Liêu Thánh Tông (chữ Hán: 遼聖宗; 9711031), tên thật theo Hán danh là Long Tự (隆绪) và tên Khiết Đan là Văn Thù Nô (文殊奴), là vị Hoàng đế thứ sáu thuộc dòng họ Gia Luật (耶律氏) của nhà Liêu trong lịch sử Trung Quốc. Là con của Liêu Cảnh Tông, ông kế vị vua cha năm 982 khi mới 12 tuổi, nên mẹ ông là Thái hậu Tiêu Xước nắm thực quyền, và cai trị đất nước mạnh mẽ.

Liêu Thánh Tông
遼聖宗
Hoàng đế Trung Hoa
Hoàng đế nhà Liêu
Trị vì14 tháng 10 năm 98225 tháng 6 năm 1031
(48 năm, 254 ngày)
Tiền nhiệmLiêu Cảnh Tông
Kế nhiệmLiêu Hưng Tông
Thông tin chung
Sinh972
Mất1031 (58–59 tuổi)
An tángVĩnh Khánh lăng (永慶陵)
Tên thật
Gia Luật Long Tự (耶律隆绪)
Niên hiệu
  • Thống Hòa (統和: 983-1012)
  • Khai Thái (開泰: 1012-1021)
  • Thái Bình (太平: 1021-1031)
Thụy hiệu
Văn Vũ Đại Hiếu Tuyên hoàng đế (文武大孝宣皇帝)
Miếu hiệu
Thánh Tông (聖宗)
Triều đạiNhà Liêu
Thân phụLiêu Cảnh Tông
Thân mẫuTiêu Xước

Trong thời gian ông cai trị Liêu là một quốc gia hết sức hùng mạnh. Ông có đưa quân đi đánh nhà Tống và cuối cùng đã bắt Tống Chân Tông phải ký hòa ước Thiền Uyên.

Chinh phục Định An Quốc sửa

Liêu Thánh Tông kế vị cha mình là Liêu Cảnh Tông khi ông 12 tuổi vào năm 982.[1] Khi ông còn quá nhỏ để cai trị vào thời điểm đó, mẹ ông là Thái hậu Tiêu Xước trở thành người nhiếp chính. Tiêu thái hậu đổi tên nước trở lại là Đại Khiết Đan như cũ (tuy nhiên trên phương diện ngoại giao thì vẫn dùng tên nước là Đại Liêu), tiến hành một loạt cải cách, phát triển đất nước.

 
Định An Quốc

Khi đó hậu duệ của vương quốc Bột Hải (quốc gia kình địch của của nhà Liêu) là Định An Quốc (đời vua Ô Huyền Minh) vẫn đang tồn tại trong lãnh thổ cũ của vương quốc Bột Hải. Điều đó khiến cho nhà Liêu e ngại về việc người Bột Hải của quốc gia này sẽ gây họa phía sau cho họ.

Năm 985 Thái hậu Tiêu Xước phái quân Khiết Đan chinh phục Định An Quốc (đời vua Ô Huyền Minh). Tuy nhiên quân Khiết Đan đã bị quân Định An Quốc đánh bại. Không thể trừ khử mối đe dọa, nhà Liêu quyết định dựng nên ba pháo đài với quân đồn trú ở khu vực thung lũng sông Áp Lục.[2]

Biết được sức mạnh quân sự của nhà Tống (đời vua Tống Thái Tông) yếu hơn so với nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông) và thường thua trận trước họ, cùng năm 985, vua Ô Huyền Minh của Định An Quốc cử sứ giả đến Cao Ly (đời vua Cao Ly Thành Tông) và cầu cứu. Nhưng vua Cao Ly Thành Tông đã từ chối lời đề nghị đó và đã dùng vũ lực đuổi sứ giả Định An Quốc ra ngoài hoàng cung.

Tháng 12 năm 985 Thái hậu Tiêu Xước lại phái quân Khiết Đan chinh phục Định An Quốc (đời vua Ô Huyền Minh). Thành Phù Châu (nay là Khai Nguyên, Liêu Ninh, Trung Quốc), thành Hà Châu (nay là Hoa Điện, Cát Lâm, Trung Quốc) và thành Nô Châu (nay là Thông Hóa, Cát Lâm, Trung Quốc) của Định An Quốc nhanh chóng bị quân Khiết Đan đánh hạ.

Nhân dân Bột Hải trong lãnh thổ Định An Quốc đều không thần phục vua Ô Huyền Minh (do Ô Huyền Minh từng làm binh biến lớn cướp ngôi vua của vua Liệt Vạn Hoa vào 10 năm trước) nên họ đã quy hàng và dẫn dắt quân Khiết Đan công hạ kinh đô Tây Kinh (nay là Lâm Giang, Cát Lâm, Trung Quốc) của Định An Quốc. Kinh đô Tây Kinh thất thủ vào tháng 1 năm 986. Nhân dân Bột Hải dẫn quân Khiết Đan đi bắt vua Ô Huyền Minh. Định An Quốc bị sụp đổ và bị sáp nhập vào lãnh thổ nhà Liêu.

Năm 990, Liêu Thánh Tông đem một cô gái họ Tiêu (gọi là Tiêu thị) thuộc vương tộc Bột Hải (cháu gái của hoàng gia Bột Hải) gả cho em trai mình là Gia Luật Long Khánh (耶律隆庆). Sang năm 991, Tiêu thị đó đã hạ sinh Gia Luật Tông Giáo (991 - 1053). Gia Luật Tông Giáo trở thành một tướng Liêu mang hai dòng máu hoàng gia Bột Hải và hoàng gia Khiết Đan.[3]

Vương quốc Hậu Bột Hải của vương tộc họ Đại tại thành Hốt Hãn (nay là Ninh An, Hắc Long Giang, Trung Quốc) thuộc Long Tuyền phủ vẫn duy trì tồn tại cho đến tận năm 994 thì bị một thuộc tướng có nguồn gốc từ vương quốc Yên Pha tên là Ô Chiêu Đạc (烏昭度, Oh So-do) lật đổ, đổi quốc hiệu sang Ô Nha (올야, 兀惹, Olya). Kinh thành Hốt Hãn trở thành kinh thành Ô Xá của vương quốc Ô Nha. Sang năm 996, vương quốc Ô Nha (đời vua Ô Chiêu Đạc) trở thành quốc gia chư hầu của nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông). Sau đó vua Ô Chiêu Đạc mất, con là Ô Chiêu Khánh (烏昭慶, Oh So-gyeong) lên kế vị ngôi vua. Từ năm 1004 đến năm 1022 người Nữ Chân và người Thiết Lợi Mạt Hạt đã bắt bớ những người dân Bột Hải của vương quốc Ô Nha và cống nạp hết mình cho nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông), khiến cho vương quốc Ô Nha bị suy yếu nhanh chóng do thiếu con người làm việc, thiếu nhân lực lao động. Cùng năm 1022 vua Ô Chiêu Khánh mất, dòng họ Ô tiếp tục cai trị vương quốc Ô Nha cho đến năm 1114 thì bị bộ tộc Nữ Chân (đời thủ lĩnh Hoàn Nhan A Cốt Đả) tiêu diệt và bị sáp nhập vào bộ tộc Nữ Chân.

Giao tranh với Bắc Tống sửa

Năm Thống Hòa nguyên niên (982), Tiêu thái hậu lệnh 10 vạn quân Liêu tái xâm phạm Nhạn Môn Quan của nhà Tống. Quân Liêu bị phụ tử Dương NghiệpDương Diên Lãng đánh cho đại bại, lại còn bị họ chinh phạt khắp vùng Sơn Tây. Tiêu thái hậu buộc phải từ bỏ ý định nam xâm.

