Cổng thông tin:Nghệ thuật/Bài viết/Lưu trữ/3

Trang trước | Trang 3/9 | Trang sau

Vincent van Gogh

 

Vincent Willem van Gogh (30 tháng 3 năm 1853 – 29 tháng 7 năm 1890) là một họa sĩ hậu ấn tượng người Hà Lan, được đánh giá là một trong những nhân vật nổi tiếng và có ảnh hưởng nhất trong lịch sử nghệ thuật phương Tây. Trong một thập kỷ, ông đã sáng tạo ra khoảng 2.100 tác phẩm nghệ thuật, bao gồm khoảng 860 bức tranh sơn dầu, hầu hết đều được vẽ trong khoảng thời gian hai năm cuối đời. Chúng bao gồm tranh phong cảnh, tĩnh vật, chân dungchân dung tự họa, đặc trưng bởi tông màu đậm và nét vẽ ấn tượng, bốc đồng và biểu cảm đã góp phần tạo nên nền tảng của nghệ thuật hiện đại. Van Gogh không thành công về mặt thương mại, và việc ông tự sát ở tuổi 37 diễn ra sau nhiều năm vật lộn với trầm cảm và nghèo đói.

Sinh ra trong một gia đình trung lưu, Van Gogh từ nhỏ đã bắt đầu học vẽ, ông vốn nghiêm túc, ít nói và hay suy nghĩ. Khi còn trẻ, ông làm việc như một nhà kinh doanh nghệ thuật, thường xuyên di chuyển khắp nơi, nhưng đã bị trầm cảm sau khi chuyển đến London. Ông dành thời gian làm nhà truyền giáo Tin lành ở miền nam nước Bỉ. Ông sống trong tình trạng sức khỏe tồi tệ và cô độc trước khi bắt đầu vẽ tranh vào năm 1881, sau khi trở về nhà với cha mẹ. Người em trai Theo đã hỗ trợ ông về mặt tài chính, và hai người liên lạc với nhau bằng thư từ. Các tác phẩm ban đầu của ông, chủ yếu là tranh tĩnh vật và mô tả những người nông dân lao động, có rất ít dấu hiệu về màu sắc sặc sỡ giúp phân biệt với tác phẩm sau này của ông. Năm 1886, ông chuyển đến Paris, tại đây ông được gặp nhiều danh họa Hậu ấn tượng khác, bao gồm Émile BernardPaul Gauguin. Khi công việc phát triển, ông đã tạo ra một cách tiếp cận mới đối với tranh tĩnh vật và cảnh quan địa phương. Các bức họa của Van Gogh ngày càng trở nên tươi sáng hơn khi ông phát triển một phong cách đã được hiện thực hóa hoàn toàn trong thời gian ở Arles, miền nam nước Pháp vào năm 1888. Trong giai đoạn này, ông mở rộng chủ đề bao gồm cây ô liu, cánh đồng lúa mìhoa hướng dương.

Ukiyo-e

 

Ukiyo-e là một trường phái hội họa phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ XVII tới thế kỷ XIX tại Nhật Bản. Các nghệ sĩ thể loại hội họa này sản xuất các bản intranh in mộc bản của các đối tượng như những thiếu nữ đẹp; diễn viên kabuki và đô vật sumo; các cảnh trích từ những câu chuyện lịch sử và dân gian; cảnh đẹp du ngoạn và phong cảnh khắp nơi; thực vật và động vật; và kể cả nội dung khiêu dâm. Thuật ngữ ukiyo-e dịch ra có nghĩa là "những bức tranh của thế giới hư ảo".

Edo trở thành nơi đặt trụ sở của chính quyền chế độ độc tài quân sự vào đầu thế kỷ 17. Tầng lớp thương nhân - vốn nằm ở dưới cùng của trật tự xã hội - được hưởng lợi nhiều nhất từ sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của thành phố. Nhiều người mê đắm trong thế giới lạc thú của nhà hát kabuki, kỹ nữ hạng sanggeisha của những khu phố lầu xanh. Thuật ngữ ukiyo xuất hiện để mô tả lối sống hưởng lạc này. Các bức tranh ukiyo-e được in hoặc vẽ ra của môi trường này xuất hiện vào cuối thế kỷ 17, và trở nên phổ biến với tầng lớp thương nhân, những người đã trở nên đủ giàu có để đủ khả năng sử dụng những bức tranh nhằm mục đích trang trí nhà cửa của mình.

