Đế quốc Bồ Đào Nha
Đế quốc Bồ Đào Nha (tiếng Bồ Đào Nha: Império Português) là đế quốc ra đời sớm nhất và kéo dài nhất trong lịch sử những đế quốc thực dân Châu Âu, kéo dài gần 6 thế kỷ, bắt đầu từ vụ chiếm Ceuta năm 1415 đến cuộc giao trả Ma Cao cho Trung Quốc năm 1999. Đế quốc Bồ Đào Nha ở thời kì đỉnh cao chiếm một vùng có diện tích 5,5 triệu km² nhưng lãnh thổ và tầm ảnh hưởng thực tế của Đế quốc rộng đến 10,4 triệu km² là một trong số ít quốc gia được mệnh danh là "Đế quốc mặt trời không bao giờ lặn"
Đế quốc Bồ Đào Nha
|
|
---|---|
Tên bản ngữ
| |
1415–1999 | |
Các khu vực trên thế giới từng là một phần của Đế quốc Bồ Đào Nha | |
Lãnh thổ đỉnh điểm của Đế quốc Bồ Đào Nha năm 1820 | |
Tổng quan | |
Thủ đô | Lisboaa (1415-1809/1801-1999) Rio de Janeiro (1808-1821) |
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Bồ Đào Nha |
Tôn giáo chính | Giáo hội Công giáo |
Chính trị | |
Chính phủ | Đế quốc thực dân |
Hoàng Đế | |
• 1415–1433 | João I (đầu tiên) |
• 1908–1910 | Manuel II (cuối cùng) |
Tổng thống | |
• 1911–1915 | Manuel de Arriaga (đầu tiên) |
• 1996–1999 | Jorge Sampaio (cuối cùng) |
Lịch sử | |
1415 | |
• Thành lập | 1415 |
1580–1640 | |
1585–1604 | |
1588–1654 | |
1640–1668 | |
1822 | |
1961 | |
1961–1974 | |
• Giải thể | 1999 |
Địa lý | |
Diện tích | |
• 1820 | 5.500.000 km2 (2.123.562 mi2) |
• 1900 | 2.400.000 km2 (926.645 mi2) |
• 1960 | 2.262.391 km2 (873.514 mi2) |
• 1990 | 113.412 km2 (43.789 mi2) |
Dân số | |
• 1700 | 2.300.000 |
• 1820 | 9.500.000 |
• 1900 | 12.434.000 |
• 1960 | 23.000.000 |
• 1990 | 10.300.000 |
Hiện nay là một phần của | Bồ Đào Nha Brazil |
|
Những nhà thám hiểm Bồ Đào Nha bắt đầu thám hiểm eo biển Châu Phi năm 1419, đặt nền tảng cho sự phát triển của ngành hàng hải, nghiên cứu bản đồ và công nghệ hàng hải (như thuyền buồm), mục đích là để họ có thể tìm được một lộ trình đường biển tới những nguồn giao thương các sản phẩm gia vị. Năm 1488, Bartolomeu Dias đi vòng quanh mũi Hảo Vọng, và tới năm 1498, Vasco da Gama đặt chân tới Ấn Độ. Năm 1500, do một cuộc cập bến tình cờ vào bờ biển Nam Mỹ, vì mục đích bí mật của quốc vương, Pedro Álvares Cabral đã phát hiện và thành lập thuộc địa Brasil. Qua vài thế kỷ sau đó, những thủy thủ Bồ Đào Nha tiếp tục thám hiểm các đảo và eo biển tại Đông Á, họ đã lập nên những công sự và trạm giao thương khi đi qua những nơi đó. Vào năm 1571, một chuỗi các tiền đồn đã kết nối Lisboa với Nagasaki: đế quốc này đã thực sự có tầm ảnh hưởng toàn cầu, quá trình đó đã đem về một sự thịnh vượng cho đất nước Bồ Đào Nha.
Giữa giai đoạn 1580 và 1640, Bồ Đào Nha trở thành đối tác bậc dưới với Tây Ban Nha trong Liên minh Iberia của quốc vương hai nước. Mặc dù hai đế quốc tiếp tục được điều hành riêng biệt, những thuộc địa của Bồ Đào Nha trở thành mục tiêu tấn công của ba đế quốc châu Âu hùng mạnh đồng thời là đối thủ sừng sỏ của Tây Ban Nha là: Hà Lan (tham gia chiến tranh giành độc Lập chống Tây Ban Nha), Anh và Pháp. Vì có dân số nhỏ hơn, Bồ Đào Nha đã không thể bảo vệ hệ thống kết nối những trạm giao thương và các đại lý ở nước ngoài, vì vậy đế quốc này bắt đầu dần suy tàn. Việc đánh mất Brasil năm 1822-thuộc địa lớn và thu lợi nhiều nhất của Bồ Đào Nha-vào thời điểm các phong trào Độc lập đang lan tỏa khắp châu Mỹ, là một đòn giáng mạnh vào Bồ Đào Nha và đế quốc của nó mà sau đó đã không bao giờ có thể phục hồi được nữa.
Cuộc tranh giành châu Phi bắt đầu cuối thế kỉ 19 đã để lại cho Bồ Đào Nha một ít thuộc địa tại lục địa này. Sau đệ nhị thế chiến, độc tài quân sự cánh tả Bồ Đào Nha là António Salazar đã cố gắng duy trì đế quốc Bồ Đào Nha khi mà các quốc gia châu Âu khác đang bắt đầu rút khỏi những thuộc địa của họ. Năm 1961, một lực lượng nhỏ quân Bồ Đào Nha đóng tại Goa đã không thể chặn quân Ấn Độ tiến vào thuộc địa, nhưng Salazar quyết định tiến hành một cuộc chiến dài và đẫm máu nhằm dập tắt các lực lượng chống chủ nghĩa thực dân tại các thuộc địa Phi Châu. Cuộc chiến này kéo dài cho đến tận cuộc lật đổ chế độ cai trị Bồ Đào Nha năm 1974, được biết đến với cái tên Cách mạng hoa Cẩm Chướng. Sau cuộc lật đổ, chính quyền mới lập tức thay đổi chính sách và công nhận nền độc lập cho tất cả các thuộc địa, bao gồm Đông Timor, rồi trao trả Ma Cao về Trung Quốc năm 1999, đánh dấu sự kết thúc của Đế quốc Bồ Đào Nha.
Cộng đồng các quốc gia nói tiếng Bồ Đào Nha (CPLP) chính là sự kế thừa về văn hóa của Đế quốc Bồ Đào Nha.
Nguồn gốc (1139–1415)
sửaNgọn nguồn của Vương quốc Bồ Đào Nha xuất phát từ reconquista, cuộc tái chiếm từ từ bán đảo Iberia từ Al-Andalus.[1] Sau khi nó được thiết lập như một vương quốc tách biệt vào năm 1139, Bồ Đào Nha đã hoàn thành việc tái chiếm lãnh thổ từ người Moor vào năm 1249, chiếm lại được Algarve. Tuy nhiên, nền độc lập của vương quốc tiếp tục bị đe dọa bởi người láng giềng Castilla cho đến tận Hòa ước Ayllón năm 1411.[2]
Giải thoát khỏi các mối đe dọa sự tồn tại của mình và không bị thách thức bởi các cuộc chiến tranh của các nước Châu Âu khác, Bồ Đào Nha hướng sự chú ý về phía biển và việc khai phá quân sự những vùng đất Hồi giáo Bắc Phi.[3] Đã có rất nhiều lý do có thể có để họ thực hiện cuộc tấn công đầu tiên của họ lên vương triều Marinid (Maroc ngày nay). Nó cho họ cơ hội tiếp tục các cuộc thập tự chinh chống lại đạo Hồi; đối với giới quân đội, nó hứa hẹn sự vinh quang trong chiến đấu và chiến lợi phẩm;[4] và đây cũng là một cơ hội để Bồ Đào Nha mở rộng giao thương và giải quyết suy thoái kinh tế.[3]
Năm 1415, một cuộc tấn công được tiến hành lên Ceuta, một lãnh thổ Hồi giáo Bắc Phi chiến lược dọc biển Địa Trung Hải, là một trong các trạm cuối của đường giao thương vàng và nô lệ xuyên Sahara. Cuộc xâm chiếm là một thành công quân sự, và đánh dấu bước đầu sự bành trướng của Bồ Đào Nha ra khỏi bán đảo Iberia,[5] nhưng nó cũng cho thấy tốn kém trong việc bảo vệ khỏi các lực lượng người Hồi giáo đã sớm bao vây nó. Người Bồ Đào Nha đã không thể nào sử dụng được Ceuta như một bàn đạp để tiến sâu vào nội địa,[6] và các đoàn bộ hành xuyên Sahara chỉ đơn thuần chuyển hướng đi của họ khỏi Ceuta hoặc dùng các trạm mậu dịch Hồi giáo khác.[7]
Thời kỳ đầu tiên (1415–1663)
sửaMặc dù Ceuta được xem như là một sự thất vọng của người Bồ Đào Nha, họ lại quyết định tiếp tục giữ nó khi đi khám phá bờ biển Châu Phi phía Đại Tây Dương.[7] Một nhân vật có vai trò quan trọng trong việc ủng hộ quyết định này là ngài Henrique Nhà hàng hải, người đã tham gia vào cuộc xâm chiếm Ceuta, là người đứng đầu trong việc thúc tiến và tài trợ các chuyến thám hiểm hàng hải Bồ Đào Nha cho đến tận cái chết của ông ấy vào năm 1460.[8] Thời điểm bấy giờ, người Châu Âu không biết được gì nhiều về Châu Phi xa hơn mũi Bojador. Henrique muốn tìm hiểu xem lãnh thổ Hồi giáo ở Châu Phi trải dài đến tận bao xa, và liệu có khả thi để đến Châu Á bằng đường biển; cả hai là để đạt được nguồn xuất xứ của Con đường gia vị hái ra tiền; và có lẽ là để gia nhập với vương quốc Kitô truyền thuyết của Prester John đang được đồn rằng nằm ở đâu đó tại "Indies".[4][9] Dưới sự tài trợ của ông, những hòn đảo Đại Tây Dương Madeira (1419) và Azores (1427) đã được vươn đến và bắt đầu sản xuất lúa mì xuất khẩu về Bồ Đào Nha.[10]
Thám hiểm bờ biển Phi Châu thời kì đầu
sửaSự sợ hãi những gì nằm xa hơn mũi Bojador và liệu sẽ có trở về được hay không một khi đã vượt qua nó, đã được làm dịu đi vào 1434 khi nó được vòng quanh bởi Gil Eanes, một trong những thuyền trưởng của Henrique.[11] Vượt qua được nỗi sợ vô hình này, nó đã trở nên dễ dàng hơn cho việc quan sát dọc bờ biển. Năm 1443, hoàng tử Pedro, anh trai của Henrique và lúc đó là nhiếp chính của vương quốc phong cho ông ấy sự độc quyền hàng hải, chiến tranh và thương mại ở các vùng đất phía nam mũi Bojador. Về sau, sự độc quyền này được ban hành bởi các sắc lệnh giáo hội Dum Diversas (1452) và Romanus Pontifex (1455), cho phép Bồ Đào Nha độc quyền thương mại cho những vùng đất mới được khám phá.[12] Một thuận lợi lớn đã thúc đẩy quá trình này là sự phát minh của thuyền caravel giữa thế kỉ 15, một dạng thuyền có thể đi chịu gió hơn bất kì dạng thuyền nào khác đang được sử dụng ở Châu Âu;[13] các nhà hàng hải Bồ Đào Nha giờ đây dễ dàng trong việc đi đến các vĩ độ về phía nam, với tốc độ một vĩ độ trên một năm.[14] Sénégal và bán đảo Cabo Verde đã được đi tới vào năm 1445.[15]
Trạm giao thương đại lí vượt biển đầu tiên đã được thiết lập vào năm 1445 trên hòn đảo Arguim, nằm ngoài khơi Mauritanie để thu hút các nhà buôn Hồi giáo và xây dựng độc quyền làm ăn ở các con đường đã đi đến ở Bắc Phi. Năm 1446, Álvaro Fernandes đẩy xa khám phá đến tận Sierra Leone ngày nay, và Vịnh Guinea được đạt tới những năm 1460.[16] Quần đảo Cabo Verde được phát hiện 1456 và đặt chân đến năm 1462.