Năm Thống Hòa thứ 4 (986), vua Tống Thái Tông của nhà Tống thấy nhà Liêu có hoàng thượng nhỏ tuổi và thái hậu nhiếp chính, vì thế đã phái quân Bắc phạt vào kinh đô phía nam của triều đại Liêu (Bắc Kinh ngày nay) để thu phục Yên Vân thập lục châuThạch Kính Đường từng dâng cho người Khiết Đan khi xưa. Tháng 1, quân Tống phân làm 3 lộ để đến ba địa điểm chiến lược khác cách tiếp cận thủ đô phía Nam của nhà Liêu. Theo đó thì Đông lộ công U châu, Trung lộ công Uý châu, Tây lộ công Vân châu và Sóc châu; trong đó danh tướng Dương Nghiệp nằm trong Tây lộ. Thái hậu Tiêu Xước lệnh Gia Luật Hưu Ca thủ U châu, Gia Luật Tà Chẩn ngăn Trung lộ quân và Tây lộ quân của Tống, còn thái hậu Tiêu Xước cùng Liêu Thánh Tông đến trú trát tại Đà La Khẩu (nay thuộc Bắc Kinh) ứng phó.

Thoạt đầu, quân Tống giành được thắng lợi lớn, công hãm Kì Câu Quan, Cố An, Trác châu, còn Hoàn châu, Ứng châu, Sóc châu thì hàng Tống. Tuy nhiên, Thái hậu Tiêu Xước và Liêu Thánh Tống đã dẫn kỵ binh chi viện cho Gia Luật Hưu Ca, đánh bại Đông lộ quân của đại tướng Tống là Tào Bân (曹彬), quân Tống tử thương không đếm xuể. Tháng 7 năm 986, thái hậu Tiêu Xước lại lệnh cho Gia Luật Tà Chẩn phản kích Đông lộ quân và Trung lộ quân của Tống. Do Đông lộ quân thảm bại tại đèo Kì Câu nên chiến dịch của nhà Tống thực tế đã thất bại, vua Tống Thái Tông hạ lệnh toàn tuyến triệt thoái về nam.

Năm Thống Hòa thứ 6 (988), Hàn Đức Nhượng nhận chiếu đem quân đánh nhà Tống (đời vua Tống Thái Tông), vây Sa Đôi. Quân Tống nhân đêm tối đến tập kích, Hàn Đức Nhượng giữ nghiêm quân để đợi, sau đó đánh đuổi được quân Tống. Khi về, Hàn Đức Nhượng được Tiêu thái hậu phong làm Sở vương.

Tháng 9 nhuận năm Thống Hòa thứ 22 (1004), thái hậu Tiêu Xước ra yêu sách đòi lại vùng Quan Nam mà Hậu Chu Thế Tông đã từng thu phục, đem quân phạt Tống. Một cuộc xâm lược quy mô lớn của nhà Liêu đã diễn ra trên lãnh thổ của nhà Tống. Trừ việc bị ngăn cản tại Doanh châu, quân Liêu thế như chẻ tre, đến tháng 11 năm 1004 thì quân Liêu đã tiến đến Thiền Uyên - cửa ngõ của kinh đô Khai Phong của Tống. Quân Liêu cắm trại tại thị trấn Thiền Uyên, khoảng 100 dặm về phía bắc của thủ đô Khai Phong.

Vua Tống Chân Tông của nhà Tống lo sợ, muốn rời đô về phương nam, song do tể tướng Khấu Chuẩn kiên trì thuyết phục, Tống Chân Tông ngự giá thân chinh đến tiền tuyến Thiền Uyên, quân Tống thấy vậy thì phấn chấn. Đại tướng tiên phong của Liêu là Tiêu Thát Lẫm (蕭撻凜) khi xem xét địa hình đốc chiến ở tiền tuyến đã bị bắn vào đầu, đến tối thì chết. Sĩ khí của quân Liêu vì thế mà suy giảm, lại có quân Tống thâm nhập nên rất mệt mỏi, ngoài ra, quân Tống còn tấn công hậu lộ của quân Liêu.

Thái hậu Tiêu Xước liền tận dụng tâm lý muốn cầu hòa của vua Tống Chân Tông. Bà ta đã cùng triều đình nhà Tống đàm phán, ký kết hiệp ước Thiền Uyên chi minh vào giữa tháng 1 năm 1005, rồi cho quân Liêu triệt thoái về bắc. Sau đó, mỗi năm nhà Tống mỗi năm phải nộp cho nhà Liêu 10 vạn lượng bạc trắng, 20 vạn thất lụa để đổi lấy hòa bình. Việc thực hiện hiệp ước Thiền Uyên chi minh này vẫn được duy trì cho đến cuối triều đại nhà Liêu.

Năm Thống Hòa thứ 24 (1006), Liêu Thánh Tông xuất quần thần phong tôn hiệu cho thái hậu Tiêu Xước là Duệ Đức Thần Lược Ứng Vận Khải Hóa Pháp Đạo Hồng Nhân Thánh Vũ Khai Thống Thừa Thiên hoàng thái hậu (睿德神略應運啟化法道洪仁聖武開統承天皇太后). Năm Thống Hòa thứ 27 (1009), thái hậu Tiêu Xước quy chính cho Liêu Thánh Tông, không tiếp tục nhiếp chính nữa. Tháng 12 cùng năm 1009, thái hậu Tiêu Xước bệnh mất ở hành cung, hưởng thọ 57 tuổi. Năm sau (1010), thái hậu Tiêu Xước được táng ở Càn Lăng.

Chiến tranh với Cao Ly sửa

Chiến dịch năm 993 sửa

Việc nhà Liêu tiêu diệt Định An Quốc (đời vua Ô Huyền Minh) và sáp nhập Định An Quốc vào lãnh thổ nhà Liêu khiến Cao Ly (đời vua Cao Ly Thành Tông) lo lắng. Các hành động quân sự này của nhà Liêu diễn ra rất gần với lãnh thổ Cao Ly, cộng thêm nhà Liêu từng dự tính xâm lược vào Cao Ly năm 947 (song hủy bỏ), cùng quan hệ ngoại giao và văn hóa bền chặt giữa Cao Lynhà Tống, quan hệ nhà Liêu-Cao Ly do vậy cực kỳ kém. Cả nhà Liêu và Cao Ly đều nhìn nhận đối phương như một mối đe dọa quân sự; nhà Liêu sợ rằng Cao Ly sẽ cố gắng kích động các cuộc nổi loạn trong số cư dân Bột Hải sống tại lãnh thổ Liêu, trong khi Cao Ly lo sợ bị nhà Liêu xâm lược.

Năm 991 Thái hậu Tiêu Xước của nhà Liêu phái quân Khiết Đan tấn công người Nữ Chân ở hạ lưu sông Áp Lục. Khi đó nhà Liêu đã bắt đầu các cuộc tấn công chống lại Cao Ly (đời vua Cao Ly Thành Tông).

 
Bản đồ quân đội nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông) xâm lược Cao Ly (đời vua Cao Ly Thành Tông) từ tháng 11 đến tháng 12 năm 993.