Nhà hát Lớn Hà Nội

 

Nhà hát Lớn Hà Nội là một công trình kiến trúc tại thành phố Hà Nội, Việt Nam, phục vụ biểu diễn nghệ thuật. Nhà hát tọa lạc trên quảng trường Cách mạng tháng Tám, vị trí ở số 1A phố Tràng Tiền, phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, không xa hồ Hoàn KiếmBảo tàng Lịch sử Việt Nam, cạnh khách sạn Hilton Hanoi Opera, nhìn ra các vườn hoa Nhà hát Lớn và vườn hoa 19-8. Công trình được người Pháp khởi công xây dựng năm 1901 và hoàn thành năm 1911, theo mẫu Nhà hát Opéra GarnierParis nhưng mang tầm vóc nhỏ hơn và sử dụng các vật liệu phù hợp với điều kiện khí hậu địa phương. Tác phẩm của hai kiến trúc sư Harlay và Broyer mang nhiều màu sắc, đường nét kiến trúc của các nhà hát ở miền Nam nước Pháp, có cách tổ chức mặt bằng, không gian biểu diễn, cầu thang, lối vào sảnh... giống với các nhà hát ở châu Âu đầu thế kỷ 20. Mặc dù là một công trình kiến trúc mang tính chiết trung, được pha trộn nhiều phong cách, nhưng Nhà hát Lớn Hà Nội vẫn mang đậm dáng vẻ Tân cổ điển Pháp, đặc biệt ở kết cấu kiến trúc, kiểu mái hai mảng lợp ngói đá đen cùng các họa tiết trang trí bên trong. Ra đời muộn hơn các nhà hát ở Thành phố Hồ Chí MinhHải Phòng, nhưng Nhà hát Lớn Hà Nội có kiến trúc hoàn chỉnh nhất và trở thành một hình ảnh quen thuộc, đặc trưng của thành phố Hà Nội.

Palais Bourbon

 

Palais Bourbon là tên thường gọi của tòa nhà Quốc hội Pháp hiện nay, công trình nằm bên bờ sông Seine, thuộc Quận 7 thành phố Paris. Được Công tước phu nhân Louise Françoise de Bourbon—con gái vua Louis XIV của Pháp—cho xây dựng từ năm 1722, Palais Bourbon tiếp tục được người cháu nội là Thân vương Louis V Joseph xứ Condé mở rộng trong nhiều năm. Tới thời kỳ Cách mạng Pháp, cung điện được chọn làm trụ sở của quốc hội và giữ vai trò này hầu như liên tục đến tận ngày nay.

Bên cạnh chức năng quan trọng, Palais Bourbon còn là một công trình kiến trúc nổi tiếng. Mặt ngoài cung điện phía sông Seine với hàng 12 cây cột là tác phẩm của kiến trúc sư Bernard Poyet thời Đệ nhất đế chế. Họa sĩ Eugène Delacroix cũng từng nhiều năm trang trí cho các căn phòng của Palais Bourbon. Sau nhiều lần tu sửa và mở rộng, toàn bộ cung điện hiện nay chiếm một diện tích 124 nghìn mét vuông, phục vụ khoảng 3 ngàn người làm việc. Thư viện của Palais Bourbon, được thành lập dưới thời Cách mạng, cũng là nơi lưu trữ nhiều tài liệu giá trị, trong đó có những bản thảo của Jean-Jacques Rousseau và tài liệu gốc của vụ án xử Jeanne d'Arc.

Tòa nhà Quốc hội Việt Nam

 

Tòa nhà Quốc hội Việt Nam là trụ sở làm việc và nơi diễn ra các phiên họp toàn thể của Quốc hội Việt Nam. Nhà Quốc hội được khởi công xây dựng vào năm 2009 tại khu trung tâm chính trị Ba Đình. Tòa nhà tọa lạc trên đường Độc Lập, nhìn ra Quảng trường Ba Đình, đối diện với Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh và nằm cạnh khu di tích khảo cổ 18 Hoàng Diệu. Tòa nhà là công trình công sở có quy mô lớn và phức tạp nhất được xây dựng tại Việt Nam từ sau ngày thống nhất đất nước với kiến trúc hiện đại tích hợp các giải pháp ứng dụng công nghệ, thiết bị tiên tiến phức tạp.

Công trình Nhà Quốc hội mất 15 năm từ khi phôi thai ý tưởng cho đến lúc khánh thành đã tạo ra vô vàn tranh luận trong xã hội cũng như các phương tiện thông tin đại chúng từ vị trí xây dựng, bảo tồn di tích đến phương án kiến trúc. Việc xây dựng Nhà Quốc hội cũng dẫn đến cuộc khai quật khảo cổ lớn nhất tại Việt Nam ở địa chỉ 18 Hoàng Diệu. Công ty tư vấn kiến trúc Gerkan, Marg und Partner International GmbH của Cộng hòa Liên bang Đức đã nhận Giải thưởng Lớn – giải thưởng cao nhất trong Giải thưởng Kiến trúc Quốc gia năm 2014 của Hội Kiến trúc sư Việt Nam cho công trình Nhà Quốc hội.