Sự phát triển của mía tại Madeira bắt đầu vào năm 1455, sử dụng các cố vấn từ Sicilia và thủ đô Genova để sản xuất "muối ngọt" đang hiếm ở Châu Âu thời ấy. Đã nhen nhóm ở Algarve, khả năng đến được Madeira thu hút các nhà buôn người Genoa và Flemish bỏ qua Veneto. Nô lệ được sử dụng, và số lượng nô lệ nhập khẩu vào lên đến 10% dân số Madeira cho đến cuối thế kỉ 16.[17] Đến năm 1480 Antwerpen đã có khoảng bảy mươi thuyền tiến hành giao dịch trong việc mua bán đường Madeira, với phân phối tập trung chủ yếu ở Antwerpen. Cho tới những năm 1490 thì Madeira đã vượt mặt Síp như là nơi sản xuất đường nhiều nhất.[18] Sự thành công của các hãng buôn đường như Bartolomeu Marchionni đã thúc tiến sự đầu tư trong tương lai.[19]
Năm 1469, sau cái chết của hoàng tử Henrique và do kết quả nghèo nàn của các cuộc thám hiểm Phi Châu, vua Afonso V phong độc quyền thương mại ở phần Vịnh Guinea cho nhà buôn Fernão Gomes.[20] Gomes, người đã phải đi thám hiểm 160 km bờ biển mỗi năm trong năm năm, phát hiện các hòn đảo của Vịnh Guinea, trong đó có São Tomé và Príncipe và tìm ra một giao dịch bồi tích tiền tàng với người bản địa, gặp gỡ các nhà buôn Ả Rập và Berber ở một trạm tên là Elmina (mỏ quặng), nơi mà ông ấy thiết lập một trạm giao thương.[21] Giao dịch thương mại giữa Elmina và Bồ Đào Nha phát triển xuyên suốt trong một thập kỉ. Vào năm 1481, đức vua tại vị João II quyết định xây dựng São Jorge da Mina để nhằm bảo vệ đường mậu dịch này, tuy nhiên đã bị phản đối bởi vì hành động này bị xem là sự lạm quyền hoàng gia. Đường xích đạo được các nhà hàng hải băng qua vào năm 1473, với sự tài trợ của Fernão Gomes và qua khỏi sông Congo bởi Diogo Cão năm 1482. Và cũng trong chuyến thám hiểm này, người Bồ Đào Nha lần đầu tiên chạm trán Vương quốc Kongo, và ngay sau đó đã thiết lập quan hệ quan giao với họ.[22] Trong chuyến thám hiểm 1485–86, Cão tiếp tục đi đến Cape Cross (thuộc Namibia ngày nay) nằm gần chí tuyến Nam.[23]
Năm 1488, Bartolomeu Dias vòng quanh mũi Hảo Vọng ở cực Nam Châu Phi, phản bác được quan điểm sai lầm từ thời Ptolemy rằng Ấn Độ Dương bị khóa trong đất liền. Cùng thời điểm đó, Pêro da Covilhã đã âm thầm di chuyển xuyên lục địa đến Ethiopia, gợi ý rằng một đường biển đến Ấn Độ sẽ sớm xuất hiện.[24]
Với cuộc thám hiểm đường bờ biển của mình ở Châu Phi, người Bồ Đào Nha để lại vô số những giá thập đá padrão, loại thập giái có khắc ghi quốc huy của Bồ Đào Nha được dùng để đánh dấu lãnh thổ,[25] và xây dựng vô số pháo đài và trạm mậu dịch. Từ những cứ địa này, họ sinh lời vào việc buôn bán nô lệ vàng. Bồ Đào Nha chiếm vị trí độc quyền trong việc buôn nô lệ Phi Châu xuyên biển hơn một thế kỉ, nhập về hơn 800 nô lệ mỗi năm. Đa số nô lệ bị đem về thủ đô của Bồ Đào Nha Lisbon, nơi mà sau này người Phi đen được ước tính chiếm đến 10 phần trăm dân số.[26]
Hiệp ước Tordesillas (1494)
sửaNăm 1492, sau khi Christopher Columbus phát hiện cho Tây Ban Nha Tân Thế giới, nơi mà ông tin rằng đó chính là Châu Á, đã dẫn đến tranh chấp giữa Bồ Đào Nha với Tây Ban Nha.[27] Điều này cuối cùng cũng được giải quyết bởi Hiệp ước Tordesillas năm 1494, chia đôi thế giới bên ngoài Châu Âu ra thành một chế độ "song quyền" giữa Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha theo đường kinh tuyến dọc từ bắc xuống nam dài 1,560 km, phía tây quần đảo Cape Verde.[28] Tuy nhiên, vào thời điểm đấy lại không có phương thức chuẩn xác nào để phân định kinh tuyến, và cả hai lại tiếp tục tranh chấp lằn ranh này cho đến tận năm 1777.[29]
Việc hoàn tất hiệp ước này với Tây Ban Nha là một trong nhiều lí do được đưa ra bởi các nhà sử học giải thích tại sao người Bồ Đào Nha lại mất đến chín năm mới tiếp nối chuyến thám hiểm của Dias đến Vịnh Hảo Vọng, tuy vậy người ta cũng đã phát hiện rằng một số cuộc thám hiểm bí mật vẫn được tiến hành ngay trong chính khoảng thời gian này.[30][31] Mặc kệ lí do cho việc đó là gì đi nữa, mục tiêu dài hạn của Bồ Đào Nha là tìm ra một đường biển đến Châu Á cuối cùng cũng đã đạt được trong chuyến thám hiểm lịch sử của ngài Vasco da Gama.[32]
Bồ Đào Nha vào Ấn Độ Dương
sửaĐoàn thám hiểm của Vasco da Gama rời Bồ Đào Nha năm 1497, vòng quanh mũi cực Nam và tiếp tục đi theo dọc bờ biển Đông Phi, nơi mà một thủy thủ địa phương được đem lên tàu và chỉ đường cho họ xuyên suốt Ấn Độ Dương, đến được Calicut (thủ đô của vương quốc bản địa Zamorin) ở Tây Nam Ấn Độ vào tháng năm 1498.[33] Chuyến du thám thứ hai đến Ấn Độ được tiến hành vào năm 1500 dưới quyền chỉ huy của Pedro Álvares Cabral. Khi đi theo cùng đường biển hướng nam-tây của Gama xuyên qua biển Đại Tây Dương, Cabral lại đặt chân đến bờ biển Brasil ngày nay. Đây có thể là một chuyến khám phá tình cờ của người Bồ Đào Nha, nhưng người ta ngờ vực rằng thật ra họ đã biết được bí mật về sự tồn tại của Brasil, và nó nằm ở phía của họ trên lằn ranh Tordesillas.[34] Cabral đề nghị vua Bồ Đào Nha nên cho định cư ở vùng đất này, và hai cuộc thám hiểm đã được nối tiếp sau đó vào năm 1501 và 1503. Vùng đất được phát hiện có rất nhiều loại cây Caesalpinia echinata, hay còn gọi là "cây Brasil", cái tên mà sau này được dùng để gọi tên phần lãnh thổ này, nhưng lại không tìm thấy bất kì vàng hoặc bạc nào vì thời điểm ấy nguồn lực của Bồ Đào Nha được tập trung vào Ấn Độ.[35] Năm 1502, để áp đặt ưu thế độc quyền của mình lên vùng biển Ấn Độ Dương, Đế quốc Bồ Đào Nha tạo ra hệ thống đăng kí giấy phép cartaz, cho phép các tàu buôn được bảo vệ khỏi hải tặc và các quốc gia so kè.[36]
Hưởng lợi từ sự ganh đua giữa Vương quốc Cochin và Zamorin xứ Calicut, người Bồ Đào Nha được xem như một đồng minh, khi họ giành được giấy phép để xây pháo đài Emmanuel (Fort Kochi) và một trạm mậu dịch, nơi định cư Châu Âu đầu tiên ở Ấn Độ. Họ xây dựng một trung tâm thương mại tại thành phố Tangasseri, Quilon (Coulão, Kollam) vào năm 1502, nơi mà đã trở thành tụ điểm thương mại về hạt tiêu,[37] và sau đó xây dựng các xí nghiệp ở Cochin (Cochim, Kochi) và Cannanore (Canonor, Kannur), xây một nhà máy tại Quilon năm 1503. Năm 1505 Vua Manuel I của Bồ Đào Nha chọn Francisco de Almeida làm Phó vương của Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha, thành lập chính quyền Bồ Đào Nha ở phía Đông. Năm đó Bồ Đào Nha cũng xâm chiếm được Kannur, nơi mà họ thành lập pháo đài St. Angelo, và Lourenço de Almeida đặt chân đến Sri Lanka để phát hiện ra cây quế. Mặc dù vua Cankili I xứ Jaffna ban đầu chống đối lại sự tiếp xúc với người Bồ Đào Nha, vương quốc Jaffna đã nhanh chóng nhận được sự chú ý từ quan quyền Bồ Đào Nha ngay sau khi họ phản kháng lại các hoạt động truyền giáo, và vì đặc điểm chiến thuật về khoảng cách của nó với cảng Trincomalee. Trong cùng năm đó, Manuel I hạ lệnh Almeida gia cố các thành trì Bồ Đào Nha ở Kerala và phía trong Đông Phi và nghiên cứu khả năng xây dựng thêm pháo đài ở Sri Lanka và Malacca để đối phó sự thù địch đang gia tăng với người Hồi Giáo trong những khu vực này và mối đe dọa từ các vua nô lệ hồi giáo (Mamluk Sultan).
Một hải đoàn Bồ Đào Nha dưới quyền Tristão da Cunha và Afonso de Albuquerque đánh chiếm Soqotra tại cửa ra vào của Biển Đỏ vào 1506 và Muscat vào 1507. Nhận thất bại ê chề từ việc đánh chiếm Ormuz, họ quyết định đổi sang chiến thuật cắt đứt đường buôn bán ra vào từ Ấn Độ Dương. Madagascar được thám hiểm một phần bởi Cunha, và Mauritius được phát hiện bởi chính Cunha và cả Albuquerque theo kèm. Sau khi chiếm được Soqotra, Cunha và Albuquerque tách ra hoạt động riêng lẻ. Trong khi Cunha chu du giữa Ấn Độ và Bồ Đào Nha vì mục đích trao đổi hàng hóa, Alburquerque đến Ấn Độ để thay thế chức thống đốc sau khi nhiệm kì 3 năm của Almeida kết thúc. Almeida từ chối trao trả lại quyền lực cho Alburquerque và nhanh chóng bắt giam lỏng ông ấy, nơi mà ông bị giam cầm cho đến năm 1509.
Tuy được yêu cầu bởi Manuel I phải tiếp tục tìm hiểu ích lợi của vùng Malacca và Sri Lanka, Almeida lại tập trung vào phía tây Ấn Độ, chính xác hơn là vương quốc Gujarat Sultanate bởi vì ông nghi ngờ rằng có các tay buôn từ vùng này có nhiều quyền lực hơn. Vua nô lệ Al-Ashraf Qansuh Al-Ghuri cùng với vua Gujarati tấn công lực lượng Bồ Đào Nha ở cảng Chaul, dẫn đến cái chết của con trai Almeida. Để đáp trả lại, người Bồ Đào Nha đánh và phá hủy các hải đoàn Mamluk và Gujarati trong trận hải chiến Diu năm 1509.
Do sự chống đối từ Almeida, vua Manuel I và hội đồng của ông ở Lisbon đã phải phân phối quyền lực ở Ấn Độ Dương, chia thành 3 khu vực quyền hạn: Alburquerque được gửi đi Biển Đỏ, Diogo Lopes de Sequeira đến Đông Nam Á, tìm kiếm sự đồng thuận với vua hồi giáo của Malacca, và Jotge de Aguiar theo sau là Duarte de Lemos được gửi đến khu vực giữa Mũi Hảo Vọng vàà Gujarat. Tuy nhiên, các khu vực như vậy sau đó đã được tập trung bởi Afonso de Alburquerque sau khi ông nắm quyền và củng cố được sự thống trị của mình.
Trao đổi với Châu Á hải đảo, Châu Phi và Ấn Độ Dương
sửaGoa, Malacca và Đông Nam Á
sửaVào đến cuối năm 1509, Albuquerque trở thành phó vương quốc Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha. Trái ngược với Almeida, Albuquerque quan tâm nhiều hơn đến việc cải thiện sức mạnh của hải quân, và cũng tuân theo lợi ích của chính quốc hơn. Nhiệm vụ đầu tiên của ông là xâm chiếm Goa, nơi có vị trí chiến lược là một pháo đài phòng thủ giữa Kerala và Gurajat và mang tính quan trọng cho việc nhập khẩu ngựa Ả Rập.
Cuộc đánh chiếm Goa từ vương triều Adil Shahi của vùng Bịjapur vào năm 1510 nhanh chóng bị phản kháng bởi người Bijapur, nhưng với sự giúp đỡ của tay cướp biển đánh thuê người Hindu Timoji, ngày 25 tháng 11 năm đó vùng này đã bị tái chiếm. Tại Goa, Alburquerque khởi đầu mỏ đúc tiền Bồ Đào Nha Đầu tiên ở Ấn Độ vào năm 1510. Ông khuyến khích các di dân Bồ Đào Nha kết hôn với phụ nữ bản xứ, xây dựng một nhà thờ dưới danh nghĩa Catherine thành Alexanderia (vì nó được chiếm lại vào ngày lễ thánh của bà), và cố gắng tạo thiện cảm với người Hindu bằng cách bảo vệ đền thờ của họ và miễn giảm thuế. Bồ Đào Nha giữ gìn mối quan hệ thân thiện với các hoàng đế phía nam Ấn Độ của Đế quốc Vijayanagara.
Vào tháng 4 năm 1511, Albuquerque du thuyền đến Malacca ở Malaysia, thị trường hương liệu lớn nhất thời bấy giờ. Mặc dù giao dịch được nắm phần lớn bởi Gujurati, các nhóm khác như Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư, Armenia, Ethiopia cũng mua bán ở đó. Albuquerque nhắm đến Malacca để cản trở ảnh hưởng của người Hồi giáo và người Venice lên giao dịch hương liệu và gia tăng sức mạnh của Lisbon. Đến tháng 7 năm 1511, Albuquerque đã chiếm được Malacca và gửi Antonio de Abreu và Francisco Serrão (cùng với Fernão de Magalhães) đi khám phá địa lý vùng Indonesia.
Bán đảo Mã Lai mau chóng trở thành căn cứ chiến lược cho việc mở rộng thương mại Bồ Đào Nha với Trung Quốc và Đông Nam Á. Một cánh cổng rộng, gọi là Formosa, được dựng lên để bảo vệ thành phố và vẫn còn tồn tại đến nay. Biết được tham vọng của Xiêm với Malacca, Albuquerque ngay lập tức gửi Duarte Fernandes đi Vương quốc Xiêm (Thái Lan ngày nay), nơi mà ông chính là người Châu Âu đầu tiên xuất hiện, thiết lập mối quan hệ hữu nghị và thương mại giữa hai bên.
Đế quốc Bồ Đào Nha tiến sâu thêm xuống phía nam và tiếp tục phát hiện ra Timor năm 1512. Jorgge de Meneses khám phá ra New Guinea năm 1526, gọi nó là "Đảo Papua". Năm 1517, João da Silveira chỉ huy một hải đoàn đến Chittagong, và đến 1528, Bồ Đào Nha đã thiết lập một nơi cư trú ở Chittagong. Bồ Đào Nha đặt trung tâm hoạt động của họ dọc bên bờ Sông Hooghly, nơi mà họ gặp người Hồi giáo, Hindu và Chatin.