Tháng 11 năm 993, Thái hậu Tiêu Xước phái quân Liêu xâm lược thành Pongsan, biên giới tây bắc của Cao Ly (đời vua Cao Ly Thành Tông) với khoảng 60.000 lính. Quân Cao Ly bị quân Liêu do Tiêu Tốn Ninh (蕭遜寧) chỉ huy liên tiếp đánh bại, pháo đài Heunghwa của Cao Ly cũng rơi vào tay quân Liêu và quân Cao Ly bị quân Liêu dồn xuống phía nam sông Đại Đồng. Các tướng lĩnh nhà Liêu tuyên bố rằng họ có 80 vạn quân,[4][5] yêu cầu Cao Ly nhượng cho nhà Liêu một số lãnh thổ quanh sông Áp Lục. Cao Ly Thành Tông kêu gọi đồng minh quân sự là nhà Tống (đời vua Tống Thái Tông) giúp đỡ, song không có sự hỗ trợ nào của nhà Tống đối với Cao Ly. Quân Liêu yêu cầu Cao Ly đầu hàng và dâng đất cho nhà Liêu. Quân Liêu tiến quân vững chắc về phía nam, đến khu vực sông Thanh Xuyên. Tại đây quân Liêu kêu gọi tiến hành các cuộc đàm phán giữa các lãnh đạo quân sự của hai bên Liêu và Cao Ly. Nhà Liêu thoạt đầu yêu cầu Cao Ly đầu hàng hoàn toàn. Sau một sự bế tắc quân sự,[6] các cuộc đàm phán bắt đầu giữa hai nước, đưa đến những nhượng bộ sau: Thứ nhất, Cao Ly chính thức chấm dứt mọi quan hệ với nhà Tống, đồng ý cống nạp cho nhà Liêu và dùng niên hiệu của nhà Liêu.[7][8][9]

Ban đầu, vua Cao Ly Thành Tông định chấp nhận dâng đất cầu hòa, nhường lãnh thổ phía bắc Bình Nhưỡng ngày nay cho nhà Liêu. Tuy nhiên, Từ Hi (Seo Hui) đã thuyết phục được vua Cao Ly Thành Tông nên ra sức chiến đấu.[10]

Quân Liêu tiến đánh Quy Châu (Gwiju). Quân Cao Ly ở đây nỗ lực chống trả đến cùng khiến quân Liêu phải chia quân bao vây Quy Châu và nam hạ tấn công thành An Nhung (Anyung). Tướng Liêu thống lĩnh cánh quân Liêu đi đánh An Nhung là Xiao Hengde.

Sau đó, hậu duệ của vương quốc Bột Hải là Trung lang tướng Đại Đạo Tú (con trai của thái tử Đại Quang Hiển, hậu duệ đời thứ 11 của Đại Dã Bột - đệ của Bột Hải Cao Vương) cùng Phó trung lang tướng Yu Bang đã lãnh đạo quân dân Cao Ly tại thành An Nhung (Anyung) đánh bại quân Liêu do Xiao Hengde chỉ huy.[11] Sau trận đánh thành An Nhung (Anyung), quân Liêu đã bị chặn lại. Từ Hi (Seo Hui) đã tình nguyện ra đàm phán trực tiếp với tướng Khiết Đan là Tiêu Tốn Ninh. Ông ta sang doanh trại quân Liêu, thuyết phục tướng Liêu rằng Cao Ly kế thừa Cao Câu Ly, điều đã được Tiêu thái hậu và người Khiết Đan chấp nhận. Quân Liêu đồng ý và rút lui. Cao Ly lấy lại được phần đất bị Liêu chiếm và vùng thượng du sông Áp Lục (lúc đó đang bị chiếm giữ bởi các bộ tộc Nữ Chân chuyên rắc rối cho nhà Liêu, với lý do rằng trong quá khứ vùng đất này thuộc về Cao Câu Ly)[12][13][14] được hợp nhất vào lãnh thổ Cao Ly.[10] Tuy nhiên Cao Ly trở thành chư hầu của nhà Liêu.[15]

Quân Khiết Đan rút lui vào tháng 12 năm 993 và nhượng lại lãnh thổ phía đông sông Áp Lục sau khi Cao Ly đồng ý chấm dứt liên minh với nhà Tống (đời vua Tống Thái Tông).

Năm 994, trao đổi ngoại giao theo thường lệ giữa nhà LiêuCao Ly được bắt đầu, còn mối quan hệ giữa Cao Lynhà Tống không thể ấm lên.[16]

Tuy nhiên, Cao Ly sau đó vẫn tiếp tục giao thiệp với nhà Tống cùng năm 994[17] và đã củng cố vị thế của mình bằng cách xây dựng Thiên Lý Trường Thành tại vùng lãnh thổ phía bắc mới giành được.[10][18]

Chiến dịch những năm 1010 - 1011 sửa

Năm 997 vua Cao Ly Thành Tông băng hà, Vương Tụng lên kế tức là vua Cao Ly Mục Tông và được nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông) chấp thuận.[19] Tuy nhiên sang năm 1009, Khang Triệu (Gang Jo), người mà Cao Ly Mục Tông đã nhờ cậy để tiêu diệt phản quân của Kim Trí Dương (Kim Chi–yang) nhưng sau đó ông ta đã giết luôn vua Cao Ly Mục Tông.[20] Vương Tuân được tướng Khang Triệu (Gang Jo) đưa lên ngai vàng vào năm 1009, tức là vua Cao Ly Hiển Tông. Khang Triệu đã thành lập nên chế độ cai trị Cao Ly bằng quân sự.[21]

 
Bản đồ quân đội nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông) xâm lược Cao Ly (đời vua Cao Ly Hiển Tông) năm 1010 - 1011.

Mùa thu năm 1010, tận dụng thời cơ triều đình Cao Ly đang có tranh giành quyền lực khi Khang Triệu (Gang Jo) vừa giết vua Cao Ly Mục Tông, quân Khiết Đan nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông) một lần nữa lại tấn công Cao Ly với lý do báo thù cho Cao Ly Mục Tông.[22][23] Theo nguồn tin của Cao Ly, 400.000 quân nhà Liêu do vua Liêu Thánh Tông thân chinh cầm quân đã xâm chiếm lãnh thổ Cao Ly. Hàn Đức Nhượng, Xiao BaiyaYelu Pennu đi theo tháp tùng Liêu Thánh Tông. Ngoài ra, nhà Liêu cũng tuyên bố có sáu thành trì ở phía đông sông Áp Lục, nơi Cao Ly tuyên bố là lãnh thổ của mình trong các cuộc đàm phán đình chiến từ năm 993, là thuộc về nhà Liêu và quân Liêu cần chiếm lại.

Quân Liêu tấn công lần đầu nhưng không chiếm được pháo đài của Huenghwa, nơi ba tướng Yang Kyu, Kim Suk-heungHa Kongchin cùng 3.000 quân Cao Ly trấn giữ. Sau 7 ngày chiến đấu mà không hạ nổi thành, Liêu Thánh Tông chia quân bao vây Huenghwa rồi đích thân dẫn đại quân Liêu nam hạ. Yang Kyu phái Ha Kongchin về kinh đô Khai Thành báo tin quân Liêu nam hạ. Quân Liêu lần lượt đánh chiếm Dongju, Gwakju, Anbukbu, An Nhung (Anyung), Mingju, Sukju và Jaju, sau đó tiến đến thành Seoyeong.

Khi đó tướng quân Đại Đạo Tú (khi đó đã hơn 70 tuổi, con trai của thái tử Đại Quang Hiển, hậu duệ dời thứ 11 của Đại Dã Bột - đệ của Bột Hải Cao Vương) đã chỉ huy quân Cao Ly phòng thủ thành Seoyeong trước sự tấn công vũ bão của quân Liêu. Đại Đạo Tú lên kế hoạch tấn công quân Liêu gần đó cùng với chỉ huy Cao LyTak Sachong. Tuy nhiên, khi thời cơ đến, Tak Sachong đã không gửi quân Cao Ly đến chi viện khiến cho quân đội của Đại Đạo Tú bị tổn thất và Đại Đạo Tú bị quân Khiết Đan bắt giữ.[24] Thành Seoyeong rơi vào tay quân Liêu. Không rõ kết cục sau này của Đại Đạo Tú. Người con trai của Đại Đạo TúĐại Hanh Nhân (대형인, 大亨仁, Dae Hyongin) cùng cháu nội của Đại Đạo TúĐại Hồng Duẫn (대홍윤, 大洪允, Dae Hongyun) tiếp tục sinh sống tại Cao Ly.[24] Tak Sachong dẫn đội quân Cao Ly của hắn chạy về kinh đô Khai Thành báo tin.