Tượng Nữ thần Tự do

 

Tượng Nữ thần Tự do là một tác phẩm điêu khắc bằng đồng theo phong cách tân cổ điển với kích thước lớn, đặt trên Đảo Liberty tại cảng New York thuộc Thành phố New York, Hoa Kỳ. Tác phẩm này do kiến trúc sư người Pháp Frédéric Auguste Bartholdi thiết kế, khung kim loại của nó được chế tạo bởi Gustave Eiffel và được khánh thành vào ngày 28 tháng 10 năm 1886. Đây là tặng vật của nhân dân Pháp gửi nước Mỹ.

Tượng Nữ thần Tự do có hình dáng một người phụ nữ mặc áo choàng, tiêu biểu cho Libertas, nữ thần tự do của La Mã, tay phải cầm ngọn đuốc còn tay kia một tấm đá phiến có khắc ngày tháng độc lập của Hoa Kỳ. Bức tượng này là biểu tượng mẫu mực của lý tưởng tự do cũng như của chính Hoa Kỳ.

Kiến trúc sư Bartholdi lấy cảm hứng từ một lời nói của chính trị gia kiêm giáo sư luật học người Pháp, Édouard René de Laboulaye vào năm 1865 rằng bất cứ tượng đài nào dựng lên để đánh dấu ngày độc lập của Hoa Kỳ thì cũng đáng là một dự án chung của cả hai dân tộc Pháp và Mỹ. Vì tình hình chính trị xáo trộn tại Pháp, công trình bị hoãn cho đến đầu thập niên 1870. Năm 1875, Laboulaye đề nghị rằng Pháp sẽ tài trợ việc đúc tượng còn Mỹ sẽ xây phần bệ và tìm vị trí đặt tượng. Bartholdi hoàn thành phần đầu tượng và cánh tay cầm đuốc trước khi bức tượng được thiết kế toàn bộ. Các bộ phận của tượng được trưng bày triển lãm cho công chúng xem trong nhiều đợt triển lãm quốc tế. Riêng cánh tay phải cầm ngọn đuốc được trưng bày tại Công viên Quảng trường Madison của Thành phố New York từ năm 1876 đến năm 1882. Công việc xúc tiến gây quỹ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt về phía người Mỹ. Năm 1885 công việc xây dựng bệ tượng bị đe dọa đình chỉ vì thiếu ngân sách. Joseph Pulitzer, chủ bút của nhật báo New York World, phải khởi động cuộc vận động quyên góp để hoàn thành dự án. Chiến dịch vận động của ông đã thu hút trên 120.000 người ủng hộ. Trong số người góp tiền, đa số góp dưới một đô la mỗi người.

Dennō Senshi Porigon

"Dennō Senshi Porigon" là tập phim thứ 38 trong mùa đầu tiên của loạt anime Pokémon. Tập phim chỉ phát sóng một lần duy nhất tại Nhật Bản vào tối ngày 16 tháng 12 năm 1997 trên 37 kênh truyền hình và được khoảng 4,6 triệu hộ gia đình theo dõi. Tập phim do Itani Kiyotaka đạo diễn và Takegami Junki soạn kịch bản. Trong tập này, Satoshi và những người bạn đi đến một trung tâm Pokémon, nơi có một thiết bị vận chuyển bóng Poké gặp sự cố. Tiến sĩ Akihabara, người chế tạo ra cỗ máy, kết luận rằng lỗi này do virus máy tính gây ra. Ông cho biết chính Đội Hỏa Tiễn đứng đằng sau mọi chuyện, và đưa nhóm Satoshi cùng Pokémon Porygon vào không gian ảo để ngăn chặn bọn họ.

Điểm đáng chú ý của tập phim này là sử dụng những hiệu ứng hoạt họa khiến một lượng đáng kể người xem bị động kinh, sự cố mà về sau được giới truyền thông Nhật Bản gọi là "Pokémon Shock". 685 người xem đã được đưa vào bệnh viện; trong đó có hai người phải tiếp tục nằm điều trị trong hai tuần. Tai nạn này đã gây chấn động dư luận Nhật Bản và thu hút sự chú ý của truyền thông quốc tế. Kênh truyền hình điều hành sản xuất tập phim là TV Tokyo đã phải xin lỗi công khai người dân toàn quốc, đồng thời Chính phủ Nhật Bản cấm phát sóng lại tập này trên toàn thế giới. Sau sự cố, anime Pokémon bị gián đoạn khoảng bốn tháng, và nó xuất hiện trở lại vào tháng 4 năm 1998 với nhiều sự thay đổi trong khâu chiếu phát. Tập phim đã bị nhại lại trong truyền thông đại chúng, bao gồm một vài tập trong The SimpsonsSouth Park.