Trung Quốc và Nhật Bản
sửaJorge Alvares là người châu Âu đầu tiên đến Trung Quốc bằng đường biển, trong khi người La Mã là người đầu tiên đi qua Tiểu Á. Ông cũng là người châu Âu đầu tiên khám phá Hồng Kông.[38][39] Năm 1514, Afonso de Albuquerque, Đại sứ của Estado da Ấn Độ, phái Rafael Perestrello của Ý đi thuyền đến Trung Quốc để đi tiên phong trong quan hệ thương mại châu Âu với quốc gia.[40][41]
Mặc dù có sự hòa hợp và phấn khích ban đầu giữa hai nền văn hóa, những khó khăn bắt đầu nảy sinh ngay sau đó, bao gồm cả sự hiểu lầm, sự cố chấp và thậm chí là sự thù địch.[42] Nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha Simão de Andrade kích động quan hệ nghèo nàn với Trung Quốc do các hoạt động cướp biển của ông, đột kích vận chuyển Trung Quốc, tấn công một quan chức Trung Quốc và bắt cóc người Trung Quốc. Anh ta sống ở đảo Tamao trong một pháo đài. Người Trung Quốc cho rằng Simão đã bắt cóc các bé trai và bé gái Trung Quốc bị quấy rối và ăn thịt người.[43] Người Trung Quốc đã gửi một phi đội gồm những người chống lại các đoàn lữ hành Bồ Đào Nha đã thành công trong việc đưa người Bồ Đào Nha đi và đòi lại Tamao. Do đó, người Trung Quốc đã đăng một sắc lệnh cấm những người đàn ông có đặc điểm da trắng xâm nhập vào bang Canton, giết chết nhiều người Bồ Đào Nha ở đó và đẩy người Bồ Đào Nha trở lại biển.[44][45]
Sau khi Quốc vương Bintan bắt giữ một số người Bồ Đào Nha dưới thời Tomás Pires, người Trung Quốc sau đó đã xử tử 23 người Bồ Đào Nha và ném phần còn lại vào nhà tù nơi họ cư trú trong điều kiện tồi tệ, đôi khi gây tử vong. Người Trung Quốc sau đó đã tàn sát người Bồ Đào Nha cư trú tại các trạm giao dịch Ninh Ba và Phúc Kiến vào năm 1545 và 1549, do các cuộc tấn công rộng rãi và gây thiệt hại của người Bồ Đào Nha dọc theo bờ biển, khiến người Trung Quốc tức giận.[44] Cướp biển Bồ Đào Nha đứng thứ hai sau cướp biển Nhật Bản trong thời kỳ này. Tuy nhiên, họ sớm bắt đầu che chắn cho các thiếu gia Trung Quốc và một giao dịch thận trọng bắt đầu. Năm 1557, chính quyền Trung Quốc cho phép người Bồ Đào Nha định cư tại Macau, tạo ra một nhà kho trong thương mại hàng hóa giữa Trung Quốc, Nhật Bản, Goa và Châu Âu.[44][46]
Quần đảo gia vị (Moluccas) và Hiệp ước Zaragoza
sửaCác hoạt động của Bồ Đào Nha ở châu Á đã không được chú ý, vào năm 1521 Magalhães đã đến khu vực này và tuyên bố Philippines cho Tây Ban Nha. Năm 1525, Tây Ban Nha dưới thời Carlos V đã phái một đoàn thám hiểm xâm chiếm Quần đảo Moluccas, tuyên bố họ ở trong khu vực của Hiệp ước Tordesillas, vì không có giới hạn nào được đặt ở phía đông. Đoàn thám hiểm của García Jofre de Loaísa đã tới Moluccas, cập cảng Tidore. Với người Bồ Đào Nha đã được thành lập ở Ternate gần đó, xung đột là không thể tránh khỏi, dẫn đến gần một thập kỷ của những cuộc giao tranh. Một nghị quyết đã đạt được với Hiệp ước Zaragoza năm 1529, quy kết Moluccas cho Bồ Đào Nha và Philippines cho Tây Ban Nha.[47] Người Bồ Đào Nha giao dịch thường xuyên với Đế quốc Brunei từ năm 1530 và mô tả thủ đô Brunei được bao quanh bởi một bức tường đá.
Nam Á, vịnh Ba Tư và Biển Đỏ
sửaĐế quốc Bồ Đào Nha mở rộng ra vịnh Ba Tư, tranh giành quyền kiểm soát buôn bán gia vị với Đế quốc Ajuran và Đế quốc Ottoman. Năm 1515, Afonso de Albuquerque đã chinh phục bang Hwuz của Huwala ở đầu Vịnh Ba Tư, thành lập nó như một quốc gia chư hầu. Tuy nhiên, Aden đã chống lại cuộc viễn chinh của Albuquerque trong cùng năm đó và một nỗ lực khác của người kế nhiệm của Lopo Soares de Albergaria vào năm 1516. Năm 1521, một lực lượng do António Correia lãnh đạo đã chiếm được Bahrain, đánh bại vua Jabrid, Muqrin ibn Zamil.[48] Trong một loạt các liên minh thay đổi, người Bồ Đào Nha đã thống trị phần lớn phía nam vịnh Ba Tư trong hàng trăm năm tới. Với tuyến đường hàng hải thường xuyên nối Lisbon đến Goa từ năm 1497, đảo Mozambique trở thành một cảng chiến lược, và đã được xây dựng Fort São Sebastião và một bệnh viện. Ở Azores, Quần đảo Armada bảo vệ các con tàu trên đường đến Lisbon.[49]
Năm 1534, Gujarat phải đối mặt với cuộc tấn công từ các quốc gia Mogul và Rajpur của Chitor và Mandu. Quốc vương Bahadur Shah của Gujarat đã buộc phải ký Hiệp ước Bassein với người Bồ Đào Nha, thành lập một liên minh để giành lại đất nước, trao đổi Daman, Diu, Mumbai và Bassein. Nó cũng quy định việc buôn bán tàu Gujarati khởi hành đến Biển Đỏ và đi qua Bassein để trả thuế và cho phép buôn bán ngựa.[50] Sau khi nhà cai trị Mughal Humayun thành công chống lại Bahadur, sau đó, người này đã ký một hiệp ước khác với người Bồ Đào Nha để xác nhận các điều khoản và cho phép pháo đài được xây dựng ở Diu. Ngay sau đó, Humayun chuyển sự chú ý của mình sang nơi khác và quân Gujarat đã liên minh với Ottoman để giành lại quyền kiểm soát Diu và bao vây pháo đài. Hai cuộc bao vây thất bại năm 1538 và 1546 chấm dứt tham vọng của Ottoman, khẳng định quyền bá chủ của Bồ Đào Nha trong khu vực,[50][51] cũng như đạt được sự vượt trội so với người Mughal.[52] Tuy nhiên, người Ottoman đã chống lại các cuộc tấn công từ người Bồ Đào Nha ở Biển Đỏ và Bán đảo Sinai năm 1541 và ở khu vực phía bắc của vịnh Ba Tư vào năm 1546 và 1552. Mỗi thực thể cuối cùng phải tôn trọng phạm vi ảnh hưởng của người kia, mặc dù không chính thức.[53][54]
Châu Phi cận Saharan
sửaSau một loạt các liên hệ kéo dài với Ethiopia, Đại sứ quán Bồ Đào Nha đã liên lạc với Vương quốc Ethiopia (Abyssinian) do Rodrigo de Lima lãnh đạo năm 1520.[55][56] Điều này trùng hợp với cuộc tìm kiếm của người Bồ Đào Nha cho Nhà tù John, vì họ sớm liên kết vương quốc là vùng đất của mình. Nỗi sợ hãi về những tiến bộ của Thổ Nhĩ Kỳ trong khu vực Bồ Đào Nha và Ethiopia cũng đóng một vai trò trong liên minh của họ.[55][57] Vương quốc Hồi giáo Adal đã đánh bại người Ethiopia trong trận Shimbra Kure năm 1529, và đạo Hồi lan rộng hơn trong khu vực. Bồ Đào Nha đã đáp trả bằng cách giúp đỡ vua Gelawdewos với binh lính và súng hỏa mai của Bồ Đào Nha. Mặc dù người Ottoman đã đáp trả với sự hỗ trợ của binh lính và súng hỏa mai cho Vương quốc Adal, sau cái chết của vua Adali Ahmad ibn Ibrahim al-Ghazi trong trận Wayna Daga năm 1543, lực lượng Adal-Ottoman đã rút lui.[58][59][60]
Người Bồ Đào Nha cũng đã liên lạc trực tiếp với nhà nước chư hầu Kongolose Ndongo và người cai trị Ngola Kiljuane vào năm 1520, sau khi các nhà truyền giáo sau đó yêu cầu.[61] Vua Afonso I can thiệp vào quá trình tố cáo, và sau đó đã gửi một nhiệm vụ Kongo đến Ndongo sau khi sau đó đã bắt giữ nhiệm vụ Bồ Đào Nha đã đến.[61] Hoạt động buôn bán nô lệ chính thức và không chính thức ngày càng tăng với mối quan hệ căng thẳng giữa Kongo và người Bồ Đào Nha, và thậm chí còn có các đại sứ Bồ Đào Nha từ Sao Tome ủng hộ Ndongo chống lại Vương quốc Kongo.[62][63] Tuy nhiên, khi Jaga tấn công và chinh phục các khu vực của Kongo vào năm 1568, Bồ Đào Nha đã hỗ trợ Kongo trong thất bại của họ.[64] Đáp lại, Kongo cho phép thực dân hóa Đảo Luanda; Luanda được thành lập bởi Paulo Dias de Novais vào năm 1576 và sớm trở thành cảng nô lệ.[64][65] Liên minh tiếp theo của De Novais với Ndongo đã chọc giận những người Luso-người châu Phi đã phẫn nộ với ảnh hưởng từ Vương thất.[66] Năm 1579, nhà cai trị Ndongo Ngola Kiluanje kia Ndamdi đã tàn sát cư dân Bồ Đào Nha và Kongolese ở thủ đô Ndongo Kabasa dưới ảnh hưởng của những kẻ nổi loạn Bồ Đào Nha. Cả người Bồ Đào Nha và Kongo đã chiến đấu chống lại Ndongo, và chiến tranh ngoài luồng giữa Ndongo và Bồ Đào Nha sẽ tồn tại trong nhiều thập kỷ.[67]
Cuộc thám hiểm truyền giáo
sửaNăm 1542, nhà truyền giáo Dòng Tên, ông Francis Xavier, đã đến Goa để phục vụ vua João II của Bồ Đào Nha, phụ trách một Tòa thánh Tông đồ. Đồng thời Francisco Zeimoto, António Mota và các thương nhân khác đã đến Nhật Bản lần đầu tiên. Theo ông Fernão Mendes Pinto, người tự nhận là trong hành trình này, họ đã đến Tanegashima, nơi người dân địa phương bị ấn tượng bởi súng, điều đó sẽ ngay lập tức được người Nhật thực hiện trên quy mô lớn.[68] Đến năm 1570, người Bồ Đào Nha đã mua một phần cảng Nhật Bản nơi họ thành lập một phần nhỏ của thành phố Nagasaki,[69] và nó trở thành cảng thương mại lớn ở Nhật Bản trong thương mại tam giác với Trung Quốc và châu Âu.[70]
Người Bồ Đào Nha đã bị đánh bại một cách rõ ràng trong nỗ lực đánh chiếm các thành phố cảng Somalia giàu có trên bờ biển Somalia như Mogadishu, Merca, Baraawe, Kismaros và Hobyo bởi Somalia hùng mạnh của Đế quốc Ajura.[71][72][73]
Bảo vệ thương mại của mình từ cả hai đối thủ châu Âu và châu Á, Bồ Đào Nha không chỉ chiếm lĩnh thương mại giữa châu Á và châu Âu, mà còn phần lớn thương mại giữa các khu vực khác nhau của châu Á và châu Phi, như Ấn Độ, Indonesia, Trung Quốc và Nhật Bản. Các nhà truyền giáo Dòng Tên, theo người Bồ Đào Nha để truyền bá Giáo hội Công giáo Rôma đến Châu Á và Châu Phi với thành công hỗn hợp.[74]
Nỗ lực thực dân ở châu Mỹ
sửaCanada
sửaDựa trên Hiệp ước Tordesillas, Vương thất Bồ Đào Nha, dưới thời các vị vua Manuel I, João II và Sebastian của Bồ Đào Nha, cũng đã giành được quyền lãnh thổ ở Bắc Mỹ (đạt được bởi John Cabot vào năm 1497 và 1498). Cuối cùng, vào năm 1499 và 1500, João Fernandes Lavrador đã khám phá Greenland và bờ biển phía bắc Đại Tây Dương của Canada, nơi xuất hiện "Labrador" trên bản đồ địa hình thời kỳ này.[75] Sau đó, vào năm 1500–1501 và 1502, hai anh em Gaspar và Miguel Corte-Real đã khám phá những gì ngày nay là tỉnh Newfoundland và Labrador của Canada và Greenland, tuyên bố những vùng đất này cho Bồ Đào Nha. Năm 1506, Vua Manuel I đã tạo ra thuế cho nghề cá tuyết ở vùng biển Newfoundland.[cần dẫn nguồn] Khoảng năm 1521, João Álvares Fagundes đã được trao quyền tài trợ cho các hòn đảo bên trong Vịnh Saint Lawrence và cũng tạo ra một khu định cư trên đảo Đảo Cape Breton để làm cơ sở đánh bắt cá tuyết. Áp lực từ người bản địa và nghề cá châu Âu cạnh tranh đã ngăn cản một cơ sở thường trú và bị bỏ rơi năm năm sau đó. Một số nỗ lực để thiết lập các khu định cư ở Newfoundland trong nửa thế kỷ tiếp theo cũng thất bại.[76]
Brasil
sửaTrong một vài năm sau khi Cabral đến từ Brasil, sự cạnh tranh đến từ Pháp. Năm 1503, một đoàn thám hiểm dưới sự chỉ huy của Gonçalo Coelho đã báo cáo các cuộc tấn công của Pháp vào bờ biển Brasil,[77] và nhà thám hiểm Binot Paulmier de Gonneville đổi lấy Brasilwood sau khi liên lạc ở miền nam Brasil một năm sau đó.[78] Các cuộc thám hiểm được tài trợ bởi Francis I dọc theo bờ biển Bắc Mỹ đã vi phạm trực tiếp Hiệp ước Tordesillas.[79] nhưng các cuộc tấn công sẽ tiếp tục là một vấn đề trong thập niên 1560.[79]