Quân Liêu nhanh chóng nam hạ tiến đánh đến Hoàng Châu - nơi Thiên Thu Vương thái hậu đang bị lưu đày. Thiên Thu Vương thái hậu đã lãnh đạo dân quân tại Hoàng Châu đứng lên chống trả lại quân Liêu rất ác liệt. Quân Cao Ly từ Haeju cũng đến Hoàng Châu chi viện cho Thiên Thu Vương thái hậu chống Liêu, nhưng do lực lượng mỏng hơn nên Thiên Thu Vương thái hậu phải rút lui khỏi Hoàng Châu. Quân Liêu chiếm đóng Hoàng Châu rồi tiếp tục nam hạ đến Tongju.

Quân Liêu cuối cùng cũng tiến đến thành phố Tongju của Cao Ly, nơi Khang Triệu (Gang Jo) và 30.000 quân Cao Ly đang chờ đợi. Khang Triệu mai phục trên một con đèo hẹp mà quân Liêu chắc chắn sẽ phải vượt qua. Tại đây, Khang Triệu đã trực tiếp dẫn quân tấn công ba cánh quân Liêu với ba cánh quân Cao Ly khi quân Liêu đến. Quân Liêu buộc phải rút lui và 10.000 quân Liêu đã chết trong cuộc phục kích này. Quân Liêu lại tấn công thành Tongju của Cao Ly nhưng phải chịu thất bại nhục nhã với thương vong nặng nề.

Chỉ huy quân Liêu đã phát động một cuộc tấn công khác vào thành phố Tongju, với mục tiêu chính là bắt sống Khang Triệu. Quân Liêu bị quân Cao Ly đánh bại lần thứ ba và buộc phải rút lui một lần nữa. Trong một nỗ lực cuối cùng, quân Liêu tấn công Tongju một lần nữa, nhưng lần này, Khang Triệu không trực tiếp dàn dựng cuộc tấn công mà thay vào đó chơi cờ vây với một trong những trung úy của mình vì nghĩ rằng chiến thắng là điều hiển nhiên. Cùng lúc đó, tướng quân Liêu là Yelu Pennu đã dẫn quân Liêu tấn công và chiếm pháo đài Sanshu của Cao Ly. Tuy nhiên, sau khi nghe nguồn tin Khang Triệu không hề có biện pháp nào để ngăn cản quân Liêu và một trong những người của Khang Triệu đã kể lại kế hoạch của ông ta cho quân đội nhà Liêu, quân Liêu đã xuyên thủng hàng phòng ngự của thành phố Tongju. Do quân Liêu mở cuộc tấn công bất ngờ, quân Cao Ly trong thành Tongju đã bị đánh bại. Cuối cùng 30.000 binh sĩ Cao Ly trong thành Tongju đã bị giết và Khang Triệu đã bị quân Liêu bắt sống.[25] Khang Triệu từ chối đầu hàng vua Liêu Thánh Tông nên đã bị vua Liêu hạ lệnh chém đầu vào ngày 24 tháng 11 âm lịch năm 1010 (tức là ngày 31 tháng 12 dương lịch năm 1010).[26]

Sau đó quân Liêu đánh chiếm Pyongju - cửa ngõ của kinh đô Khai Thành. Hai tướng Yang KyuKim Suk-heung dẫn quân Cao Ly từ pháo đài Huenghwa tiến về phía nam đánh bại quân Liêu đang đóng tại thành Gwakju, cắt đứt con đường rút lui của quân Liêu.

Quân Liêu tiếp tục nam hạ, rồi chiếm đóng và đốt cháy kinh đô Khai Thành (Kaesong) của Cao Ly.[27][28] Khương Hàm Tán (Gang Gam-chan) đã thúc giục vua Cao Ly Hiển Tông trốn khỏi cung điện Khai Thành (Kaesong), không đầu hàng quân Liêu xâm lược. Cao Ly Hiển Tông làm theo lời khuyên của Khương Hàm Tán và trốn thoát khỏi kinh đô đang bốc cháy. Liêu Thánh Tông dẫn đại quân Liêu liên tục đuổi theo nhằm bắt giữ Cao Ly Hiển Tông. Cao Ly Hiển Tông, Khương Hàm Tán, Tak SachongHa Kongchin cùng triều đình Cao Ly phải tản ra đi theo nhiều hướng khác nhau. Trong đó Cao Ly Hiển Tông đi cùng với Khương Hàm Tán.

Quân Liêu do Liêu Thánh Tông chỉ huy tiếp tục truy đuổi xuống tận phía nam và bắt được nhiều nhóm quan lại, tướng sĩ, cung nữ Cao Ly. Thiên Thu Vương thái hậu dẫn quân đội Cao Ly của mình chặn đánh quân Liêu và cứu được nhiều nhóm quan lại, tướng sĩ, cung nữ Cao Ly khỏi tay người Liêu. Sau đó quân Liêu bắt kịp toán quân của Cao Ly Hiển TôngKhương Hàm Tán tại Choongju. May mắn là Thiên Thu Vương thái hậu đã xuất hiện và cứu được Cao Ly Hiển Tông khỏi sự tấn công của người Liêu. Cao Ly Hiển Tông cùng Thiên Thu Vương thái hậuKhương Hàm Tán di chuyển sâu về phía nam đến tận thành Naju.[4]. Bất chấp thất bại này, Cao Ly Hiển Tông vẫn giữ được yêu sách của mình đối với sáu thành trì phía đông sông Áp Lục.

Hai tướng Yang KyuKim Suk-heung dẫn quân Cao Ly từ pháo đài Huenghwa tiếp tục đánh phá quân Liêu ở các vùng Murodae, Yisu, Sukryeong và Yeoircham, giải cứu các tù binh Cao Ly và quấy rối hậu phương quân Liêu để ép Liêu Thánh Tông dừng việc truy đuổi Cao Ly Hiển Tông.

Sau đó vua Cao Ly Hiển Tông hứa sẽ tái khẳng định mối quan hệ triều cống với nhà Liêu với điều kiện quân Liêu phải rút lui.[29] Một cuộc nổi dậy của nhân dân Cao Ly (trong đó có Thiên Thu Vương thái hậu tham gia) đã bắt đầu quấy rối lực lượng quân Liêu của vua Liêu Thánh Tông, Hàn Đức Nhượng, Xiao BaiyaYelu Pennu. Không thể thiết lập được chỗ đứng và tránh các cuộc phản công của quân Cao Ly đã tập hợp lại, quân Liêu của vua Liêu Thánh Tông, Hàn Đức Nhượng, Xiao BaiyaYelu Pennu đã rút lui vào năm 1011 khi không giành được lợi lộc gì to lớn, mặc khác cuộc xâm lược Cao Ly lần này đã khiến cho nhà Liêu lãng phí nguồn tài nguyên quý giá và làm giảm ngân khố quốc gia.[30]

Quân Liêu sau đó lại bị quân dân Cao Ly do Yang KyuKim Suk-heung chỉ huy tập kích hai lần trước khi về đến biên giới nhà Liêu. Nhiều tù binh Cao Ly tiếp tục được Yang KyuKim Suk-heung giải cứu khỏi tay quân Liêu. Tuy nhiên, ở lần tập kích thứ hai, Yang KyuKim Suk-heung đã cố gắng giết chết Liêu Thánh Tông nhưng không thành công khi các tướng Liêu đã đến giải cứu. Liêu Thánh Tông vẫn kinh hồn bạt vía dù đã thoát chết trong gang tấc. Yang KyuKim Suk-heung đều tử trận ở lần tập kích này.