Những người bạn

Những người bạn là một loạt phim truyền hình hài kịch tình huống Mỹ do David CraneMarta Kauffman sáng lập, công chiếu lần đầu tiên trên kênh National Broadcasting Company vào ngày 22 tháng 9 năm 1994. Loạt phim chủ yếu xoay quanh đời sống xã hội và tình cảm của một nhóm bạn gồm 6 người tầm lứa tuổi 20 sinh sống và làm việc tại Manhattan, thành phố New York. Loạt phim sản xuất bởi Bright/Kauffman/Crane Productions, hợp tác cùng Warner Bros. Television. Những giám đốc sản xuất đầu tiên của loạt phim bao gồm Kevin S. Bright, Marta KauffmanDavid Crane.

Kauffman và Crane bắt đầu thực hiện series phim "Những người bạn" dưới cái tên Insomnia Cafe vào tầm giữa tháng 11 và tháng 12 năm 1993. Họ giới thiệu ý tưởng này đến Bright, người từng hợp tác cùng họ trước đây và cùng lên kế hoạch viết 7 trang giới thiệu chương trình để gửi đến đài NBC. Sau vài lần thay đổi và viết lại kịch bản, bao gồm việc loạt phim sẽ được đặt tựa đề là "Six Of One" và "Friend Like Us", loạt phim cuối cùng thống nhất với tên "Những người bạn" và trình chiếu ở khung giờ 8:30 tối thứ Năm trên đài NBC. Phần ghi hình của loạt phim diễn ra tại Warner Bros. StudiosBurbank, California trực tiếp trước các khán giả. Sau 10 mùa phim, tập phim cuối cùng được NBC tăng cường quảng bá và trình chiếu vào ngày 6 tháng 5 năm 2004, với tỉ suất người xem trung bình 52.5 triệu khán giả Mỹ theo dõi đã trở thành tập phim được xem nhiều nhất trong thập niên 2000 và là một trong những tập kết mùa thu hút nhiều người xem nhất lịch sử truyền hình.

Allen Walker

Allen Walkernhân vật chính hư cấu trong loạt manga D.Gray-man, được sáng tạo bởi họa sĩ kiêm nhà văn người Nhật Bản Hoshino Katsura. Trong loạt truyện lấy bối cảnh ở thế kỷ 19 này, Allen là một thiếu niên tham gia vào Tổ chức Black Order—một nhóm các chiến binh là pháp sư trừ tà. Anh sử dụng vũ khí có tên gọi là Innocence để chiến đấu với những con quỷ. Innocence này ban đầu chính là cánh tay trái lớn bất thường của Allen; nhưng về sau nó dần tiến hóa và phát triển thêm nhiều năng lực mới. Nhờ đó, Allen có thể chiến đấu với Millennium Earl—người đã tạo ra đội quân Akuma cho mục đích hủy diệt thế giới—cùng những thành viên khác trong gia tộc Noah. Sau này, anh biết được rằng mình có mối liên hệ sâu xa với các Noah và có thể trở thành một trong số chúng.

Hoshino xây dựng hình tượng Allen dựa trên Robin, nhân vật nữ chính với mái tóc ngắn hơn anh trong one-shot Zone. Cô đã thiết kế trang phục của Allen theo phong cách thời trang thịnh hành ở thế kỷ 19, thêm vào một dải ruy băng cùng nhiều phụ kiện khác để khiến anh trông lịch lãm hơn. Ngoài ra, Hoshino còn tạo cho Allen một tính cách điềm đạm, trái ngược hẳn với các nhân vật cáu bẳn và thô lỗ trước đó của mình; đồng thời để làm anh trông đáng sợ hơn, cô còn thêm vào vết sẹo hình ngôi sao năm cánh cho Allen. Bộ manga được chuyển thể thành loạt phim anime truyền hình với phần lồng tiếng cho Allen do Kobayashi Sanae đảm nhiệm. Nhưng đến phiên bản anime chuyển thể năm 2016, D.Gray-man Hallow, Murase Ayumu đã thay thế vị trí này thay cho Kobayashi. Trong phiên bản lồng tiếng Anh của bộ phim, vai Allen được diễn viên Todd Haberkorn lồng tiếng.

