFP (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2024 – qua Diễn Đàn.
  29. ^ a b c d e Trần Phương (26 tháng 5 năm 2021). “Phật giáo miền Nam 1992 – 1994: Cuộc phản kháng cuối cùng”. Luật Khoa tạp chí. Đệ tứ VOICE. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2024.
  30. ^ a b Abuza 2001, tr. 193.
  31. ^ “Human Rights Watch World Report 1990 - Vietnam” [Báo báo Tổ chức Theo dõi Nhân Quyền Thế giới 1990 - Việt Nam]. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (bằng tiếng Anh). 1 tháng 1 năm 1991. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024 – qua Refworld.
  32. ^ Kerkvliet 1994, tr. 62.
  33. ^ a b c d e f g h Cameron W. Barr (21 tháng 11 năm 1994). “In Vietnam, Monks Lead Protest to Repression” [Ở Việt Nam, các nhà sư chủ chốt phản đối đàn áp]. The Christian Science Monitor (bằng tiếng Anh). ISSN 0882-7729. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  34. ^ a b United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 143.
  35. ^ Thích Đôn Hậu (15 tháng 11 năm 1991). “Chúc thư của Hòa thượng Chánh Thư ký xử lý Viện Tăng Thống”. Viện Tăng Thống, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024 – qua Thư viện Hoa Sen.
  36. ^ a b Bruun & Jacobsen 2003, tr. 101.
  37. ^ a b c Bruun & Jacobsen 2003, tr. 102.
  38. ^ Team 1994, tr. 585.
  39. ^ a b United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 173.
  40. ^ a b c d e f g Shenon, Philip (20 tháng 10 năm 1993). “Hue Journal; Once Again, a Fiery Suicide Sets Vietnam Aflame”. The New York Times (bằng tiếng Anh). ISSN 0362-4331. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  41. ^ a b “The Gazette from Montreal, Quebec, Canada • 10”. Los Angeles Times. 29 tháng 4 năm 1995. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024 – qua Newspapers.com.
  42. ^ “Chương trình đặc biệt Kỷ niệm 25 năm cuộc Biểu tình 40 nghìn Phật tử Huế ngày 24-5-1993”. Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. 18 tháng 5 năm 2018. Phút thứ 15:30 trong đoạn ghi âm. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024.
  43. ^ Abuza 2001, tr. 194.
  44. ^ a b United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 176.
  45. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 176-177, 180.
  46. ^ a b c United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 179.
  47. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 84, 179.
  48. ^ a b c United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 172.
  49. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 180-181.
  50. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 180.
  51. ^ a b United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 181.
  52. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 182.
  53. ^ a b c d Shenon, Philip (17 tháng 11 năm 1993). “4 Buddhist Monks in Vietnam Get Prison Terms”. The New York Times (bằng tiếng Anh). ISSN 0362-4331. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  54. ^ a b c United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 174.
  55. ^ a b c d e f Reese Erlich (23 tháng 7 năm 1993). “Buddhist monks in Vietnam pressing demands for rights” [Tu sĩ Phật giáo ở Việt Nam bức xúc đòi nhân quyền]. Tampa Bay Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024 – qua Newspapers.com.
  56. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 173, 181.
  57. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 172, 183.
  58. ^ a b Philip Shenon (25 tháng 11 năm 1993). “Man's suicide at Buddhist temple incites debate” [Một người đàn ông tự tử tại một ngôi chùa Phật giáo gây tranh cãi]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2024 – qua Newspapers.com.
  59. ^ a b Bruun & Jacobsen 2003, tr. 170.
  60. ^ Bruun & Jacobsen 2003, tr. 177.
  61. ^ a b c Nghị viện châu Âu 2008, tr. 3–4.
  62. ^ Abuza 1996, tr. 196.
  63. ^ a b c d PV - ANTG (18 tháng 4 năm 2009). “Những việc làm sai trái của ông Thích Quảng Độ: Khẩu phật, tâm xà”. Báo Công an Nhân dân. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  64. ^ “Lincoln Journal Star from Lincoln, Nebraska • 8”. Associated Press. 18 tháng 7 năm 1994. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024 – qua Newspapers.com.