Trên đường về thì Hàn Đức Nhượng mắc bệnh, Liêu Thánh Tông cùng hoàng hậu đích thân đến hầu việc thuốc men cho ông ta. Tuy nhiên Hàn Đức Nhượng đã không qua khỏi, hưởng thọ 71 tuổi. Liêu Thánh Tông phong tặng cho Hàn Đức Nhượng chức Thượng thư lệnh, thụy là Văn Trung, cấp vật dụng an táng và xây miếu cho ông ta ở bên Càn Lăng (lăng mộ của Tiêu thái hậu). Sau đó, Cao Ly Hiển Tông, Khương Hàm Tán, Tak SachongHa Kongchin cùng triều đình Cao Ly từ Naju quay về kinh đô Khai Thành.

Các chiến dịch nhỏ vào các năm 1015, 1016 và 1017 sửa

Sau đó, vua Cao Ly Hiển Tông cầu hòa nhưng hoàng đế nhà Liêu là Thánh Tông yêu cầu ông ta phải đích thân đến nhà Liêu triều cống và nhượng lại các khu vực biên giới trọng điểm (6 thành trì phía đông sông Áp Lục) cho nhà Liêu. Triều đình Cao Ly từ chối các yêu cầu của nhà Liêu, dẫn đến một thập kỷ thù địch giữa hai quốc gia. Trong thời gian đó cả hai bên đều củng cố biên giới để chuẩn bị cho chiến tranh.[27][30]

Liêu Thánh Tông đã phái quân Liêu liên tục tấn công vào 6 thành trì phía đông sông Áp Lục của Cao Ly (đời vua Cao Ly Hiển Tông) vào các năm 1015, 10161017, nhưng không thể đánh chiếm được 6 thành trì này của Cao Ly.[31]

Chiến dịch năm 1018 - 1019 sửa

 
Bản đồ quân đội nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông) xâm lược Cao Ly (đời vua Cao Ly Hiển Tông) năm 1018 - 1019.

Từ mùa hè năm 1018, nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông) đã xây dựng một cây cầu bắc qua sông Áp Lục để chuẩn bị xâm lược Cao Ly (đời vua Cao Ly Hiển Tông) lần nữa.

Vào tháng 12 năm 1018, 100.000 quân Liêu dưới sự chỉ huy của tướng quân Xiao Baiya đã vượt cầu vào lãnh thổ Cao Ly, nhưng gặp phải một cuộc phục kích của binh lính Cao Ly. Vua Cao Ly Hiển Tông đã nghe tin về cuộc xâm lược nên triệu tập bá quan thương nghị. Lần này, nhiều quan chức thúc giục Cao Ly Hiển Tông bắt đầu đàm phán hòa bình, vì thiệt hại từ Chiến tranh Cao Ly-Khiết Đan lần thứ hai (1010 - 1011) đã là quá lớn, đã khiến Cao Ly khó phục hồi. Tuy nhiên, Khương Hàm Tán (Gang Gam-chan) khuyên Cao Ly Hiển Tông nên tuyên chiến với quân Liêu, vì quân địch ít hơn nhiều so với những cuộc xâm lược trước. Khương Hàm Tán tình nguyện làm quyền Thứ trưởng Bộ chiến tranh trong suốt thời gian chiến tranh ở tuổi 71. Cao Ly Hiển Tông sau đó ra lệnh cho quân đội của mình chiến đấu chống lại quân xâm lược nhà Liêu. Tướng quân Khương Hàm Tán (Gang Gam-chan), người không có kinh nghiệm quân sự từ khi còn là quan chức chính phủ, đã trở thành chỉ huy của quân đội Cao Ly gồm khoảng 208.000 người (quân Liêu vẫn có lợi thế, thậm chí đông hơn 2 chọi 1, vì quân Liêu hầu hết đều được trang bị, trong khi người Cao Ly thì không), và tiến quân về phía sông Áp Lục. Tướng Kang Minchom đi theo phò tá cho Khương Hàm Tán.

Gần khu định cư Heunghwajin có một con suối nhỏ ở phía đông. Khương Hàm Tán ra lệnh xây đập ngăn chặn dòng suối cho đến khi quân Liêu bắt đầu vượt qua, và khi quân Liêu đi được nửa đường, Khương Hàm Tán ra lệnh phá hủy con đập để nước nhấn chìm phần lớn quân Liêu. Sau đó Khương Hàm Tán cùng Kang Minchom tấn công quân Liêu với 12.000 kỵ binh Cao Ly, bất ngờ bắt quân Liêu, gây tổn thất nặng nề và cắt đứt đường rút lui của quân Liêu.[32] Thiệt hại là rất lớn, nhưng quân Liêu do Xiao Baiya chỉ huy vẫn không từ bỏ chiến dịch của mình bất chấp việc luôn gặp phải những thách thức từ quân Cao Ly phòng thủ và điều kiện mùa đông ở phía tây bắc.

Quân Liêu vượt qua Seoyeong, tiến đến Hoàng Châu thì bị dân quân Cao Ly do Thiên Thu Vương thái hậu chỉ huy liên tục tập kích, quấy phá suốt ngày đêm. Nhờ quân số vượt trội nên quân Liêu của Xiao Baiya vẫn chiếm được Hoàng Châu. Thiên Thu Vương thái hậu chỉ huy dân quân Cao Ly rút về phía nam. Quân Liêu nam hạ chiếm Tongju rồi tiến tới kinh đô Khai Thành (Kaesong) của Cao Ly nhưng bị đánh bại bởi lực lượng Cao Ly do tướng Khương Hàm Tán chỉ huy.[32]

Khương Hàm TánKang Minchom sau đó đã cắt đứt nguồn cung cấp lương thực cho quân Liêu và cho quân tiến hành quấy rối họ không ngừng. Quân Liêu tiếp tục tiến về kinh đô Khai Thành nhưng gặp phải sự kháng cự gay gắt và các cuộc tấn công liên tục từ quân dân Cao Ly do Thiên Thu Vương thái hậu chỉ huy. Kiệt sức, tướng Liêu là Xiao Baiya nhận ra rằng nhiệm vụ không thể hoàn thành nên quyết định rút lui về phía bắc.[32] Sau khi theo dõi hướng di chuyển của quân Liêu, Khương Hàm Tán biết rằng quân Liêu sẽ rút khỏi cuộc chiến và đi ngang Quy Châu (Gwiju). Do đó Khương Hàm TánKang Minchom đã dàn quân chờ đợi quân Liêu của Xiao Baiya tại pháo đài Quy Châu (Gwiju), nơi ông ta đã chạm trán lớn với quân Liêu đang rút lui vào ngày 10 tháng 3 năm 1019. Nản lòng và đói khát, quân Liêu bị quân Cao Ly đánh bại. Quân đội Cao Ly của Khương Hàm TánKang Minchom tiêu diệt gần hết 90.000 quân Liêu trong trận Quy Châu này.[32] Nhiều người khác bị quân Cao Ly bắt sau khi đầu hàng dọc theo bờ sông. Chỉ có tướng Xiao Baiya và vài nghìn quân Liêu còn lại may mán sống sót và thoát khỏi thất bại nặng nề ở Quy Châu.[33]

Quân Liêu đầu hàng Cao Ly được chia ra các tỉnh Cao Ly và định cư trong các cộng đồng biệt lập và được canh gác. Những tù nhân này được đánh giá cao nhờ kỹ năng săn bắn, giết mổ, lột da và thuộc da. Trong vài thế kỷ tiếp theo, họ phát triển thành tầng lớp Bạch Đinh (백정, 白丁, Baekjeong, nghĩa là "những người bán thịt, những tên đồ tể"), tầng lớp thấp nhất của người dân Cao Ly.