Cardcaptor Sakura

Cardcaptor Sakura là một loạt shōjo manga sáng tác và minh họa bởi nhóm nghệ sĩ Nhật Bản CLAMP. Manga đăng lần đầu tiên trên tạp chí Nakayoshi từ tháng 5 năm 1996 đến tháng 6 năm 2000, và sau đó được Kōdansha phát hành thành 12 tập tankōbon từ tháng 11 năm 1996 đến tháng 7 năm 2000. Câu chuyện xoay quanh Kinomoto Sakura, một học sinh tiểu học tình cờ phát hiện ra tiềm năng phép thuật của mình sau khi vô tình mở quyển sách chứa một bộ thẻ bài ma thuật bị niêm phong đã nhiều năm. Sau đó, cô được giao nhiệm vụ phải thu phục tất cả thẻ bài đang phân tán nhằm ngăn chặn chúng phá hủy thế giới. Phần tiếp theo của manga này, Cardcaptor Sakura – Thẻ bài pha lê, theo chân Sakura khi cô đã học cấp 2 trung học, bắt đầu đăng thường kỳ trên Nakayoshi từ tháng 7 năm 2016.

Cardcaptor Sakura không giống với bất kỳ tác phẩm nào trước đó của CLAMP, và đây là lần đầu tiên nhóm tác giả thực hiện một manga thể loại mahō shōjo. Mặc dù lấy phép thuật làm phương tiện phát triển, chủ đề chính của tác phẩm là tình yêu và các mối quan hệ giữa người với người. Kịch bản được xây dựng theo hướng tránh phải suy xét về tính đúng đắn của các tình cảm đồng tính hay ái nhi, và tình yêu được chấp nhận ở mọi hình thái của nó. Phong cách nghệ thuật chính của tác phẩm là sự mềm mại và dễ thương, với rất nhiều loài hoa được minh họa làm nền. Trang phục chiến đấu của Sakura là một điểm nhấn vì sự phong phú và thay đổi thường xuyên. Những lá bài Clow chịu ảnh hưởng từ bài tarot đôi khi được xem là một phép ẩn dụ về số phận. Một số nhân vật trong Cardcaptor Sakura về sau đã trở thành hình mẫu khai thác thường xuyên của CLAMP, biến nó thành một phần trong vũ trụ hư cấu, cùng các đại diện tiêu biểu khác là ×××HOLiCTsubasa -RESERVoir CHRoNiCLE-.

Takahashi Rumiko

Takahashi Rumiko là một trong những mangaka xuất sắc cũng như giàu có nhất Nhật Bản hiện nay. Mặc dù là phụ nữ, nhưng bà thừa nhận thích đọc và viết các tác phẩm manga dành cho shōnen hơn là các tác phẩm dành cho shōjo, nguyên do từ thuở nhỏ bà đã đọc, làm quen và yêu thích các shōnen manga thông qua tạp chí Shōnen Sunday. Các bộ truyện của bà như Inu Yasha, Một nửa Ranma, Mezon Ikkoku, Urusei Yatsura... nhanh chóng được nhiều độc giả ưa thích và đã làm nên sự thành công cũng như nổi tiếng của nữ họa sĩ. Tính đến năm 2008, đã có hơn 170 triệu ấn phẩm của Takahashi được bán ra trên toàn thế giới. Bà cũng đã đoạt hai Giải thưởng Manga Shogakukan: giải thưởng năm 1981 dành cho Urusei Yatsura và giải thưởng năm 2002 dành cho Inu Yasha.

Với bề dày thành tích như trên, độc giả đã gán tặng Takahashi Rumiko biệt danh "công chúa manga".Một điều đặc biệt là "Takahashi đã dành trọn cuộc đời mình cho manga" và đến nay bà vẫn chưa lập gia đình.

Tokyo Mew Mew

Tokyo Mew Mew là một shōjo manga của Nhật Bản, do Yoshida Reiko đảm nhiệm phần nội dung và Ikumi Mia minh họa. Manga Tokyo Mew Mew được đăng trên tạp chí Nakayoshi từ tháng 9 năm 2000 đến tháng 2 năm 2003 và sau đó được nhà xuất bản Kodansha phát hành trong 7 tập tankōbon từ tháng 4 năm 2003 đến tháng 5 năm 2004. Nội dung của Tokyo Mew Mew xoay quanh 5 cô gái vô tình mang trong người DNA của những sinh vật bị đe dọa tuyệt chủng, vì vậy họ có khả năng biến thành dạng siêu nhân "Mew Mew". Nhiệm vụ của nhóm Mew Mew - lãnh đạo bởi Momomiya Ichigo - là phải bảo vệ Trái Đất trước cuộc xâm lăng của những người ngoài hành tinh.