Sau khi de Sousa đến và thành công, mười lăm vùng vĩ độ, theo lý thuyết là kéo dài từ bờ biển đến giới hạn Tordesillas, đã được João III ra lệnh vào ngày 28 tháng 9 năm 1532.[80] Âm mưu của những vùng đất được hình thành như một thuyền trưởng đại úy (Capitanias Hereditárias) cho những người được cấp đủ giàu để hỗ trợ định cư, như đã được thực hiện thành công ở Quần đảo Madeira và Cape Verde.[81] Sousa trả lại Lisbon một năm sau đó để trở thành thống đốc Ấn Độ và không bao giờ quay lại Brasil.[82][83] Các cuộc tấn công của Pháp đã chấm dứt ở một mức độ nào đó sau khi bị trả thù dẫn đến việc người Bồ Đào Nha trả tiền cho Pháp để ngừng tấn công các tàu Bồ Đào Nha trên khắp Đại Tây Dương,[79] nhưng các cuộc tấn công sẽ tiếp tục là một vấn đề trong thập niên 1560.[84]
Sau khi de Sousa đến và thành công, mười lăm vùng vĩ độ, theo lý thuyết là kéo dài từ bờ biển đến giới hạn Tordesillas, đã được João III ra lệnh vào ngày 28 tháng 9 năm 1532.[82][85] Âm mưu của những vùng đất được hình thành như một thuyền trưởng di truyền (Capitanias Hereditárias) cho những người được cấp đủ giàu để hỗ trợ định cư, như đã được thực hiện thành công ở Quần đảo Madeira và Cabo Verde.[86] Mỗi Đại Úy là để xây dựng các khu định cư, cấp phát và quản lý công lý, chịu trách nhiệm phát triển và chịu chi phí thuộc địa, mặc dù không phải là chủ sở hữu: anh ta có thể truyền nó cho con cháu, nhưng không bán nó. Mười hai người nhận đến từ gentry người Bồ Đào Nha trở nên nổi tiếng ở Châu Phi và Ấn Độ và các quan chức cấp cao của tòa án, như João de Barros.[87]
Trong số mười lăm Đại Úy ban đầu, chỉ có hai, Pernambuco và São Vicente, đã phát triển thịnh vượng.[88] Cả hai đều được dành riêng cho vụ mùa mía, và những người định cư đã cố gắng duy trì liên minh với Người Mỹ bản địa. Sự phát triển của ngành công nghiệp đường xuất hiện do Crown lấy các nguồn lợi nhuận dễ nhất (Brasilwood, gia vị, v.v.), khiến những người định cư tìm đến các nguồn thu mới.[89] Việc thành lập ngành công nghiệp mía đường đòi hỏi lao động chuyên sâu sẽ được đáp ứng với người Mỹ bản địa và sau đó là nô lệ châu Phi.[90] Do hệ thống capitanias không hiệu quả, João III quyết định tập trung hóa chính quyền thuộc địa để "giúp đỡ và giúp đỡ" cho những người được cấp. Năm 1548, ông đã tạo ra Chính phủ đầu tiên, gửi Tomé de Sousa làm thống đốc đầu tiên và chọn một thủ đô tại Bay of All Saints, biến nó thành Captaincy of Bahia.[91][92]
Tomé de Sousa đã xây dựng thủ đô của Brasil, Salvador, tại vịnh All Saints năm 1549.[93] Trong số 1000 người thám hiểm của de Sousa có binh lính, công nhân và sáu Dòng Tên do Manuel da Nóbrega lãnh đạo.[94] Dòng Tên sẽ có một vai trò thiết yếu trong việc thuộc địa hóa Brasil, bao gồm São Vicente và São Paulo, sau này mà Nóbrega đồng sáng lập.[95] Cùng với các nhiệm vụ Dòng Tên sau đó đã phát bệnh giữa những người bản địa, trong số đó bệnh dịch hạch và bệnh đậu mùa.[96] Sau đó, người Pháp sẽ tái định cư trên lãnh thổ Bồ Đào Nha tại vịnh Guanabara, nơi sẽ được gọi là Antarctique thuộc Pháp.[97] Trong khi một đại sứ Bồ Đào Nha được gửi đến Paris để báo cáo về sự xâm nhập của Pháp, Joao III đã bổ nhiệm Mem de Sá làm tổng thống mới của Brasil và Sá rời Brasil vào năm 1557.[97] Đến năm 1560, Sá và lực lượng của ông đã trục xuất Huguenot, người Scotland theo Thần học Calvin và lực lượng nô lệ từ Pháp ở Antarctique, nhưng đã bỏ đi những người sống sót sau khi đốt cháy pháo đài và làng mạc của họ. Những người sống sót này sẽ định cư Vịnh Gloria, Bãi biển Flamengo và Parapapuã với sự hỗ trợ của người Tamoio người bản địa.[98]
Tamoio đã liên minh với người Pháp kể từ khi định cư Pháp ở Antarctique, và mặc dù Pháp mất năm 1560, Tamoio vẫn là một mối đe dọa.[99] Họ đã phát động hai cuộc tấn công vào năm 1561 và 1564 (sự kiện sau đó là hỗ trợ người Pháp) và gần như đã thành công với mỗi cuộc tấn công.[100][101] Vào khoảng thời gian này, Manuel de Nóbrega, cùng với các tu sĩ Dòng Tên José de Anchieta, tham gia với tư cách là thành viên của các cuộc tấn công vào Tamoios và làm gián điệp cho tài nguyên của họ.[99][100] Từ 1565 đến 1567, Mem de Sá và lực lượng của ông cuối cùng đã phá hủy Antarctique thuộc Pháp tại vịnh Guanabara. Ông và cháu trai của mình, Estácio de Sá, sau đó thành lập thành phố Rio de Janeiro vào năm 1567, sau khi Mem de Sá tuyên bố khu vực "São Sebastião do Rio de Janeiro" vào năm 1565.[102] Đến năm 1575, Tamoios đã bị khuất phục và về cơ bản đã tuyệt chủng,[99] và đến năm 1580, chính phủ đã trở thành ouvidor general hơn là ouvidores.[103]
Liên bang Iberia, Tin lành cạnh tranh, và ứ đọng thuộc địa (1580–1663)
sửaNăm 1580, Vua Felipe II của Tây Ban Nha đã xâm chiếm Bồ Đào Nha sau một khủng hoảng kế vị do cái chết của Vua Sebastian của Bồ Đào Nha gây ra trong cái chết thảm khốc Cuộc tấn công của Bồ Đào Nha vào Alcácer Quibir tại Maroc năm 1578. Tại Cortes của Tomar năm 1581, Felipe đã lên ngôi Felipe I của Bồ Đào Nha, hợp nhất hai vương thất và đế quốc hải ngoại dưới Habsburg thuộc Tây Ban Nha cai trị trong triều đại Liên minh Iberia.[104] Tại Tomar, Philip hứa sẽ giữ cho các đế quốc khác biệt về mặt pháp lý, để lại chính quyền của Đế quốc Bồ Đào Nha cho các công dân Bồ Đào Nha, với Phó vương Bồ Đào Nha ở Lisbon.[105] Felipe thậm chí đã chuyển thủ đô đến Lisbon trong thời gian hai năm (1581–1583) do đây là thành phố quan trọng nhất trong Bán đảo Iberia.[106] Tất cả các thuộc địa Bồ Đào Nha đã chấp nhận tình trạng mới ngoại trừ Azores, được tổ chức cho António, một đối thủ người Bồ Đào Nha tuyên bố ngai vàng đã giành được sự ủng hộ của Caterina de' Medici của Pháp để đổi lấy lời hứa nhượng lại Brasil. Lực lượng Tây Ban Nha cuối cùng đã chiếm được các đảo vào năm 1583.[107]
Ranh giới Tordesillas giữa Tây Ban Nha và quyền kiểm soát của Bồ Đào Nha ở Nam Mỹ sau đó ngày càng bị người Bồ Đào Nha phớt lờ, người đã vượt ra ngoài nó vào trung tâm của Brasil,[105] cho phép họ mở rộng lãnh thổ về phía tây. Các nhiệm vụ thăm dò đã được chính phủ ra lệnh, "entradas" (mục nhập) và theo sáng kiến riêng, "bandeiras" (quốc kỳ), bởi "bandeirantes".[108] Những cuộc thám hiểm này kéo dài trong nhiều năm mạo hiểm vào các khu vực chưa được khai thác, ban đầu để bắt người bản địa và buộc họ làm nô lệ, và sau đó tập trung vào việc tìm kiếm các mỏ vàng, bạc và kim cương.[109]
Tuy nhiên, liên minh có nghĩa là Tây Ban Nha kéo Bồ Đào Nha vào cuộc xung đột với Anh, Pháp và Cộng hòa Hà Lan, những quốc gia bắt đầu thành lập đế quốc hải ngoại của riêng họ.[110] Mối đe dọa chính đến từ người Hà Lan, người đã tham gia vào đấu tranh giành độc lập chống lại Tây Ban Nha kể từ năm 1568. Năm 1581, Bảy tỉnh giành được độc lập từ Habsburg trong suốt thời gian cai trị, lãnh đạo Felipe II cấm buôn bán với các tàu Hà Lan, kể cả ở Brasil, nơi Hà Lan đã đầu tư một khoản tiền lớn để tài trợ cho sản xuất đường.[111]
Mạng lưới thương mại đế quốc Tây Ban Nha hiện đã được mở cho các thương nhân Bồ Đào Nha, đặc biệt sinh lợi cho các thương nhân nô lệ Bồ Đào Nha, những người hiện có thể bán nô lệ ở châu Mỹ Tây Ban Nha với giá cao hơn mức có thể được bán ở Brasil.[112] Ngoài quyền tới gần mới có được vào Tây Ban Nha asiento, Bồ Đào Nha đã có thể giải quyết vấn đề thiếu thỏi vàng của họ với quyền truy cập vào việc sản xuất khai thác bạc ở Peru và México.[113] Manila cũng được sáp nhập vào mạng lưới giao dịch Macau-Nagasaki, cho phép người Ma Cao gốc Bồ Đào Nha làm đại lý thương mại cho người Tây Ban Nha gốc Philippines và sử dụng bạc Tây Ban Nha từ châu Mỹ để giao dịch với Trung Quốc, và sau đó họ đã cạnh tranh với Công ty Đông Ấn Hà Lan.[114]
Vào năm 1592, trong chiến tranh với Tây Ban Nha, một hạm đội Anh đã chiếm được một chiếc xe ngựa lớn của Bồ Đào Nha ngoài khơi Azores, Madre de Deus, được tải 900 tấn hàng hóa từ Ấn Độ và Trung Quốc ước tính khoảng nửa triệu Bảng Anh (gần một nửa kích thước của Kho bạc Anh tại thời điểm đó).[115] Vận may về sự giàu có của phương Đông này đã làm dấy lên sự quan tâm của người Anh trong khu vực.[116] Cùng năm đó, Cornelis de Houtman được các thương nhân Hà Lan gửi đến Lisbon, để thu thập càng nhiều thông tin càng tốt về Quần đảo Spice.[114][117]
Cuối cùng, Hà Lan đã nhận ra tầm quan trọng của Goa trong việc phá vỡ Đế quốc Bồ Đào Nha ở Châu Á. Năm 1583, thương gia và nhà thám hiểm Jan Huyghen van Linschoten (1563 – 8 tháng 2 năm 1611), trước đây là thư ký Hà Lan của Tổng Giám mục Goa, đã có được thông tin trong khi phục vụ ở vị trí đó có vị trí của các tuyến thương mại bí mật của Bồ Đào Nha trên khắp châu Á, bao gồm cả những người đến Đông Ấn và Nhật Bản. Nó được xuất bản năm 1595; văn bản sau đó được bao gồm trong tập lớn hơn được xuất bản năm 1596 với tiêu đề "Itinerario: Voyage, ofte schipvaert van Jan Huygen van Linschoten naer Oost ofte Portugaels Indien, 1579 ném1592". Lợi ích của người Hà Lan và Anh đã sử dụng thông tin mới này, dẫn đến việc mở rộng thương mại của họ, bao gồm nền tảng của người Anh Công ty Đông Ấn vào năm 1600 và Công ty Đông Ấn Hà Lan vào năm 1602. Những phát triển này cho phép gia nhập công ty điều lệ vào Đông Ấn.[118][119]
Người Hà Lan đã chiến đấu ở nước ngoài, tấn công Tây Ban Nha và các thuộc địa Bồ Đào Nha và bắt đầu Chiến tranh Bồ Đào Nha–Hà Lan, sẽ kéo dài hơn sáu mươi năm (1602–1663). Khác Châu Âu một quốc gia, như Tin lành Anh, đã hỗ trợ Đế quốc Hà Lan trong cuộc chiến. Hà Lan đã giành được những chiến thắng ở Châu Á và Châu Phi với sự hỗ trợ của nhiều đồng minh bản địa khác nhau, cuối cùng đã giành quyền kiểm soát Malacca, Ceylon và São Jorge da Mina. Hà Lan cũng có quyền kiểm soát khu vực đối với khu vực sản xuất đường sinh lợi ở phía đông bắc Brasil cũng như Luanda, nhưng người Bồ Đào Nha đã giành lại các vùng lãnh thổ này sau cuộc đấu tranh đáng kể.[120][121]
Trong khi đó, tại Bán đảo Ả Rập, Bồ Đào Nha cũng mất quyền kiểm soát Ormuz bởi một liên minh chung của người Safavid và Anh năm 1622 và Oman dưới Al-Ya'arub sẽ chiếm được Muscat vào năm 1650.[122] Họ sẽ tiếp tục sử dụng. Quảng cáo là căn cứ cho các cuộc xâm lược lặp đi lặp lại ở Ấn Độ Dương, bao gồm cả việc chiếm giữ Pháo đài Jesus năm 1698.[123] Ở Ethiopia và Nhật Bản vào những năm 1630, việc trục xuất các nhà truyền giáo của các nhà lãnh đạo địa phương đã cắt đứt ảnh hưởng ở các khu vực tương ứng.[124][125]
Thời kỳ thứ hai (1663–1825)