Năm 1020, Liêu Thánh Tông đã tập hợp một đội quân Liêu lớn khác để chuẩn bị tiến hành một cuộc xâm lược khác vào Cao Ly (đời vua Cao Ly Hiển Tông).[34]

Tuy nhiên, hiểu được khó khăn để đạt được thắng lợi quyết định, hai nước LiêuCao Ly đã ký hiệp ước hòa bình vào năm 1022. Cao Ly và Liêu đạt được thỏa thuận hòa bình qua thương lượng và thiết lập quan hệ bình thường. Nhà Liêu không bao giờ xâm lược Cao Ly nữa. Cả nhà LiêuCao Ly đều bước vào một thời kỳ hòa bình và văn hóa đạt đến đỉnh cao.

Bình định Hưng Liêu sửa

 
Bản đồ Hưng Liêu đế quốc năm 1029

Khoảng năm 1007, hậu duệ đời thứ 7 của Bột Hải Cao VươngĐại Diên Lâm (Dae Yeon-rim) gia nhập quân đội nhà Liêu và được nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông) phong tướng và giao quản lý các phủ miền Trung của nhà Liêu. Trong khi phục tùng với cương vị một tướng của nhà Liêu, Đại Diên Lâm đã mơ tưởng về việc tái lập hào quang của vương quốc Bột Hải trước đây, và bắt đầu tập hợp những người có nguồn gốc Bột Hải.

Năm 1029, Đại Diên Lâm (khi đó đã hơn 40 tuổi) chỉ huy quân dân Bột Hải đánh chiếm thành Đông Kinh (nay là Liêu Dương, Liêu Ninh, Trung Quốc) làm căn cứ chính. Sau đó Đại Diên Lâm chia quân cho các tướng đi đánh chiếm 50 châu ở bán đảo Liêu Đông của nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông). Cuối cùng Đại Diên Lâm đã lập nên Hưng Liêu đế quốc trong năm 1029 tại bán đảo Liêu Đông, khu vực phía tây của lãnh thổ vương quốc Bột Hải trước đó.

Đại Diên Lâm tự xưng là Thiên Hưng hoàng đế, đặt quốc hiệu là Hưng Liêu quốc, chọn niên hiệu là "Thiên Khánh", định đô tại Đông Kinh (nay là Liêu Dương, Liêu Ninh, Trung Quốc). Vua Cao Ly Hiển Tông của Cao Ly cũng phái sứ giả sang kết minh với Hưng Liêu của Đại Diên Lâm để cùng chống lại nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông).

Hưng Liêu của Thiên Hưng hoàng đế Đại Diên Lâm đã giành được sự chú ý của nhiều người Bột Hải, và phát triển cho đến năm 1030, khi nhà Liêu (đời vua Liêu Thánh Tông) đã cử một đội quân đến chinh phục quốc gia này. Liên tục bị quân Liêu đánh bại, 50 châu của Hưng Liêu đế quốcbán đảo Liêu Đông đều lần lượt rơi vào tay quân Liêu. Hưng Liêu đế quốc của Thiên Hưng hoàng đế Đại Diên Lâm chỉ còn kinh đô Đông Kinh. Quân Liêu tiến hành bao vây Đông Kinh. Quân Hưng Liêu của Thiên Hưng hoàng đế Đại Diên Lâm trong thành Đông Kinh tiếp tục giao tranh kịch liệt với quân Liêu.

Sự sụp đổ của Hưng Liêu đế quốc là một việc rất bi kịch, do một kẻ phản bội, người là phó lãnh đạo của chính Đại Diên Lâm. Khi nhà Liêu xâm lược và cố gắng chinh phục đế quốc, trong tất cả cửa thành của kinh đô Đông Kinh chỉ còn một cửa là đứng vững. Nhưng cửa thành cuối cùng đó cũng đã bị mở từ bên trong bởi người phó tướng này của Đại Diên Lâm. Quân Liêu ồ ạt tràn vào Đông Kinh nước thác lũ và cuối cùng đã dẫn đến sự sụp đổ của một đế quốc Hưng Liêu ngắn ngủi.

Sau chỉ một năm tồn tại, Hưng Liêu đế quốc của Đại Diên Lâm đã sụp đổ dưới tay chính phó tướng của ông. Thiên Hưng hoàng đế Đại Diên Lâm bị nhà Liêu bắt và bị xử tử, hưởng thọ 43 tuổi.

Lịch sử không còn rõ số phận của các tướng trung thành với Đại Diên Lâm. Sau đó, vua Cao Ly Hiển Tông của Cao Ly thấy vậy đã xưng thần nạp cống với người Khiết Đan nhà Liêu.

Giáo dục sửa

Thánh Tông cũng thể chế hóa các kỳ thi tuyển chọn quan lại của nhà nước, được thực hiện vào năm 988, dựa trên các mô hình được sử dụng bởi các triều đại nhà Đường và nhà Tống do người Hán đứng đầu. Mặc dù tầm quan trọng của sự trở lại của hệ thống thi cử, ban đầu nó chỉ mở đường cho một số lượng rất nhỏ, vì ban đầu chỉ có ba đến năm người được trao giải, và con số chỉ tăng lên từ 30 đến 130 ứng viên vượt qua kỳ thi ba năm một lần vào năm 1014.

Truyền bá Phật Giáo sửa

Thánh Tông bắt đầu tích cực bảo trợ Phật giáo, xây dựng lại các ngôi chùa. Trong vòng một thế kỷ trị vì của ông, ước tính có khoảng 10% dân số Liêu là tăng ni hoặc tu sĩ Phật giáo, mặc dù con số này có thể đã được phóng đại. Trong khi người Khiết Đan không kết hợp Phật giáo với người Trung Quốc vì nó được coi là một tôn giáo của người Duy Ngô Nhĩ và do đó không phải là tôn giáo của người Trung Quốc, những người mà họ coi là thấp kém, điều không rõ ràng là mức độ mà Phật giáo thâm nhập vào dân cư Khiết Đan, vì phần lớn các đền thờ Phật giáo nằm ở phần phía nam của các lãnh thổ Liêu là nơi phần lớn dân số Trung Quốc ít vận động cư trú.

Đổi mới sửa

Dưới thời cai trị của Thánh Tông, triều đại Liêu đã tiến hành cải cách phong kiến, thúc đẩy nền kinh tế. Trước đó, triều đại Liêu phụ thuộc vào sự mở rộng lãnh thổ, chế độ nô lệ và nạn trộm cắp. Dưới sự cai trị của Thánh Tông hầu hết nô lệ đều được giải phóng, trở thành thành viên bình thường của xã hội. Các bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế từ đó trở đi là chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi ngựa và cừu, cũng như nông nghiệp và đánh cá. Dưới thời trị vì của Thánh Tông triều đại Liêu được hưởng thái bình và thịnh vượng, vì vậy người ta ca ngợi rằng triều đại của Thánh Tông là một thời kỳ hoàng kim của triều đại Liêu.

Qua đời sửa

Ông băng hà năm Thái Bình thứ 10 (1031). Hoàng tộc chọn Miếu hiệuThánh Tông (聖宗),Thụy hiệu Văn Vũ Đại Hiếu Tuyên hoàng đế (文武大孝宣皇帝). Thọ 59 tuổi, táng tại lăng Vĩnh Khánh (永慶陵), con ông Gia Luật Tông Chân kế vị.