Tokyo Mew Mew nhanh chóng được chuyển thể thành 52 tập phim anime bởi hãng Studio Pierrot. Anime được phát sóng lần đầu ở Nhật Bản từ ngày 6 tháng 4 năm 2002 đến ngày 29 tháng 3 năm 2003 trên các kênh TV AichiTV Tokyo. Phần 2 của Tokyo Mew Mew - kéo dài hai tập - Tokyo Mew Mew a la Mode được đăng trên tạp chí Nakayoshi từ tháng 4 năm 2003 đến tháng 2 năm 2004. Một nhân vật mới xuất hiện trong Tokyo Mew Mew a la Mode: Shirayuki Berī, cô trở thành người lãnh đạo tạm thời cho nhóm Mew Mew khi Momomiya Ichigo đi vắng. Hai game video đã được sản xuất dựa trên manga và anime Tokyo Mew Mew: một game giải đốphiêu lưu dành cho hệ máy Game Boy Advance và một game nhập vai console dành cho hệ máy PlayStation. Tokyopop giữ bản quyền phát hành phiên bản tiếng Anh của Tokyo Mew MewTokyo Mew Mew a la Mode. Còn người giữ bản quyền phát hành phiên bản tiếng Anh của anime tại Bắc Mỹ là hãng 4Kids Entertainment. Các tập anime phiên bản tiếng Anh đã bị biên tập, cắt sửa khá nhiều. 23 tập phim Mew Mew Power được phát sóng trên kênh 4Kids TV ở Hoa Kỳ và 26 tập được phát sóng trên kênh YTV ở Canada. 26 tập còn lại của anime đã không được phát sóng trên kênh 4Kids TV do hãng 4Kids Entertainment đã không thể mua bản quyền phát sóng các tập này. Và 4Kids cũng chưa phát hành Tokyo Mew Mew dưới dạng home video - tức là dưới dạng băng video hay đĩa CD, DVD.

Watchmen

Watchmen là một loạt truyện tranh gồm 12 tập do Alan Moore sáng tác nội dung, Dave Gibbons minh họa và John Higgins tô màu. Loạt truyện này được nhà xuất bản DC Comics phát hành lần đầu trong hai năm 19861987 rồi sau đó đã được tái bản nhiều lần dưới dạng truyện một tập. Watchmen có nội dung bắt nguồn từ một tác phẩm do Alan Moore đề nghị xuất bản với hãng DC Comics trong đó xuất hiện các nhân vật siêu anh hùng mà hãng này vừa mua lại bản quyền từ nhà xuất bản Charlton Comics. Do tác phẩm đề nghị của Moore có thể sẽ khiến nhiều nhân vật siêu anh hùng khó có thể được sử dụng trong các truyện tranh sau này, biên tập viên của DC là Dick Giordano đã thuyết phục nhà văn tạo ra những nhân vật siêu anh hùng hoàn toàn mới cho tác phẩm đề nghị của ông.

Moore sử dụng cốt truyện của Watchmen để phản ánh những mối lo âu đương thời của xã hội cũng như đưa ra phản đề về các nhân vật siêu anh hùng trong truyện tranh Mỹ. Watchmen lấy bối cảnh là xã hội Hoa Kỳ giai đoạn từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai tới những năm 1980 trong đó nhờ sự trợ giúp của các siêu anh hùng, nước Mỹ đã giành chiến thắng trong chiến tranh Việt NamRichard Nixon nhờ đó đã giữ vị trí Tổng thống Hoa Kỳ cho tới năm 1985. Nước Mỹ lúc này đang cận kề một cuộc chiến tranh hạt nhân với Liên Xô còn các hoạt động của các siêu anh hùng không phục vụ cho chính phủ thì đã bị đưa ra ngoài vòng pháp luật. Cốt truyện của Watchmen tập trung vào sự phát triển tính cách và những xung đột trong cuộc sống của các nhân vật siêu anh hùng xoay quanh cuộc điều tra về cái chết của một siêu anh hùng hoạt động cho chính phủ. Trừ tập cuối cùng, các tập Watchmen đều có thêm một tài liệu hư cấu dưới nhiều dạng như bài báo, trích đoạn hồi ký để giúp độc giả nắm rõ hơn số phận và tính cách của các nhân vật. Song song với câu chuyện của Watchmen còn có một truyện hư cấu có tên Tales of the Black Freighter được ấn hành dưới dạng truyện tranh do một nhân vật phụ đọc.