  65. ^ a b c d TTXVN (26 tháng 8 năm 2007). “Lật mặt những kẻ phản động kích động người khiếu kiện gây rối”. Báo Quân đội nhân dân. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  66. ^ a b c d e f g United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 128.
  67. ^ a b c Ỷ Lan (28 tháng 9 năm 2005). “Lời chứng của cựu tăng sĩ Thích Trí Lực trước Quốc hội Châu Âu”. Đài Á Châu Tự Do. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024.
  68. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 135.
  69. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 126, 135.
  70. ^ a b Abuza 2001, tr. 196.
  71. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 202.
  72. ^ Thích Quảng Độ (1 tháng 1 năm 1996). “Thư viết cho ông Đỗ Mười, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam” (PDF). Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Thành phố Hồ Chí Minh. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024 – qua Thư viện Hoa Sen.
  73. ^ “Chính giới Hoa Kỳ, Hòa thượng Thích Quảng Độ và chặng đường 25 năm”. Đài Tiếng nói Hoa Kỳ. 27 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  74. ^ Dương Minh Anh (28 tháng 8 năm 2007). “Ông Thích Quảng độ đã lấy oán báo ơn như thế nào?”. Báo Sài Gòn Giải Phóng. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  75. ^ a b c d United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 129.
  76. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 163-168.
  77. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 159, 161, 162.
  78. ^ “Nội dung bài điều trần về tình hình đàn áp Phật giáo tại Việt Nam của Ông Võ văn Ái”. Truyền giáo Việt Nam tại Á Châu. 2001. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2024.
  79. ^ Phan Văn Khải (23 tháng 7 năm 1993). “Chỉ thị số 379/TTg của Thủ tướng Chính phủ: Chỉ thị về các hoạt động tôn giáo”. Thủ tướng Chính phủ. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024 – qua Báo Chính phủ.
  80. ^ Võ Văn Kiệt (4 tháng 6 năm 1993). “Nghị định số 37/CP của Chính phủ: Nghị định về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Ban Tôn giáo của Chính phủ”. Chính phủ Việt Nam. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024 – qua Báo Chính phủ.
  81. ^ a b United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 131.
  82. ^ a b “Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam”. Chùa Điều Ngự. 1994. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2024.
  83. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 134.
  84. ^ P.V (27 tháng 8 năm 2007). “Thích Quảng Độ và các tham vọng chính trị đội lốt tôn giáo”. Báo Nhân Dân. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  85. ^ Hoàng Ngọc Vĩnh (tháng 8 năm 1999). “Mấy suy nghĩ về ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống văn hóa xã hội Huế”. Tạp chí Sông Huơng (126).
  86. ^ “Tài liệu tham khảo nghiên cứu, học tập môn giáo dục quốc phòng an ninh (Quốc phòng 2)”. Học viện Nông nghiệp Việt Nam. 31 tháng 3 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2020.
  87. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 144.
  88. ^ a b “Vietnam: Refugee Monk's Arrest a Mockery of Justice” [Việt Nam: Việc bắt giữ một tu sĩ tị nạn là một sự nhạo báng công lý]. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (bằng tiếng Anh). 17 tháng 9 năm 2003. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024.
  89. ^ U.S. Policy Toward Vietnam 1993, tr. 75–76.
  90. ^ a b c Cameron W. Barr. “Vietnam's Monks Lead In Battle for Freedom” [Các tu sĩ Việt Nam dẫn đầu trong cuộc chiến vì tự do]. The Christian Science Monitor. ISSN 0882-7729. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024.
  91. ^ “Hội Ân Xá Quốc tế kêu gọi Việt Nam trả tự do ngay tức thời và vô điều kiện cho những người bất đồng chính kiến già cả đang bị giam giữ”. Đài Tiếng nói Hoa Kỳ. 15 tháng 1 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  92. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 126-130.
  93. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 135-137.
  94. ^ a b Robert Topmiller (11 tháng 7 năm 2008). “HT Thích Huyền Quang và Giáo hội PGVNTN”. BBC News Tiếng Việt. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  95. ^ Boomhower 2024, tr. 264.