Gia quyến sửa

Thê thiếp sửa

Hoàng hậu sửa

  • Tiêu thị , nguyên là Hoàng hậu đầu tiên , sau bị phế truất thành Phi vì tính tình ác độc.
  • Tiêu Bồ Tát Ca (983-1032) , Hoàng hậu thứ hai , tấn phong ngày 15 tháng 5 năm Thông Hà thứ 19 (1001) , sinh hai con trai chết yểu , nhận nuôi Hưng Tông , bị Hoàng hậu Tiêu Nậu Cân (萧耨斤) hại chết trong chuyến đi săn vào mùa xuân của Hưng Tông. Năm 1052 truy thụy Nhân Đức Hoàng hậu.
  • Tiêu Nậu Cân (蕭耨斤, ?-1057) , nhập cung làm cung nữ , sinh hai gái hai trai bao gồm Liêu Hưng Tông. Hưng Tông đăng cơ , được tôn làm Thái hậu , năm 1034 bàn bạc quyền thần muốn tấn lập con út làm Hoàng đế , Hưng Tông băng không mảy may đau buồn. Năm 1054 được dâng tôn hiệu Nhân Tư Thánh Thiện Khâm Hiếu Khoát Đức An Tĩnh Trinh Thuần Ý Hòa Khoan Hậu Sùng Giác Nghi Thiền Hoàng hậu (仁慈聖善欽孝廣德安靜貞純懿和寬厚崇覺儀天皇太后) , hay Khâm Ai Hoàng hậu.

Phi tần sửa

  • Tiêu Quý phi , trưởng nữ của Tiêu Bài Áp (萧排押) , sinh được hai gái một trai. Năm 985 nhập cung , năm 991 sách phong Quý phi , hai năm sau qua đời.
  • Tiêu thị (?-1017) , nguyên vị Đức phi , ban tử năm Khai Thái thứ sáu (1017).
  • Khương Thục nghi
  • Cảnh Thục nghi , sinh lục tử
  • Mã Lệ nghi
  • Bạch Chiêu nghi , nguyên là Thượng tẩm (尚寢) , nghi là cùng một người với Mã Lệ nghi
  • Lý Thuận nghi , nguyên là Thượng phục (尚服)
  • Nghệ Phương nghi , nguyên là Thượng công (尚功)
  • Tôn Hòa nghi , nguyên là Thượng thư (尚书)
  • Bộc Ngôi thị
  • Tiêu thị , con gái của thúc phụ Thánh Tông
  • Tiêu thị , sinh lục nữ
  • Mã thị , sinh thất nữ
  • Bạch thị , sinh bốn con gái
  • Lý thị , sinh thập tam nữ
  • Nghệ thị , sinh thập tứ nữ
  • Lý Phương nghi (?) , con gái của Nam Đường Nguyên Tông , tính xác thực chưa rõ.

Con cái sửa

Hoàng tử sửa

  • Gia Luật Phật Bảo Nô (989-?) , trưởng tử , có thể là chết yểu nên không được tính thứ tự , không rõ mẹ.
  • Hai con trai chết yểu của Nhân Đức Hoàng hậu.
  • Liêu Hưng Tông , trưởng tử trên danh nghĩa mẹ là Khâm Ai Hoàng hậu.
  • Gia Luật Chúc Tư (耶律属思 , 1017-?) , không rõ mẹ , được Thánh Tông ân xá , ngoài ra không có ghi chép.
  • Gia Luật Trung Nguyên (1021-1063) , nhị tử , còn được gọi là Bột Cát Chỉ (孛吉只) , mẹ là Khâm Ai Hoàng hậu , tiến hành nổi dậy năm 1063 nhưng thất bại , sau đó chạy trốn đến sa mạc rồi tự sát.
  • Tam tử , Gia Luật Tôn Giản , không rõ mẹ
  • Tứ tử , Gia Luật Tôn Huấn , mẹ là Bộc Ngôi thị.
  • Ngũ tử , Gia Luật Tôn Vĩ , mẹ là Bộc Ngôi thị.
  • Lục tử , Gia Luật Tôn Nguyện (1018/1019 -?) , mẹ là Cảnh Thục nghi.

Con gái sửa

  • Trưởng nữ , Gia Luật Yên Ca , mẹ là Tiêu Quý phi. Sơ phong Tùy quốc công chúa rồi Tần quốc công chúa rồi Lương quốc công chúa. Hạ giá Tiêu Thiệu Tôn (萧绍宗) , sinh năm trai sáu gái , trong đó con gái lớn là Tiêu Tam Thiến Hoàng hậu của Liêu Hưng Tông.
  • Nhị nữ , Gia Luật Nam Mô Cần , mẹ là Tiêu Nậu Cân Hoàng hậu. Sơ phong Ngụy quốc công chúa rồi Tần quốc Trưởng công chúa.
  • Tam nữ , Gia Luật Sáo Cổ , mẹ là Tiêu Nậu Cân Hoàng hậu. Sơ phong Việt quốc công chúa , Tấn quốc công chúa rồi Thục quốc Trưởng công chúa. Hạ giá Tiêu Hiếu Trung (蕭孝忠) , có con gái là Tuyên Ý Hoàng hậu của Liêu Đạo Tông.
  • Tứ nữ , Gia Luật Thôi Bát (?-1030) , mẹ là Tiêu thị. Phong hiệu Nam Dương công chúa , hạ giá Tiêu Hiếu Tiên (萧孝先). Đại Diên Lâm , hậu duệ Bột Hải vương nổi dậy , tự xưng là Thiên Thanh Hoàng đế , Công chúa và phu quân bị giết.
  • Ngũ nữ , Gia Luật Dao Ca , mẹ là Tiêu thị. Phong hiệu Trường Ninh công chúa , hạ giá Tiêu Dương Lục (萧杨六). Đại Diên Lâm , hậu duệ Bột Hải vương nổi dậy , tự xưng là Thiên Thanh Hoàng đế , Công chúa và phu quân bị giết.
  • Lục nữ , Gia Luật Điền Nặc , mẹ là Tiêu thị. Phong hiệu Bình Nguyên quận chúa rồi Kinh quốc công chúa , hạ giá Tiêu Song Cổ (萧双古) , con trai của Tiêu Đồ Ngọc (萧图玉),
  • Thất nữ , Gia Luật Cưu Ca , mẹ là Mã thị. Phong hiệu Tầm Dương công chúa , hạ gia Tiêu Liên (萧琏).
  • Bát nữ , Gia Luật Trường Thọ , mẹ là Thái thị. Phong hiệu Lâm Hải quận chúa rồi Lâm Hải công chúa , ban đầu hạ giá Thái Lực Thu (大力秋) , sau do Thái Lực Thu liên quan đến sự biến Đại Diên Lâm nên bị giết , công chúa cải giá với Tiêu Cổ (萧古).
  • Cửu nữ , Gia Luật Thập Ca , mẹ là Bạch thị. Phong hiệu Tam Hà quận chúa rồi Tam Hà công chúa , hạ giá Tiêu Cao Cửu (萧高九).
  • Thập nữ , Gia Luật Bát Kha , mẹ là Bạch thị. Phong hiệu Đồng Xương huyện chúa rồi Đồng Xương công chúa , hạ giá Lưu Tam Hỗ (刘三嘏) , con trai Lưu Thận Hành (刘慎行). Lưu Tam Hỗ sống với Công chúa không hòa hợp đã trốn sang nhà Tống vào thời Tống Chân Tông , song bị nhà Tống đuổi về , bị cầm tù rồi xử tử.
  • Thập nhất nữ , Gia Luật Bài Thất , mẹ là Bạch thị. Phong hiệu Nhân Thọ huyện chúa rồi Nhân Thọ công chúa , hạ giá Lưu Tứ Đoan (劉四端).
  • Thập nhị nữ , Gia Luật Thái Ca , mẹ là Bạch thị. Hạ giá Tiêu Hốt Liệt (萧忽烈) , không rõ phong hiệu.
  • Thập tam nữ , Gia Luật Trại Ca , mẹ là Lý thị. Phong hiệu Kim Hương quận chúa rồi Kim Hương công chúa , hạ giá Tiêu Đồ Ngọc (萧图玉). Tháng hai năm Khai Thái thứ sáu (1017) , công chúa đánh chết cung nữ vô tội , giáng làm Quận chúa , giam lỏng tới chết.
  • Thập tứ nữ , Gia Luật Hưng Ca , mẹ là Nghệ thị. Hạ giá Tiêu Vương Lục (萧王六) , chỉ huy quân đội Nam Kinh , không rõ phong hiệu.