sửaMất các thuộc địa là một trong những lý do góp phần chấm dứt liên minh cá nhân với Tây Ban Nha. Năm 1640, João IV được tuyên bố là Vua Bồ Đào Nha và Chiến tranh phục hồi Bồ Đào Nha bắt đầu. Ngay cả trước khi có nghị quyết cuối cùng của chiến tranh, vương thất đã thành lập Hội đồng hải ngoại, được hình thành vào năm 1642 theo mô hình tồn tại ngắn ngủi của Hội đồng Ấn (1604 –1614), và được thành lập năm 1643, đây là cơ quan quản lý của hầu hết người Bồ Đào Nha ở nước ngoài đế quốc. Các trường hợp ngoại lệ là Bắc Phi, Madeira và Azores. Tất cả các thư từ liên quan đến sở hữu ở nước ngoài đã được chuyển qua hội đồng. Khi tòa án Bồ Đào Nha chạy trốn sang Brasil vào năm 1807, sau cuộc xâm lược của Napoléon ở Iberia, Brasil đã bị loại khỏi khu vực tài phán của hội đồng. Nó đưa ra các khuyến nghị liên quan đến nhân sự cho các cơ quan hành chính, tài khóa và quân sự, cũng như các giám mục của các giáo phận hải ngoại.[126] Một thành viên nổi tiếng của thế kỷ 17 là Salvador de Sá.[127]
Năm 1661, người Bồ Đào Nha đã đề nghị Bombay và Tangier cho Anh như một phần của của hồi môn, và trong hàng trăm năm tiếp theo, Anh dần trở thành thương nhân thống trị ở Ấn Độ, dần dần loại trừ buôn bán quyền hạn khác. Năm 1668, Tây Ban Nha đã công nhận sự kết thúc của Liên minh Iberia và đổi lại, Bồ Đào Nha đã nhượng Ceuta cho vương thất Tây Ban Nha.[128]
Sau khi người Bồ Đào Nha bị đánh bại bởi những người cai trị Ấn Độ Chimnaji Appa của Đế quốc Maratha[129][130] và bởi Shivappa Nayaka và Keladi Nayaka Kingdom[131] và khi kết thúc các cuộc đối đầu với Hà Lan, Bồ Đào Nha chỉ có thể bám vào Goa và một số căn cứ nhỏ ở Ấn Độ, và đã giành lại được các lãnh thổ ở Brasil và Châu Phi, nhưng đã thua mãi mãi Sự nổi bật ở châu Á khi thương mại được chuyển hướng thông qua số lượng ngày càng tăng của các điểm giao dịch Anh, Hà Lan và Pháp. Do đó, trong suốt thế kỷ, Brasil đã đạt được tầm quan trọng ngày càng tăng đối với đế quốc, nơi xuất khẩu Brasilwood và đường.[109]
Minas Gerais và ngành công nghiệp vàng
sửaNăm 1693, vàng được phát hiện tại Minas Gerais ở Brasil. Những khám phá lớn về vàng và sau đó, kim cương ở Minas Gerais, Mato Grosso và Goiás đã dẫn đến một "cơn sốt vàng", với một lượng lớn người di cư.[132] Ngôi làng trở thành trung tâm kinh tế mới của đế quốc, với sự định cư nhanh chóng và một số xung đột. Chu kỳ vàng này đã dẫn đến việc tạo ra một thị trường nội bộ và thu hút một lượng lớn người nhập cư. Đến năm 1739, ở đỉnh điểm của sự bùng nổ khai thác, dân số của Minas Gerais nằm trong khoảng từ 200.000 đến 250.000.[133]
Cơn sốt vàng đã làm tăng đáng kể doanh thu của vương thất Bồ Đào Nha, người đã tính 1/5 tổng số quặng khai thác, hoặc "thứ năm". Chuyển hướng và buôn lậu là thường xuyên, cùng với sự thay đổi giữa Paulistas (Cư dânSão Paulo) và Emboabas (người nhập cư từ Bồ Đào Nha và các khu vực khác ở Brasil), do đó, toàn bộ các biện pháp kiểm soát quan liêu bắt đầu vào năm 1710 với sự chỉ huy của São Paulo và Minas Gerais. Đến năm 1718, São Paulo và Minas Gerais trở thành hai Đại Úy, với tám vilas được tạo ra sau đó.[134][135] Vương thất cũng hạn chế khai thác kim cương trong phạm vi quyền hạn của mình và cho các nhà thầu tư nhân.[135] Mặc dù thương mại toàn cầu mạ vàng, ngành trồng trọt trở thành mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Brasil trong giai đoạn này; đường chiếm 50% xuất khẩu (với vàng là 46%) vào năm 1760.[133]
Người châu Phi và người Brasil gốc Phi trở thành nhóm người lớn nhất ở Minas Gerais. Các nô lệ được dán tên là Minas và Angolas đã tăng nhu cầu cao trong thời kỳ bùng nổ. người Akan trong nhóm Minas có tiếng là chuyên gia ngoại suy vàng ở vùng bản địa của họ, và trở thành nhóm được ưa thích. Mặc dù tỷ lệ tử vong cao liên quan đến các nô lệ tham gia vào ngành khai thác mỏ, các chủ sở hữu cho phép nô lệ khai thác trên mức vàng tối thiểu để giữ các khoản thừa, từ đó dẫn đến khả năng thao tác. Những người đã trở thành một phần tự do trong các công việc thủ công như thợ làm đá, thợ may và thợ rèn. Mặc dù người da đen tự do và mulattoes đóng một vai trò lớn trong Minas Gerais, số người trong số họ nhận được sự thiệt thòi ở đó nhiều hơn bất kỳ khu vực nào khác ở Brasil.[136]
Vàng được phát hiện ở Mato Grosso và Goiás đã gây ra một mối quan tâm để củng cố biên giới phía tây của thuộc địa. Trong những năm 1730, liên lạc với các tiền đồn của Tây Ban Nha xảy ra thường xuyên hơn và Tây Ban Nha đe dọa sẽ khởi động một cuộc thám hiểm quân sự để loại bỏ chúng. Điều này đã không xảy ra vào những năm 1750, Bồ Đào Nha đã có thể cấy ghép một thành trì chính trị trong khu vực.[137]
Năm 1755, Lisbon đã phải chịu một thảm họa của trận động đất, cùng với một sóng thần sau đó đã giết chết khoảng 40.000 người 60.000 trong tổng số 275.000 người trong tổng số 275.000 người.[138] Điều này kiểm tra mạnh mẽ tham vọng thuộc địa của Bồ Đào Nha vào cuối thế kỷ 18.[139]
Theo các nhà sử học kinh tế, thương mại thuộc địa của Bồ Đào Nha có tác động tích cực đáng kể đến tăng trưởng kinh tế của Bồ Đào Nha, 1500–1800. Leonor Costa và cộng sự. kết luận:
- thương mại liên lục địa có tác động đáng kể và ngày càng tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Vào thời hoàng kim của việc mở rộng thuộc địa, việc loại bỏ các liên kết kinh tế với đế quốc sẽ làm giảm thu nhập bình quân đầu người của Bồ Đào Nha xuống khoảng 1/5. Mặc dù đế quốc đã giúp nền kinh tế trong nước không đủ để hủy bỏ xu hướng suy giảm liên quan đến cốt lõi tiên tiến của Châu Âu, được thiết lập từ thế kỷ 17 trở đi.[140]
Pombaline và hậu Pombaline Brasil
sửaKhông giống như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha không phân chia lãnh thổ thuộc địa ở Mỹ. Captaincies được tạo ra ở đó hoạt động dưới một chính quyền tập trung tại Salvador, được báo cáo trực tiếp cho vương thất ở Lisbon. Thế kỷ 18 được đánh dấu bằng việc tăng cường tập trung quyền lực hoàng gia trên toàn Đế quốc Bồ Đào Nha. Dòng Tên, người bảo vệ người bản địa chống lại chế độ nô lệ, đã bị Hầu tước Pombal đàn áp, dẫn đến việc giải thể trật tự trong khu vực vào năm 1759.[141] Pombal mong muốn cải thiện tình trạng của người bản địa bằng cách tuyên bố họ tự do và tăng dân số mestizo bằng cách khuyến khích sự giao thoa giữa họ và dân số da trắng. Tự do bản địa giảm đi tương phản với thời kỳ của Dòng Tên, và phản ứng đối với sự giao thoa là tốt nhất.[142] Doanh thu từ vàng của vương miện giảm và doanh thu từ đồn điền tăng theo thời gian của Pombal, và ông đã đưa ra các điều khoản để cải thiện từng khoản. Mặc dù thất bại trong việc tăng doanh thu vàng, hai công ty ngắn hạn mà ông thành lập cho nền kinh tế đồn điền đã thúc đẩy sự gia tăng đáng kể trong sản xuất bông, gạo, ca cao, thuốc lá, đường. Lao động nô lệ tăng lên cũng như sự tham gia của nền kinh tế dệt may. Sự phát triển kinh tế nói chung được lấy cảm hứng từ các yếu tố của Khai sáng ở lục địa châu Âu.[143] Tuy nhiên, ảnh hưởng giảm dần từ các quốc gia như Vương quốc Anh đã làm tăng sự phụ thuộc của Vương quốc vào Brasil.[144]
Được khích lệ bởi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã giành được độc lập từ Anh, tỉnh thuộc địa Minas Gerais đã cố gắng đạt được mục tiêu tương tự vào năm 1789. Tuy nhiên, Inconfidência Mineira đã thất bại, các nhà lãnh đạo của nó đã bị bắt và trong số những người tham gia cuộc nổi dậy, một trong những vị trí xã hội thấp nhất, Tiradentes, đã bị treo cổ.[145] Trong số những âm mưu do dân chúng gốc Phi lãnh đạo là cuộc nổi dậy của người Baht năm 1798, chủ yếu do João de Deus do Nascimento lãnh đạo. Lấy cảm hứng từ Cách mạng Pháp, các nhà lãnh đạo đã đề xuất một xã hội không có chế độ nô lệ, giá lương thực sẽ được hạ xuống và hạn chế thương mại được bãi bỏ. Điều kiện xã hội nghèo nàn và chi phí sinh hoạt cao là một trong những lý do của cuộc nổi dậy. Nhà chức trách đã khuếch tán âm mưu trước khi hành động lớn bắt đầu; họ đã xử tử bốn kẻ âm mưu và lưu đày một số người khác bị đày đến Bờ biển Đại Tây Dương.[146] Một số cuộc nổi loạn và nổi loạn nô lệ quy mô nhỏ hơn sẽ xảy ra từ năm 1801 và 1816 và nỗi sợ ở Brasil là những sự kiện này sẽ dẫn đến "Haiti thứ hai".[147]
Bất chấp những âm mưu, sự cai trị của Bồ Đào Nha ở Brasil không bị đe dọa nghiêm trọng. Nhà sử học A.R. Disney tuyên bố rằng những người thực dân đã không cho đến khi chuyển giao Vương quốc vào năm 1808 khẳng định ảnh hưởng của việc thay đổi chính sách do tiếp xúc trực tiếp,[148] và nhà sử học Gabriel Paquette đề cập rằng các mối đe dọa ở Brasil phần lớn chưa được thực hiện ở Bồ Đào Nha cho đến năm 1808 vì chính sách và gián điệp hiệu quả.[149] More revolts would occur after the arrival of the court.[150]
Thời kỳ thứ ba (1822–1999)
sửaỞ đỉnh cao của chủ nghĩa thực dân châu Âu vào thế kỷ 19, Bồ Đào Nha đã mất lãnh thổ ở Nam Mỹ và tất cả trừ một số căn cứ ở châu Á. Trong giai đoạn này, chủ nghĩa thực dân Bồ Đào Nha tập trung vào việc mở rộng các tiền đồn của mình ở châu Phi thành các lãnh thổ có quy mô quốc gia để cạnh tranh với các cường quốc châu Âu khác ở đó. Bồ Đào Nha dồn ép vào vùng nội địa của Angola và Mozambique, và các nhà thám hiểm Serpa Pinto, Hermenegildo Capelo và Roberto Ivens là một trong những người châu Âu đầu tiên đi qua châu Phi sang phía đông.[151][152]
Tối hậu thư của Anh và sự kết thúc của chế độ quân chủ Bồ Đào Nha (1890–1910)
sửaDự án kết nối hai thuộc địa, Bản đồ Hồng, là mục tiêu chính của chính sách Bồ Đào Nha vào những năm 1880[153] Tuy nhiên, ý tưởng này không thể chấp nhận được đối với người Anh, người có khát vọng riêng về lãnh thổ tiếp giáp của Anh chạy từ Cairo đến Cape Town. Tối hậu thư Anh năm 1890 được áp đặt cho Vua Carlos I của Bồ Đào Nha và Bản đồ màu hồng đã kết thúc.[153]
Phản ứng của nhà vua đối với tối hậu thư đã được các nhà cộng hòa khai thác.[153] Vào ngày 1 tháng 2 năm 1908, Vua Carlos và Hoàng tử Luís Filipe đã bị ám sát trong Lisbon bởi hai nhà cách mạng cộng hòa Bồ Đào Nha, Alfredo Luís da Costa và Manuel Buíça. Anh trai của Luís Filipe, Manuel, trở thành Vua Manuel II của Bồ Đào Nha. Hai năm sau, vào ngày 5 tháng 10 năm 1910, ông bị lật đổ và trốn đi lưu vong ở Anh trong Công viên Fulwell, Twickenham gần Luân Đôn và Bồ Đào Nha trở thành cộng hòa.[154]
Chiến tranh thế giới thứ nhất