Anne Frank

 

Annelies Marie Frank (12 tháng 6 năm 1929 – tháng 2 năm 1945) là một nhà văntác giả hồi ký người Đức gốc Do Thái. Cô là một trong những nạn nhân người Do Thái được biết đến nhiều nhất trong cuộc tàn sát Holocaust. Tác phẩm Nhật ký Anne Frank, ghi chép lại cuộc đời của cô trong khi ẩn náu lúc Quân đội Đức Quốc xã chiếm đóng thời Thế chiến thứ 2, là một trong những quyển sách nổi tiếng nhất thế giới, tạo cảm hứng cho nhiều vở diễn và tác phẩm điện ảnh sau này.

Sinh ra tại Frankfurt am Main, Đức, Anne lớn lên gần Amsterdam, Hà Lan. Sau khi Adolf Hitler lên nắm quyền vào tháng 1 năm 1933, gia đình Anne Frank rời khỏi Frankfurt đến Amsterdam cuối năm 1933 để thoát khỏi sự truy đuổi của Đức Quốc xã. Vào năm 1941, cô bị tước đi tư cách công dân Đức và trở thành người không quốc tịch. Từ tháng 7 năm 1942, họ sống trốn tránh trong những căn phòng được ngụy trang, khi đó Anne 13 tuổi. Sau 2 năm, do bị chỉ điểm, gia đình Anne bị phát hiện và đưa tới trại tập trung của Đức Quốc xã. Vào tháng 2 hoặc tháng 3 năm 1945, khi cô 15 tuổi, Anne cùng chị gái Margot Frank mất tại trại Bergen-Belsen, chỉ vài tuần trước khi trại giải thể vào tháng 4.

Franz Kafka

 

Franz Kafka (3 tháng 7 năm 1883 – 3 tháng 6 năm 1924) là một tiểu thuyết gianhà văn viết truyện ngắn người Bohemia nói tiếng Đức, được giới phê bình đánh giá là một trong những tác giả có tầm ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Kafka là một nhà hiện đại chủ nghĩa và chịu ảnh hưởng mạnh bởi những thể loại khác, bao gồm chủ nghĩa hiện sinh. Các tác phẩm của ông, như Hóa thân, Vụ án, và Lâu đài sử dụng những chủ đề và nguyên mẫu về sự ghẻ lạnh, sự tàn bạo về thể xác và tinh thần, mâu thuẫn cha-con, những nhân vật trong những cuộc truy tìm đáng sợ, và những sự biến đổi kỳ bí.

Kafka sinh ra trong một gia đình Do Thái nói tiếng Đức thuộc tầng lớp trung lưu ở Praha, khi ấy là một phần của Đế quốc Áo-Hung, và được đào tạo để trở thành một luật sư. Sau khi tốt nghiệp ngành luật ở đại học, ông đi làm ở một công ty bảo hiểm. Kafka bắt đầu viết những truyện ngắn trong lúc rảnh rỗi, và trong suốt phần đời còn lại ông luôn phàn nàn về khoảng thời gian ít ỏi có thể cống hiến cho việc viết văn – mà ông dần xem là thiên hướng của mình; trong khi lấy làm hối tiếc đã dành nhiều sự quan tâm cho "công việc hàng ngày". Ông rất thích liên lạc bằng thư từ và đã viết hàng trăm lá thư cho gia đình và những người bạn gái thân thiết, trong đó có thư gửi cho cha, hôn thê Felice Bauer và em gái Ottla. Mối quan hệ phức tạp và khó khăn với người cha có tầm ảnh hưởng quan trọng lên tác phẩm của ông, và dù ông xung đột với dòng máu Do Thái của chính mình và cho rằng nó không tác động gì tới ông, tuy nhiên nó đã có dấu ấn đậm nét trên văn chương Kafka.

Harry Potter và Hòn đá Phù thủy

Harry Potter và Hòn đá Phù thủytiểu thuyết kỳ ảo của văn sĩ người Anh J. K. Rowling. Đây là cuốn đầu trong loạt tiểu thuyết Harry Potter và là tiểu thuyết đầu tay của J. K. Rowling. Nội dung sách kể về Harry Potter, một phù thủy thiếu niên chỉ biết về tiềm năng phép thuật của mình sau khi nhận thư mời nhập học tại Học viện Ma thuật và Pháp thuật Hogwarts vào đúng vào dịp sinh nhật thứ mười một. Ngay năm học đầu tiên, Harry đã có những người bạn thân lẫn những đối thủ ở trường như Ron, Hermione, Draco. Được bạn bè giúp sức, Harry chiến đấu chống lại sự trở lại của Chúa tể Hắc ám Voldemort, kẻ đã sát hại cha mẹ cậu nhưng lại thảm bại khi toan giết Harry dù cậu khi đó chỉ mới 15 tháng tuổi.