Tham khảo sửa

  1. ^ Liêu sử, quyển 9
  2. ^ Twitchett and Tietze (1994), 102.
  3. ^ Theo văn bia trên mộ của Gia Luật Tông Giáo.
  4. ^ a b Nahm 1988, p. 89.
  5. ^ Twitchett & Tietze 1994, p. 103.
  6. ^ Twitchett, Denis C.; Franke, Herbert; Fairbank, John King (1978). The Cambridge History of China: Volume 6, Alien Regimes and Border States, 907-1368 (bằng tiếng Anh). Cambridge University Press. tr. 103. ISBN 9780521243315. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2016.
  7. ^ Ebrey & Walthall 2014, [1], tr. 171, tại Google Books
    Liao forces invaded Goryeo territory in 993. Instead of pushing for total victory, the Khitans negotiated a peace that forced Goryeo to adopt the Liao calendar and end tributary relations with Song (a violation of King Taejo's testamentary injunction never to make peace with the Khitan)."
  8. ^ Hyun 2013, p. 106: "the Khitan army attacked Goryeo, who was forced to accept the status of a Liao tributary in 994."
  9. ^ Twitchett & Tietze 1994, p.103: "The Korean king was invested with his title by the Liao emperor."
  10. ^ a b c Lee, Peter H; Baker, Donald; Ch'oe, Yongho; Kang, Hugh H W; Kim, Han-Kyo biên tập (1997). “Sŏ Hŭi: Arguments on War [from Koryŏ sa chŏryo 2:49b-52b]”. Sourcebook of Korean Civilization. 1. New York: Columbia University Press. tr. 298–301.
  11. ^ Lee, Peter H. (1993). Sourcebook of Korean civilization. 1: From early times to the sixteenth century (ấn bản 1). New York: Columbia University Press. tr. 299. ISBN 978-0231079129.
  12. ^ Kim, Djun Kil (30 tháng 5 năm 2014). The History of Korea, 2nd Edition (bằng tiếng Anh). ABC-CLIO. tr. 66. ISBN 9781610695824. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2016.
  13. ^ Yun 1998, p.64: "By the end of the negotiation, Sô Hûi had ... ostensibly for the purpose of securing safe diplomatic passage, obtained an explicit Khitan consent to incorporate the land between the Ch'ôngch'ôn and Amnok Rivers into Koryô territory."
  14. ^ Twitchett & Tietze 1994, p.102: "Until the 980s Khitan-Koryǒ relations had been at arm's length, for the Jurchen tribes and Ting-an had provided a buffer zone between Koryǒ's northern frontier and the Liao border". p.103: "Koryǒ was left free to deal with the Jurchen tribes south of the Yalu Valley".
  15. ^ Twitchett and Tietze (1994), 103.
  16. ^ Twitchett and Tietze (1994), 103-104.
  17. ^ Hyun 2013, p.106: "Even though the Goryeo court agreed to set up tribute exchanges with the Liao court, that same year [=994] it also sent an envoy to the Song court to appeal, but in vain, for military assistance against the Khitan."
  18. ^ Twitchett & Tietze 1994, p.103.
  19. ^ Twitchett & Tietze 1994, p.104.
  20. ^ Hyun 2013, p. 191.
  21. ^ Bowman 2000, p. 203: "Fearful of plots against him, Mokchong summons Kang Cho from his administrative post in the northwest. However, Kang Cho himself engineers a successful coup in which Mokchong is assassinated."
  22. ^ Bowman 2000, p. 203: "Liao initiates a fresh attack on Koryo's northern border with the ostensible purpose of avenging the murdered Mokchong."
  23. ^ Ebrey & Walthall 2014, [2], tr. 171, tại Google Books
    "In 1010, on the pretext that the rightful king had been deposed without the approval of the Liao court, the Khitan emperor personally led an attack that culminated in the burning of the Goryeo capital."
  24. ^ a b “대도수(大道秀)”. Encyclopedia of Korean Culture (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2023.
  25. ^ “한국사데이터베이스”. db.history.go.kr. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2018.
  26. ^ Twitchett & Tietze 1994, p. 111.
  27. ^ a b Simons 1995, p. 93: "a second Liao incursion resulted in heavy losses, the sacking of Kaesong, and the imposition of Liao suzerainty over the Koryo state." p. 95: "a prelude to more invasions during the reign of King Hyonjong (1010-1031) and the occupation of Kaesong, the Koryo capital."
  28. ^ Hatada, Smith Jr & Hazard 1969, p. 52: "in the reign of King Hyŏnjong (1010-1031) there were numerous Khitan invasions, and even the capital Kaesŏng was occupied."
  29. ^ Simons 1995, p. 93: "a second Liao incursion resulted in heavy losses, the sacking of Kaesong, and the imposition of Liao suzerainty over the Koryo state."
  30. ^ a b Twitchett, Denis C.; Franke, Herbert; Fairbank, John King (1978). The Cambridge History of China: Volume 6, Alien Regimes and Border States, 907-1368 (bằng tiếng Anh). Cambridge University Press. tr. 111. ISBN 9780521243315. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2016.
  31. ^ Twitchett, Denis C.; Franke, Herbert; Fairbank, John King (1978). The Cambridge History of China: Volume 6, Alien Regimes and Border States, 907-1368 (bằng tiếng Anh). Cambridge University Press. tr. 111. ISBN 9780521243315. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2016. From 1015 to 1019 there was incessant warfare, with attacks on Koryŏ in 1015, 1016, and 1017 in which victory went sometimes to Koryŏ, sometimes to the Khitan, but in sum were indecisive.
  32. ^ a b c d Twitchett, Denis C.; Franke, Herbert; Fairbank, John King (1978). The Cambridge History of China: Volume 6, Alien Regimes and Border States, 907-1368 (bằng tiếng Anh). Cambridge University Press. tr. 111–112. ISBN 9780521243315. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2016. In 1018 a huge new expeditionary force was mobilized by the Khitan and placed under the command of Hsiao P'ai-ya. The army crossed the Yalu late in 1018 but was ambushed by a superior Koryŏ force, suffering severe losses. The Koryŏ army had also cut their line of retreat, and so Hsiao P'ai-ya marched south, planning to take the capital Kaegyŏng, as in 1011. But this time the Koreans had prepared defenses around the capital, and the Khitan, constantly harried by Korean attacks, were forced to retreat toward the Yalu. At Kuju, between the Ch'a and T'o rivers, they were encircled and attacked by the main Koryŏ forces, which almost annihilated the Khitan army. Only a few thousand men managed to return to the Liao border. This was by far the worst defeat suffered by the Khitan during Sheng-tsung's reign, and in consequence Hsiao P'ai-ya was stripped of all his titles and offices and disgraced.
  33. ^ Twitchett & Tietze 1994, p. 112.
  34. ^ Twitchett & Tietze 1994, p.112.