sửaNăm 1914, Đế quốc Đức đã xây dựng kế hoạch chiếm đoạt đất nước khỏi sự kiểm soát của Bồ Đào Nha.[155] Cuộc đụng độ giữa binh sĩ Bồ Đào Nha và Đức xảy ra sau đó, dẫn đến quân tiếp viện được gửi từ đất liền.[156] Mục tiêu chính của những người lính này là chiếm lại Tam giác Kionga, ở phía bắc Mozambique, vùng lãnh thổ đã bị Đức khuất phục. Năm 1916, sau khi Bồ Đào Nha thực tập các tàu Đức ở Lisbon, Đức tuyên chiến với Bồ Đào Nha. Bồ Đào Nha theo sau, do đó bước vào Thế chiến thứ nhất.[157] Đầu chiến tranh, Bồ Đào Nha đã tham gia chủ yếu vào việc cung cấp cho quân Đồng minh ở Pháp. Năm 1916, chỉ có một cuộc tấn công vào lãnh thổ Bồ Đào Nha, trong Madeira.[158] Năm 1917, một trong những hành động của Bồ Đào Nha là hỗ trợ Anh trong ngành công nghiệp gỗ, bắt buộc phải nỗ lực chiến tranh. Cùng với Quân đoàn lâm nghiệp Canada, nhân viên Bồ Đào Nha đã thiết lập cơ sở hạ tầng khai thác gỗ tại một khu vực hiện được gọi là "Lò sưởi Bồ Đào Nha".[159]
Trong suốt năm 1917, Bồ Đào Nha đã phái các đội quân đến mặt trận Đồng minh ở Pháp. Giữa năm, Bồ Đào Nha bị thương vong trong Thế chiến thứ nhất. Ở Châu Phi Bồ Đào Nha, Bồ Đào Nha và người Anh đã chiến đấu nhiều trận chiến chống lại người Đức ở cả Mozambique và Angola. Cuối năm đó, thuyền U lại xâm nhập vùng biển Bồ Đào Nha và một lần nữa tấn công Madeira, đánh chìm nhiều tàu Bồ Đào Nha. Đến đầu năm 1918, Bồ Đào Nha tiếp tục chiến đấu dọc theo mặt trận Đồng minh chống lại Đức, bao gồm cả việc tham gia vào trận La Lys.[160] Khi mùa thu đến gần, Đức đã tìm thấy thành công ở cả Châu Phi Bồ Đào Nha và chống lại các tàu Bồ Đào Nha, đánh chìm nhiều tàu. Sau gần ba năm chiến đấu (theo quan điểm của Bồ Đào Nha), Thế chiến thứ nhất đã kết thúc, với một hiệp định đình chiến được ký kết bởi Đức. Tại Hội nghị Versailles, Bồ Đào Nha đã giành lại quyền kiểm soát toàn bộ lãnh thổ đã mất, nhưng không giữ được quyền sở hữu (theo luật uti possidetis) các lãnh thổ giành được trong chiến tranh, ngoại trừ Kionga, một thành phố cảng trong thời hiện đại Tanzania.[161]
Các lãnh thổ Bồ Đào Nha ở Châu Phi cuối cùng bao gồm các quốc gia hiện đại Cape Verde, São Tomé và Príncipe, Guiné-Bissau, Angola và Mozambique.[162]
Đảo lộn và phi thực dân hóa (1951–1999)
sửaTheo sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các phong trào phi thực dân hóa bắt đầu đạt được động lực trong các đế quốc của các cường quốc châu Âu. Chiến tranh lạnh sau đó cũng tạo ra sự bất ổn trong cộng đồng hải ngoại Bồ Đào Nha, khi Hoa Kỳ và Liên Xô ganh đua để tăng phạm vi ảnh hưởng của họ. Sau khi Anh giành độc lập cho Ấn Độ vào năm 1947, và quyết định của Pháp cho phép bao vây ở Ấn Độ được sáp nhập vào quốc gia mới độc lập, áp lực đã được đặt ra Bồ Đào Nha cũng làm như vậy.[163] Điều này đã bị António de Oliveira Salazar chống lại, người đã nắm quyền vào năm 1933. Salazar từ chối yêu cầu vào năm 1950 bởi Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru để trả lại các khu vực, xem họ như một phần không thể thiếu của Bồ Đào Nha.[164] Năm sau, hiến pháp Bồ Đào Nha đã được sửa đổi để thay đổi tình trạng của các thuộc địa thành các tỉnh ở nước ngoài. Năm 1954, một cuộc nổi dậy tại địa phương đã dẫn đến sự lật đổ của chính quyền Bồ Đào Nha tại vùng đất Ấn Độ Dadra và Nagar Haveli. Sự tồn tại của các thuộc địa Bồ Đào Nha còn lại ở Ấn Độ ngày càng trở nên khó lường và Nehru rất thích sự hỗ trợ của hầu hết các đảng chính trị trong nước Ấn Độ cũng như Liên Xô và các đồng minh. Năm 1961, ngay sau một cuộc nổi dậy chống lại người Bồ Đào Nha ở Ăng-gô-la, Nehru đã ra lệnh cho Quân đội Ấn Độ vào Goa, Daman và Diu, nhanh chóng bị bắt và chính thức bị thôn tính năm tiếp theo. Salazar từ chối công nhận việc chuyển giao chủ quyền, tin rằng các vùng lãnh thổ chỉ bị chiếm đóng. Tỉnh Goa tiếp tục được đại diện trong Quốc hội Bồ Đào Nha cho đến năm 1974.[165]
Sự bùng nổ bạo lực vào tháng 2 năm 1961 tại Angola là sự khởi đầu của sự kết thúc của Đế quốc Bồ Đào Nha ở Châu Phi. Các sĩ quan quân đội Bồ Đào Nha ở Angola giữ quan điểm rằng sẽ không có khả năng đối phó quân sự với sự bùng nổ của chiến tranh du kích và do đó các cuộc đàm phán nên bắt đầu bằng các phong trào độc lập. Tuy nhiên, Salazar đã công khai tuyên bố quyết tâm giữ cho đế quốc được nguyên vẹn và đến cuối năm nay, 50.000 quân đã đã đóng quân ở đó. Cùng năm đó, pháo đài nhỏ của Bồ Đào Nha São João Baptista de Ajudá ở Ouidah, một tàn dư của Tây Phi buôn bán nô lệ, đã bị chính quyền mới của Dahomey (nay là Bénin) đã giành được độc lập từ Pháp. Tình trạng bất ổn lan rộng từ Angola đến Guinea, đã nổi loạn vào năm 1963 và Mozambique năm 1964.[165]
Sự gia tăng ảnh hưởng của Liên Xô giữa quân đội Movimento das Forças Armadas và giai cấp công nhân, và chi phí và sự không phổ biến của Chiến tranh thuộc địa Bồ Đào Nha (1961–1974), trong đó Bồ Đào Nha chống lại các phong trào du kích dân tộc mới nổi ở một số vùng lãnh thổ châu Phi, cuối cùng đã dẫn đến sự sụp đổ của chế độ Estado Novo vào năm 1974. Được gọi là "Cách mạng hoa cẩm chướng", một trong những hành động đầu tiên của chính phủ do MFA lãnh đạo, sau đó lên nắm quyền – Cứu quốc Junta (Junta de Salvação Nacional) – là để chấm dứt các cuộc chiến tranh và đàm phán rút quân Bồ Đào Nha khỏi các thuộc địa châu Phi của nó. Những sự kiện này đã thúc đẩy một cuộc di cư hàng loạt của công dân Bồ Đào Nha từ các lãnh thổ châu Phi của Bồ Đào Nha (chủ yếu là từ Angola và Mozambique), tạo ra hơn một triệu người tị nạn Bồ Đào Nha – retornados.[166] Các nhà cầm quyền mới của Bồ Đào Nha cũng công nhận Goa và các lãnh thổ khác của Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha bị quân đội Ấn Độ xâm chiếm, là lãnh thổ của Ấn Độ. Yêu cầu của Bénin về São João Baptista de Ajudá đã được Bồ Đào Nha chấp nhận vào năm 1974.[167]
Theo một sử gia, các nhà cai trị Bồ Đào Nha không sẵn lòng đáp ứng yêu cầu của các chủ thể thuộc địa của họ (không giống như các cường quốc châu Âu khác) một phần vì giới tinh hoa Bồ Đào Nha tin rằng "Bồ Đào Nha thiếu phương tiện để thực hiện một" chiến lược rút lui "thành công (gần giống với "chiến tranh" tiếp cận theo sau là Anh, Pháp hoặc người Bỉ) "và một phần do thiếu" một cuộc tranh luận tự do và cởi mở Nhà nước độc tài Salaza về chi phí duy trì một đế quốc chống lại sự đồng thuận chống thực dân đã thắng thế tại Liên Hợp Quốc từ đầu những năm 1960".[168]
Các cuộc nội chiến của Angola các quốc gia cộng sản khác) chiến đấu chống lại các nhóm nổi dậy được hỗ trợ bởi các quốc gia như Zaire, Nam Phi và Hoa Kỳ.[169] Đông Timor cũng tuyên bố độc lập vào năm 1975 bằng cách thực hiện một cuộc di cư của nhiều người tị nạn Bồ Đào Nha đến Bồ Đào Nha, còn được gọi là retornados. Tuy nhiên, Đông Timor gần như ngay lập tức xâm chiếm bởi nước láng giềng Indonesia, sau đó chiếm đóng nó cho đến năm 1999. Một cuộc trưng cầu dân ý do Liên Hợp Quốc bảo trợdẫn đến lớn người Đông Timor chọn độc lập, cuối cùng đã đạt được vào năm 2002.[170]
Năm 1987, Bồ Đào Nha đã ký Tuyên bố chung Trung-Bồ Đào Nha với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa để thiết lập quy trình và điều kiện cho việc chuyển giao chủ quyền của Ma Cao, thuộc địa cuối cùng còn lại của nó. Trong khi quá trình này tương tự như thỏa thuận giữa Vương quốc Anh và Trung Quốc hai năm trước đó về Hồng Kông, việc chuyển nhượng Bồ Đào Nha sang Trung Quốc đã gặp phải sự kháng cự ít hơn so với Anh về Hồng Kông, vì Bồ Đào Nha đã công nhận Macau là lãnh thổ của Trung Quốc dưới thời Bồ Đào Nha quản trị năm 1979.[171] Theo thỏa thuận chuyển nhượng, Ma Cao sẽ chịu sự chi phối của một quốc gia, hai chính sách hệ thống, trong đó sẽ giữ quyền tự chủ cao và duy trì lối sống tư bản chủ nghĩa trong ít nhất 50 năm sau khi bàn giao vào năm 2049. Việc bàn giao Ngày 20 tháng 12 năm 1999 chính thức đánh dấu sự kết thúc của Đế quốc Bồ Đào Nha và chấm dứt chủ nghĩa thực dân ở Châu Á.[172]
Di sản
sửaHiện nay, Cộng đồng các quốc gia nói tiếng Bồ Đào Nha (CPLP) đóng vai trò là người kế thừa văn hóa và liên chính phủ Đế quốc.[173]
Ma Cao đã được trả lại cho Trung Quốc vào ngày 20 tháng 12 năm 1999, theo các điều khoản của một thỏa thuận được đàm phán giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Bồ Đào Nha mười hai năm trước đó. Tuy nhiên, ngôn ngữ Bồ Đào Nha vẫn là đồng nghiệp với tiếng Quảng Châu tại Ma Cao[174]
Hiện tại, Açores, Madeira và Quần đảo Savage là những lãnh thổ hải ngoại duy nhất vẫn còn liên kết chính trị với Bồ Đào Nha. Mặc dù Bồ Đào Nha đã bắt đầu quá trình làm tan rã Đông Timor vào năm 1975, nhưng trong năm 1999–2002 đôi khi được coi là thuộc địa cuối cùng còn lại của Bồ Đào Nha, vì cuộc xâm lược Đông Timor của Indonesia ckhông được Bồ Đào Nha biện minh.[175]
Tám trong số các thuộc địa cũ của Bồ Đào Nha có tiếng Bồ Đào Nha là ngôn ngữ chính thức. Cùng với Bồ Đào Nha, họ hiện là thành viên của Cộng đồng các quốc gia ngôn ngữ Bồ Đào Nha, khi kết hợp tổng cộng 10.742.000 km2, tương đương 7,2% diện tích đất liền của Trái đất (148 939 063 km²).[176] Có sáu quan sát viên liên kết của CPLP: Gruzia, Nhật Bản, Mauritius, Namibia, Sénégal, và Thổ Nhĩ Kỳ. Ngoài ra, mười hai quốc gia hoặc khu vực ứng cử viên đã đăng ký làm thành viên của CPLP và đang chờ phê duyệt.[177]
Ngày nay, tiếng Bồ Đào Nha là một trong những ngôn ngữ chính của thế giới, xếp thứ sáu về tổng thể với khoảng 240 triệu người nói trên toàn cầu.[178] Đây là ngôn ngữ được nói nhiều thứ ba ở châu Mỹ, chủ yếu là do Brasil, mặc dù cũng có những cộng đồng lusophones đáng kể ở các quốc gia như Canada, Hoa Kỳ và Venezuela. Ngoài ra, có rất nhiều tiếng Creole có nguồn gốc từ Bồ Đào Nha, bao gồm cả ngôn ngữ được sử dụng bởi người Kristang ở Melaka.[179]
Ví dụ, vì các thương nhân Bồ Đào Nha có lẽ là người đầu tiên giới thiệu cam ngọt ở châu Âu, trong một số Ngữ hệ Ấn-Âu hiện đại, trái cây đã được đặt theo tên của họ. Một số ví dụ tiếng Albania portokall, tiếng Bulgaria портокал (portokal), Greek πορτοκάλι (portokali), tiếng Macedonia портокал (portokal), tiếng Ba Tư پرتقال (porteghal), và tiếng Romania portocală.[180][181] Tên liên quan có thể được tìm thấy trong các ngôn ngữ khác, chẳng hạn như tiếng Ả Rập البرتقال (bourtouqal), tiếng Gruzia ფორთოხალი (p'ort'oxali), tiếng Thổ Nhĩ Kỳ portakal và tiếng Amhara birtukan.[180] Ngoài ra, trong, in phương ngữ miền nam Ý (ví dụ: Tiếng Napoli), một màu cam là portogallo hoặc purtuallo, nghĩa đen là "tiếng Bồ Đào Nha (một)", trái ngược với tiếng Ý chuẩn arancia.
Trước tầm quan trọng quốc tế của mình, Bồ Đào Nha và Brasil đang dẫn đầu một phong trào bao gồm tiếng Bồ Đào Nha là một trong ngôn ngữ chính thức của Liên Hợp Quốc.[182]
Xem thêm
sửaTham khảo
sửaChú thích
sửa- ^ Diffie & Winius 1977, tr. 301
- ^ Newitt 2005, tr. 15–17
- ^ a b Newitt 2005, tr. 19
- ^ a b Boxer 1969, tr. 19
- ^ Abernethy, p. 4
- ^ Newitt 2005, tr. 21
- ^ a b Diffie & Winius 1977, tr. 55
- ^ Diffie & Winius 1977, tr. 56: Henry, a product of 15th-century Portugal, was inspired by both religious and economic factors.