  96. ^ a b c d Pan V. An. “Chặng đường dài đấu tranh của GHPGVNTN (từ năm 1975 đến nay)”. Chùa Vạn Hạnh, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Âu Châu. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2024.
  97. ^ Võ Văn Ái (19 tháng 4 năm 2015). “Ba mươi Tháng Tư và Phật giáo VN”. BBC News Tiếng Việt. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2024.
  98. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 142-148.
  99. ^ a b PV Nội chính (26 tháng 8 năm 2007). “Bài 1: Thích Quảng Độ - kẻ đi ngược lợi ích dân tộc”. Báo An ninh Thủ đô. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  100. ^ a b “Sơ lược về Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất”. Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế. 5 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2024.
  101. ^ Phan Văn Khải (9 tháng 4 năm 1999). “Nghị định số 26/1999/NĐ-CP của Chính phủ: Về các hoạt động tôn giáo”. Chính phủ Việt Nam. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024 – qua Báo Chính phủ.
  102. ^ “Human Rights Watch World Report 2000 - Vietnam” [Báo cáo của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Thế giới 2000 - Việt Nam]. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (bằng tiếng Anh). 1 tháng 12 năm 1999. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2024 – qua Refworld.
  103. ^ Lê Quang Vịnh (6 tháng 6 năm 1999). “Thông tư số 01/1999/TT/TGCP của Ban Tôn giáo Chính phủ: Thông tư hướng dẫn thực hiện một số điều trong Nghị định của Chính phủ số 26/1999/NĐ-CP ngày 19 tháng 4 năm 1999 về các hoạt động tôn giáo”. Ban Tôn giáo Chính phủ. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024 – qua Báo Chính phủ.
  104. ^ United States Congress House Committee on International Relations Subcommittee on Asia and the Pacific 1996, tr. 193-199.
  105. ^ Boomhower 2024, tr. 265.
  106. ^ “Vietnam - Religion”. Windows on Asia (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2024.
  107. ^ “2022 Report on International Religious Freedom: Vietnam” [Báo cáo về Tự do Tôn giáo Quốc tế 2022: Việt Nam]. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (bằng tiếng Anh). 2022. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  108. ^ TTXVN (25 tháng 8 năm 2007). “Chặn đứng một âm mưu gây rối an ninh trật tự”. Báo Sài Gòn Giải Phóng. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  109. ^ a b Anh Thư (27 tháng 8 năm 2007). “Bài 2: Thích Không Tánh – Tay sai đắc lực của Thích Quảng Độ”. Thông tấn xã Việt Nam. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024 – qua Hànộimới.
  110. ^ “Kon Tum: Cưỡng chế Sơn Linh Tự nhằm "triệt tiêu chùa không theo Giáo hội Phật giáo Việt Nam". Đài Á Châu Tự Do. 13 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  111. ^ Kon Tum tháo dỡ chùa Sơn Linh của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Đài Tiếng nói Hoa Kỳ, 16 tháng 12 năm 2022, truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024
  112. ^ Quang Đại (26 tháng 5 năm 2020). “Nghệ An: Buộc tháo dỡ chùa Linh Sâm xây "chui" trên di tích quốc gia”. Báo Lao động. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  113. ^ a b Doãn Hòa (3 tháng 2 năm 2020). “Vụ 'chùa triệu đô xây chui': Cảnh cáo, khiển trách 4 cán bộ xã”. Báo Tuổi Trẻ. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  114. ^ a b Huy Nguyễn; VOA tiếng Việt (13 tháng 4 năm 2023). “Giới ngoại giao Mỹ, Đức thăm chùa Thiên Quang giữa lúc chùa có lệnh cưỡng chế”. Đài Tiếng nói Hoa Kỳ. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.
  115. ^ Hoàng Anh (6 tháng 4 năm 2023). “Thông tin về việc quyết định cưỡng chế các công trình xây dựng trái phép ở "Cốc Thiên Quang". Báo Công an Nhân dân. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2024.

Nguồn

sửa

Liên kết ngoài

sửa