- ^ Anderson 2000, tr. 50
- ^ Coates 2002, tr. 60
- ^ Diffie & Winius 1977, tr. 68
- ^ Daus 1983, tr. 33
- ^ Boxer 1969, tr. 29
- ^ Russell-Wood 1998, tr. 9
- ^ Rodriguez 2007, tr. 79
- ^ Diffie & Winius 1977, tr. 469
- ^ Godinho, V. M. Os Descobrimentos e a Economia Mundial, Arcádia, 1965, Vol 1 and 2, Lisboa
- ^ Ponting 2000, tr. 482
- ^ Davis 2006, tr. 84
- ^ Bethencourt & Curto 2007, tr. 232
- ^ White 2005, tr. 138
- ^ Gann & Duignan 1972, tr. 273
- ^ Diffie & Winius 1977, tr. 156
- ^ Anderson 2000, tr. 59
- ^ Newitt 2005, tr. 47
- ^ Anderson 2000, tr. 55
- ^ McAlister 1984, tr. 73–75
- ^ Bethencourt & Curto 2007, tr. 165
- ^ Diffie & Winius 1977, tr. 174
- ^ Diffie & Winius 1977, tr. 176
- ^ Boxer 1969, tr. 36
- ^ Diffie & Winius 1977, tr. 176–185
- ^ Scammell, p. 13
- ^ McAlister 1984, tr. 75
- ^ McAlister 1984, tr. 76
- ^ Diffie & Winius 1977, tr. 274, 320–323
- ^ Thangassery, Kollam – Kerala Tourism
- ^ Hong Kong & Macau 14 By Andrew Stone, Piera Chen, Chung Wah Chow Lonely Planet, 2010. pp. 20–21
- ^ Hong Kong & Macau By Jules Brown Rough Guides, 2002. p. 195
- ^ “Tne Portuguese in the Far East”. Algarvedailynews.com. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
- ^ 'Portugal's Discovery in China' on Display
- ^ “When Portugal Ruled the Seas | History & Archaeology | Smithsonian Magazine”. Smithsonianmag.com. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
- ^ Jesus 1902, tr. 5
- ^ a b c Dodge 1976, tr. 226
- ^ Whiteway 1899, tr. 339
- ^ Disney 2009b, tr. 175, 184
- ^ Ooi 2004, tr. 1340
- ^ Juan Cole, Sacred Space and Holy War, IB Tauris, 2007 p. 37
- ^ O'Flanagan 2008, tr. 125
- ^ a b Pearson 1976, tr. 74–82
- ^ Malekandathil 2010, tr. 116–118
- ^ Mathew 1988, tr. 138
- ^ Uyar, Mesut; J. Erickson, Edward (2003). A Military History of the Ottomans: From Osman to Atatürk. ABC-CLIO. ISBN 0275988767.
- ^ D. João de Castro The Voyage of Don Stefano de Gama from Goa to Suez, in 1540, with the intention of Burning the Turkish Galleys at that port (Volume 6, Chapter 3, eText)
- ^ a b Abir, p. 86
- ^ Appiah; Gates, p. 130
- ^ Newitt (2004), p. 86
- ^ Black, p. 102
- ^ Stapleton 2013, tr. 121
- ^ Cohen, pp. 17–18
- ^ a b Mancall 2007, tr. 207
- ^ Thornton 2000, tr. 100–101
- ^ Heywood & Thornton 2007, tr. 83
- ^ a b Stapleton 2013, tr. 175
- ^ Goodwin, p. 184
- ^ Heywood & Thornton 2007, tr. 86
- ^ Mancall 2007, tr. 208–211
- ^ Pacey, Arnold (1991). Technology in World Civilization: A Thousand-year History. MIT Press. ISBN 978-0-262-66072-3.
- ^ Yosaburō Takekoshi, "The Economic Aspects of the History of the Civilization of Japan", ISBN 0-415-32379-7.
- ^ Disney 2009b, tr. 195
- ^ The Portuguese period in East Africa – Page 112
- ^ The History of the Portuguese, During the Reign of Emmanuel p. 287
- ^ The book of Duarte Barbosa. p. 30
- ^ Bethencourt & Curto 2007, tr. 262–265
- ^ Diffie & Winius 1977, tr. 464
- ^ Disney 2009a, tr. 116
- ^ Herring & Herring 1968, tr. 214
- ^ Metcalf (2006), p. 60
- ^ a b c Pickett & Pickett 2011, tr. 14
- ^ Marley 2008, tr. 76
- ^ Marley 2008, tr. 76–78
- ^ a b de Oliveira Marques 1972, tr. 254
- ^ Marley 2008, tr. 78
- ^ Marley 2005, tr. 694–696
- ^ Marley 2008, tr. 694
- ^ Diffie & Winius 1977, tr. 310
- ^ de Abreu, João Capistrano (1998). Chapters of Brazil's Colonial History 1500–1800. trans. by Arthur Irakel. Oxford University Press. tr. 35, 38–40. ISBN 978-0-19-802631-0. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2012.
- ^ de Oliveira Marques 1972, tr. 255–56
- ^ de Oliveira Marques 1972, tr. 255
- ^ Bethencourt & Curto 2007, tr. 111–119
- ^ Lockhart 1983, tr. 190–191
- ^ Bakewell 2009, tr. 496
- ^ Mahoney 2010, tr. 246
- ^ Russell-Wood 1968, tr. 47
- ^ Ladle 2000, tr. 185
- ^ Metcalf (2005), pp. 36–37
- ^ a b Marley 2008, tr. 86
- ^ Marley 2008, tr. 90
- ^ a b c Treece 2000, tr. 31
- ^ a b Marley 2008, tr. 91–92
- ^ Metcalf (2005), p. 37
- ^ Marley 2008, tr. 96
- ^ Schwartz 1973, tr. 41
- ^ Kamen 1999, tr. 177
- ^ a b Boyajian 2008, tr. 11
- ^ Gallagher 1982, tr. 8
- ^ Anderson 2000, tr. 104–105
- ^ Boxer 1969, tr. 386
- ^ a b Bethencourt & Curto 2007, tr. 111, 117
- ^ Anderson 2000, tr. 105
- ^ Thomas 1997, tr. 159
- ^ Lockhart 1983, tr. 250
- ^ Newitt 2005, tr. 163
- ^ a b Disney 2009b, tr. 186
- ^ Smith, Roger (1986). “Early Modern Ship-types, 1450–1650”. The Newberry Library. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2009.
- ^ The Presence of the "Portugals" in Macau and Japan in Richard Hakluyt's Navigations Lưu trữ 2012-02-05 tại Wayback Machine", Rogério Miguel Puga, Bulletin of Portuguese/Japanese Studies, vol. 5, December 2002, pp. 81–116.
- ^ Lach 1994, tr. 200
- ^ Crow, John A. (1992). The Epic of Latin America (ấn bản thứ 4). Berkley and Los Angeles, California: University of California Press. tr. 241. ISBN 978-0-520-07723-2. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2012.
- ^ Bowen, H. V.; Lincoln, Margarette; Rigby, Nigel biên tập (2002). The Worlds of the East India Company. Boydell & Brewer. tr. 2. ISBN 978-1-84383-073-3. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2012.
- ^ Disney 2009b, tr. 73–74, 168–171, 226–231
- ^ Charles R. Boxer, The Dutch in Brazil, 1624-1654. Oxford: Clarendon Press 1957.
- ^ Disney 2009b, tr. 169
- ^ Disney 2009b, tr. 350
- ^ Olson, James Stuart biên tập (1991). Historical Dictionary of European Imperialism. Greenwood Press. tr. 204. ISBN 978-0313262579. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2017.
- ^ Goodman, Grant K. biên tập (1991). Japan and the Dutch 1600-1853. Routledge. tr. 13. ISBN 978-0700712205. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2017.
- ^ Francis A. Dutra. "Overseas Council (Portugal)" in Encyclopedia of Latin American History and Culture, vol. 4, pp. 254–255. New York: Charles Scribner’s Sons 1996.
- ^ Francis A. Dutra, "Salvador Correia de Sá e Benavides" in Encyclopedia of Latin American History and Culture, vol. 5, p. 2. New York: Charles A. Scribner's Sons 1996.
- ^ Cowans, Jon biên tập (2003). Early Modern Spain: A Documentary History. University of Pennsylvania Press. tr. 180. ISBN 0-8122-1845-0. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2012.
- ^ History of the Konkan by Alexander Kyd Nairne pp. 84–85
- ^ Ahmed 2011, tr. 330
- ^ Portuguese Studies Review ISSN 1057-1515 (Baywolf Press) p. 35
- ^ Boxer 1969, tr. 168
- ^ a b Disney 2009b, tr. 268–269
- ^ Bethell 1985, tr. 203
- ^ a b Disney 2009b, tr. 267–268
- ^ Disney 2009b, tr. 273–275
- ^ Disney 2009b, tr. 288
- ^ Kozák & Cermák 2007, tr. 131
- ^ Ramasamy, SM.; Kumanan, C.J.; Sivakumar, R.; và đồng nghiệp biên tập (2006). Geomatics in Tsunami. New India Publishing. tr. 8. ISBN 978-81-89422-31-8. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2012.
- ^ Costa, Leonor Freire; Palma, Nuno; Reis, Jaime (2015). “The great escape? The contribution of the empire to Portugal's economic growth, 1500–1800”. European Review of Economic History. 19 (1): 1–22. doi:10.1093/ereh/heu019.
- ^ Disney 2009a, tr. 298–302
- ^ Disney 2009b, tr. 288–289
- ^ Disney 2009b, tr. 277–279, 283–284
- ^ Paquette, p. 67
- ^ Bethell 1985, tr. 163–164
- ^ Disney 2009b, tr. 296–297
- ^ Paquette, p. 104
- ^ Disney 2009b, tr. 298
- ^ Pequette, p. 106
- ^ Pequette, pp. 106–114
- ^ Newitt 1995, tr. 335–336
- ^ Corrado 2008, tr. 18
- ^ a b c Lisboa 2008, tr. 134
- ^ Wheeler 1998, tr. 48–61
- ^ Vincent-Smith, J. D. (tháng 9 năm 1974). “The Anglo-German Negotiations over the Portuguese Colonies in Africa, 1911–14”. The Historical Journal. Cambridge University Press. 17 (3): 620–629. doi:10.1017/s0018246x0000532x. ISSN 0018-246X. JSTOR 2638392.
- ^ “Portugal enters the war”. The Independent. 26 tháng 10 năm 1914. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2012.
- ^ Wheeler 1998, tr. 128
- ^ Bản mẫu:Cite Uboat.net
- ^ “Portuguese Fireplace”. Newforestexplorersguide.co.uk. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2014.
- ^ Battle of La Lys Lưu trữ 2007-06-03 tại Wayback Machine
- ^ Thomas, H.B., "The Kionga Triangle", Tanganyika Notes and Records Volume 31 1951, pp. 47–50.
- ^ Koffi, Ettien (2012). Paradigm Shift in Language Planning and Policy: Game-Theoretic Solutions. Boston/Berlin: Walter de Gruyter, Inc. tr. 98. ISBN 978-1-934078-10-5. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2012.
- ^ Pearson 1987, p. 158
- ^ Pearson 1987, p. 160
- ^ a b Anderson 2000, tr. 153
- ^ Dismantling the Portuguese Empire Lưu trữ 2013-07-23 tại Wayback Machine, Time Magazine (ngày 7 tháng 7 năm 1975)
- ^ Sao Joao Recognizance
- ^ Oliveira, Pedro Aires (ngày 24 tháng 5 năm 2017). “Decolonization in Portuguese Africa” (bằng tiếng Anh). doi:10.1093/acrefore/9780190277734.001.0001/acrefore-9780190277734-e-41. Chú thích journal cần
|journal=
(trợ giúp) - ^ Arnold & Wiener 2012, tr. 11–12
- ^ “East Timor: Birth of a nation”. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2012.
- ^ “Joint declaration of the Government of the People's Republic of China and The Government of the Republic of Portugal on the question of Macao”. Government Printing Bureau (Macao SAR). 1987. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2010.
- ^ Macau and the end of empire, ngày 18 tháng 12 năm 1999. BBC News
- ^ “CPLP Histórico – Como surgiu?” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). CPLP. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2015.
- ^ “Cataloging Policy and Support Office: Macau”. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2012.
- ^ de Almeida, p. 92
- ^ “CPLP”. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2010.
- ^ pt:CPLP
- ^ “língua portuguesa”. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2010.
- ^ Velupillai, p. 519
- ^ a b “Multilingual Multiscript Plant Name Database: Sorting Citrus Names”. University of Melbourne (www.search.unimelb.edu.au). Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2012.
- ^ Ostergren, Robert C.; Le Bossé, Mathias (2011). The Europeans: A Geography of People, Culture, and Environment (ấn bản thứ 2). Guilford Press. tr. 129. ISBN 978-1-60918-140-6.
- ^ “ONU: Petição para tornar português língua oficial”. Diario.iol.pt. ngày 17 tháng 11 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2010.
Tham khảo
sửa- Abeyasinghe, Tikiri (1986). Jaffna Under the Portuguese. Lake House Investments. ISBN 978-9555520003.
- Abir, Mordechai (1980). Ethiopia and the Red Sea: The Rise and Decline of the Solomonic Dynasty and Muslim European Rivalry in the Region. Routledge. ISBN 978-0714631646.
- Ahmed, Farooqui Salma (2011). A Comprehensive History of Medieval India: Twelfth to the Mid-Eighteenth Century. Pearson Education India. ISBN 978-81-317-3202-1.
- Appiah, Anthony; Gates, Henry Louis biên tập (2010). Encyclopedia of Africa, Volume 2. Oxford University Press. ISBN 9780195337709.
- Arnold, James R.; Wiener, Roberta biên tập (2012). Cold War: The Essential Reference Guide. ABC-CLIO. ISBN 978-1-61069-003-4. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2012.
- Brockey, Liam Matthew (2008). Portuguese Colonial Cities in the Early Modern World. Ashgate Publishing, Ltd. ISBN 978-0-7546-6313-3.
- Abernethy, David (2000). The Dynamics of Global Dominance, European Overseas Empires 1415–1980. Yale University Press. ISBN 0-300-09314-4.
- Anderson, James Maxwell (2000). The History of Portugal. Greenwood Publishing Group. ISBN 0-313-31106-4.
- Bakewell, Peter (2009). A History of Latin America to 1825. Wiley-Blackwell. ISBN 978-1405183680.
- Bethell, Leslie (1985). The Independence of Latin America. Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-34927-7.
- Bethencourt, Francisco; Curto, Diogo Ramada (2007). Portuguese Overseas Expansion, 1400–1800. Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-84644-8.
- Black, Jeremy (2011). War in the World: A Comparative History, 1450–1600. Palgrave Macmillan. ISBN 9780230344266.[liên kết hỏng]
- Boxer, Charles Ralph (1969). The Portuguese Seaborne Empire 1415–1825. Hutchinson. ISBN 0-09-131071-7.
- Boyajian, James (2008). Portuguese Trade in Asia Under the Habsburgs, 1580–1640. JHU Press. ISBN 0-8018-8754-2.
- Chesworth, John; Thomas, David biên tập (2015). Christian-Muslim Relations. a Bibliographical History.: Volume 7. Central and Eastern Europe, Asia, Africa and South America (1500–1600). Brill Academic Publishers. ISBN 978-9004297203.
- Coates, Timothy Joel (2002). Convicts and Orphans: Forced and State-Sponsored Colonization in the Portuguese Empire, 1550–1755. Stanford University Press. ISBN 9780804733595.
- Cohen, Leonardo (2009). The Missionary Strategies of the Jesuits in Ethiopia (1555–1632). Harrassowitz Verlag. ISBN 978-3-447-05892-6.
- Corrado, Jacopo (2008). The Creole Elite and the Rise of Angolan Protonationalism: 1870–1920. Cambria Press. ISBN 9781604975291.
- Crowley, Roger. Conquerors: How Portugal Forged the First Global Empire (2015)
- de Almeida, Miguel Vale (2004). An Earth-colored Sea: Race, Culture And The Politics Of Identity In The Post-colonial Portuguese-speaking World. Berghahn Books. ISBN 978-1-78238-854-8.
- Davies, Kenneth Gordon (1974). The North Atlantic World in the Seventeenth Century. University of Minnesota Press. ISBN 0-8166-0713-3.
- Davis, David Brion (2006). Inhuman Bondage: The Rise And Fall of Slavery in the New World. Oxford University Press. ISBN 9780195140736.
- Diffie, Bailey W.; Winius, George D. (1977). Foundations of the Portuguese Empire, 1415–1580. University of Minnesota Press. ISBN 978-0-8166-0782-2.
- Disney, A.R. (2009a). History of Portugal and the Portuguese Empire Volume 1, Portugal: From Beginnings to 1807. Cambridge University Press. ISBN 978-0521843188.
- Disney, A.R. (2009b). History of Portugal and the Portuguese Empire Volume 2, Portugal: From Beginnings to 1807. Cambridge University Press. ISBN 978-0521738224.
- Dodge, Ernest Stanley (1976). Islands and Empires: Western Impact on the Pacific and East Asia. University of Minnesota Press. ISBN 978-0816607884.
- Gallagher, Tom (1982). Portugal: A Twentieth Century Interpretation. St. Martin's Press. ISBN 9780719008764.
- Gann, Louis Henry; Duignan, Peter (1972). Africa and the World: An Introduction to the History of Sub-Saharan Africa from Antiquity to 1840. University Press of America. ISBN 978-0-7618-1520-4.
- Gipouloux, François (2011). The Asian Mediterranean: Port Cities and Trading Networks in China, Japan and Southeast Asia, 13th–21st Century. Edward Elger. ISBN 978-0857934260.
- Goodman, Grant K. (2000). Japan and the Dutch 1600-1835. Routledge. ISBN 978-0700712205.
- Goodwin, Stefan (2008). Africa's Legacies Of Urbanization: Unfolding Saga of a Continent. Lexington Books. ISBN 978-0-7391-5176-1.
- Herring, Hubert Clinton; Herring, Helen Baldwin (1968). A History of Latin America: From the Beginnings to the Present. Knopf. ISBN 0-224-60284-5.
- Heywood, Linda M.; Thornton, John K. biên tập (2007). Central Africans, Atlantic Creoles, and the Foundation of the Americas, 1585–1660. Cambridge University Press. ISBN 9780521770651.
- Jesus, Carlos Augusto Montalto (1902). Historic Macao. Kelly & Walsh, ltd. ISBN 9781143225352.
- Juang, Richard M.; Morrissette, Noelle Anne biên tập (2008). Africa and the Americas: Culture, Politics, and History: A Multidisciplinary Encyclopedia, Volume 2. ABC-CLIO. ISBN 978-1-85109-441-7.
- Kamen, Henry (1999). Philip of Spain. Yale University Press. ISBN 9780300078008.
- Kozák, Jan; Cermák, Vladimir (2007). The Illustrated History of Natural Disasters. Springer. ISBN 9789048133246.
- Kratoska, Paul H. (2004). South East Asia, Colonial History: Imperialism before 1800. Taylor and Francis. ISBN 978-0415215404.
- Lach, Donald F. (1994). Asia in the Making of Europe, Volume I: The Century of Discovery. University of Chicago Press. ISBN 9780226467085.
- Ladle, Jane (2000). Brazil. American Map. ISBN 9780887291302.
- Lisboa, Maria Manuel (2008). Paula Rego's Map of Memory: National and Sexual Politics. Ashgate Publishing. ISBN 978-0-7546-0720-5.
- Lockhart, James (1983). Early Latin America: A History of Colonial Spanish America and Brazil. Cambridge University Press. ISBN 0-521-29929-2.
- Macmillan, Allister (2000). Mauritius Illustrated. Educa Books, Facsimile edition. ISBN 0-313-31106-4.
- Mahoney, James (2010). Colonialism and Postcolonial Development Spanish America in Comparative Perspective. Cambridge University Press. ISBN 9780521116343.
- Malekandathil, Pius (2010). Maritime India: Trade, Religion and Polity in the Indian Ocean. Primus Books. ISBN 978-9380607016.
- Mancall, Peter C. (2007). The Atlantic World and Virginia, 1550–1624. University of North Carolina Press. ISBN 9780807838839.
- Marley, David (2005). Historic Cities of the Americas: An Illustrated Encyclopedia, Volume 1. ABC-CLIO. ISBN 978-1-57607-574-6.
- Marley, David (2008). Wars of the Americas: A Chronology of Armed Conflict in the Western Hemisphere (2 Volumes). University of Oklahoma Press. ISBN 978-1598841008.
- McAlister, Lyle (1984). Spain and Portugal in the New World, 1492–1700. University of Minnesota Press. ISBN 0-8166-1216-1.
- Mathew, Kuzhippalli Skaria (1988). History of the Portuguese Navigation in India, 1497–1600. Mittal Publications. ISBN 978-8170990468.
- Mehta, Jaswant Lal (1980). Advanced Study in the History of Medieval India. Sterling Publishers Pvt. Ltd. ISBN 978-81-207-0617-0.
- Metcalf, Alida C. (2006). Go-Betweens and the Colonization of Brazil: 1500–1600. University of Texas Press. ISBN 978-0-292-71276-8.
- Metcalf, Alida C. (2005). Family and Frontier in Colonial Brazil: Santana de Parnaíba, 1580–1822. University of Texas Press. ISBN 978-0-292-70652-1.
- Newitt, Malyn D.D. (1995). A History of Mozambique. Indiana University Press. ISBN 978-0-253-34006-1.
- Newitt, Malyn D.D. (2005). A History of Portuguese Overseas Expansion, 1400–1668. Routledge. ISBN 0-415-23979-6.[liên kết hỏng]
- O'Flanagan, Patrick (2008). Port Cities of Atlantic Iberia, c. 1500–1900. Ashgate Publishing. ISBN 978-0-7546-6109-2.
- de Oliveira Marques, A.H. (1972). History of Portugal: From Lusitania to Empire; Vol. 1. Columbia University Press. ISBN 978-0231031592.
- Olson, James Stuart (1991). Historical Dictionary of European Imperialism. Greenwood. ISBN 9780313262579.
- Ooi, Keat Gin (2004). Southeast Asia: A Historical Encyclopedia, from Angkor Wat to East Timor: Volume 1. ABC_CLIO. ISBN 978-1-57607-771-9.
- Ooi, Keat Gin (2009). Historical Dictionary of Malaysia. Rowman & Littlefield Publishers, Inc. ISBN 978-0-8108-5955-5.
- Page, Melvin E.; Sonnenburg, Penny M. biên tập (2003). Colonialism: An International, Social, Cultural, and Political Encyclopedia, Volume 2. ABC-CLIO. ISBN 1-57607-335-1.
- Paquette, Gabriel (2014). Imperial Portugal in the Age of Atlantic Revolutions: The Luso-Brazilian World, c.1770–1850. Cambridge University Press. ISBN 978-1107640764.
- Pearson, Michael (1976). Merchants and Rulers in Gujarat: The Response to the Portuguese in the Sixteenth Century. University of California Press. ISBN 978-0520028098.
- Pearson, Michael (1987). The Portuguese in India. Cambridge University Press. ISBN 0-521-25713-1.[liên kết hỏng]
- Ponting, Clive (2000). World History: A New Perspective. Chatto & Windus. ISBN 0-7011-6834-X.
- Ricklefs, M.C. (1991). A History of Indonesia since c. 1300 (ấn bản thứ 2). London: MacMillan. ISBN 0-333-57689-6.
- Rodriguez, Junius P. (2007). Slavery in the United States: A Social, Political, and Historical Encyclopedia: Volume 2. ABC-CLIO. ISBN 978-1-85109-549-0.
- do Rosário Pimente, Maria (1995). Viagem ao fundo das consciências: a escravatura na época moderna. Edições Colibri. ISBN 972-8047-75-4.
- Russell-Wood, A.J.R. (1968). Fidalgos and Philanthropists: The Santa Casa da Misericórdia of Bahia, 1550–1755. University of California Press. ASIN B0006BWO3O.
- Russell-Wood, A.J.R. (1998). The Portuguese Empire 1415–1808. Johns Hopkins University Press. ISBN 0-8018-5955-7.
- Scammell, Geoffrey Vaughn (1997). The First Imperial Age, European Overseas Expansion c. 1400–1715. Routledge. ISBN 0-415-09085-7.
- Scarano, Julita (2009). MIGRAÇÃO SOB CONTRATO: A OPINIÃO DE EÇA DE QUEIROZ. Unesp- Ceru. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2017.
- Schwartz, Stuart B. (1973). Sovereignty and Society in Colonial Brazil: The High Court of Bahia and Its Judges, 1609–1751. University of California Press. ISBN 978-0520021952.
- Shastry, Bhagamandala Seetharama (2000). Goa-Kanara Portuguese Relations, 1498–1763. Concept Publishers. ISBN 978-8170228486.
- de Silva Jayasuriya, Shihan (2008). The Portuguese in the East: A Cultural History of a Maritime Trading Empire. I.B. Taurus. ISBN 978-1845115852.
- de Souza, Teotonio R. biên tập (1990). Goa Through the Ages: An Economic History, Issue 6 of Goa University publication series Volume 2. Concept Publishing Company. ISBN 81-7022-259-1.
- Stapleton, Timothy J. (2013). A Military History of Africa. ABC-CLIO. ISBN 978-0-313-39569-7.
- Subrahmanyam, Sanjay (2012). The Portuguese Empire in Asia, 1500–1700: A Political and Economic History (ấn bản thứ 2). Wiley-Blackwell. ISBN 978-1-118-27401-9.
- Thomas, Hugh (1997). The Slave Trade: The Story of the Atlantic Slave Trade: 1440–1870. Simon and Schuster. ISBN 978-0-684-83565-5. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2012.
- Thornton, John K. (2000). Warfare in Atlantic Africa, 1500–1800. Routledge. ISBN 978-1-135-36584-4.
- Treece, Dave (2000). Exiles, Allies, Rebels: Brazil's Indianist Movement, Indigenist Politics, and the Imperial Nation-State. Praeger. ISBN 978-1-85109-549-0.
- Velupillai, Viveka (2015). Pidgins, Creoles and Mixed Languages: An Introduction. John Benjamins. ISBN 978-1-85109-549-0.
- Wheeler, Douglas L. (1998). Republican Portugal: A Political History, 1910–1926. University of Wisconsin Press. ISBN 0-299-07450-1. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2012.
- White, Paula (2005). Bowman, John Stewart; Isserman, Maurice (biên tập). Exploration in the World of the Middle Ages, 500–1500. Facts on File, Inc. ISBN 3-87294-202-6.
- Whiteway, Richard Stephen (1899). The Rise of Portuguese Power in India, 1497–1550. Archibald Constable & Co.
- Yamashiro, José (1989). Choque Luso No Japão Dos Séculos XVI e XVII. Ibrasa. ISBN 1-74059-421-5.
Liên kết ngoài
sửaWikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Đế quốc Bồ Đào Nha. |
- Thời gian biểu Đế quốc Bồ Đào Nha
- Lịch sử thuộc địa Bồ Đào Nha Hà Lan Lịch sử thuộc địa Bồ Đào Nha Hà Lan: lịch sử của người Bồ Đào Nha và người Hà Lan tại Ceylon, Ấn Độ, Malacca, Bengal, Formosa, Châu Phi, Brasil. Di sản ngôn ngữ, danh sách hài cốt, bản đồ.
- "Trạng thái hiện tại của phương Tây: Có một mô tả chính xác về những phần nào được sở hữu bởi một số cường quốc ở châu Âu" bởi Thomas Kitchin
- Pháo đài của Quần đảo Spice của Indonesia
- Senaka Weeraratna, Đàn áp Phật giáo ở Sri Lanka bởi người Bồ Đào Nha (1505–1658)http://vgweb.org/unethicalconversion/port_rep.htm2005 Lưu trữ 2020-02-25 tại Wayback Machine