Sách được Bloomsbury xuất bản lần đầu tại Anh Quốc vào năm 1997. Năm 1998, Scholastic Corporation xuất bản tác phẩm tại Hoa Kỳ với nhan đề Harry Potter and the Sorcerer's Stone và có chút thay đổi về văn phong để phù hợp với độc giả Mỹ; bản dịch tiếng Việt của Nhà xuất bản Trẻ cũng dựa trên ấn bản này.

Harry Potter và Hòn đá Phù thủy giành hầu hết các giải thưởng về sách ở Anh Quốc do trẻ em bầu chọn cũng như một số giải thưởng khác ở Hoa Kỳ. Tác phẩm đứng đầu danh sách tiểu thuyết bán chạy nhất trong tháng 8 năm 1999 của Thời báo New York và liên tục nằm trong top đầu của danh sách này trong suốt gần hai năm tiếp theo. Truyện đã được dịch ra ít nhất bảy mươi tư thứ tiếng cũng như được chuyển thể thành phim điện ảnh cùng tên.

Kinh Thi

 

Kinh Thi là một bộ tổng tập thơ ca vô danh của Trung Quốc, một trong năm bộ sách kinh điển của Nho giáo. Các bài thơ trong Kinh Thi được sáng tác trong khoảng thời gian 500 năm, từ đầu thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu, gồm 311 bài thơ. Kinh Thi chia làm ba bộ phận lớn là Phong, Nhã và Tụng. Nguồn gốc các bài thơ trong Kinh Thi khá phức tạp, gồm cả ca dao, dân ca và nhã nhạc triều đình, với các tác giả thuộc mọi tầng lớp trong xã hội đương thời. Từ ca dao, dân ca được ghi chép lại thành văn rồi thành kinh điển, Kinh Thi đã trải qua quá trình sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn công phu.

Trong thời Chiến Quốc, Kinh Thi được coi là "sách giáo khoa" toàn xã hội, luôn được các học giả truyền tụng, học tập với phương châm "Không học Thi thì không biết nói". Trong sự kiện đốt sách của nhà Tần, Kinh Thi bị mất mát rất nhiều, sau đó mới được sưu tầm và khôi phục qua công sức của nhiều học giả từ đời Hán trở đi. Trong số đó, bản Kinh Thi do hai thầy trò Mao Hanh, Mao Trường biên soạn là bản thông dụng nhất cho đến ngày nay. Cũng trong thời Hán, Kinh Thi trở thành một trong Ngũ kinh của Nho giáo và luôn được nhiều thế hệ nhà Nho như Trịnh Khang Thành đời Đông Hán, Khổng Dĩnh Đạt đời Đường nghiên cứu, bình giải cả về mặt kinh học và văn học. Đến đời Tống, Chu Hy chú giải lại toàn bộ Kinh Thi với chủ trương "kinh học hóa", "huyền thoại hóa" Kinh Thi nhằm phù hợp với yêu cầu huấn hỗ, giáo huấn để rồi khi Tống Nho chiếm địa vị bá chủ học thuật thì lý giải của Chu Hy về Kinh Thi cũng trở thành bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, đến đời Thanh, Thi kinh tập truyện của Chu Hy bị phản đối mạnh mẽ bởi nhiều học giả muốn nghiên cứu Kinh Thi trên tư cách một tuyển tập văn học chứ không phải một tác phẩm kinh học. Và đó cũng là ý kiến chính thống của giới Thi học hiện nay.

Ly tao

 

"Ly tao" là một bài thơ nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc thuộc thể loại phú do chính trị gia, thi nhân nước SởKhuất Nguyên sáng tác vào thời Chiến Quốc. Là thiên "trường ca" đầu tiên trong lịch sử văn học Trung Quốc, với tổng cộng 2.477 chữ, chia thành 373 câu, "Ly tao" được đánh giá là bài thơ nổi tiếng và xuất sắc nhất trong tuyển tập thi ca Sở từ. Sự đặc sắc của bài thơ trường thiên này là lời bi thảm triền miên, thường dùng lối tượng trưng, lối nhân cách hóa và dẫn rất nhiều điển cố thần thoại Trung Hoa.

Trong tác phẩm này, tác giả Khuất Nguyên tự thuật về thân thế, tài hoa cùng chí hướng của bản thân, chỉ trích những kẻ mà ông gọi là tiểu nhân, thể hiện tâm trạng bi phẫn vì bị quân vương xa lánh, nhưng cũng đồng thời khẳng định rằng ông thà cố chấp chọn cái tốt, thà chết chứ quyết không thông đồng với kẻ gian. Tác phẩm cũng chứa nhiều yếu tố huyền bí. Khuất Nguyên đề cập đến việc ông đã nói chuyện cùng thần linh, hỏi chuyện các đồng cốt vì ông do dự không thể quyết định giữa lựa chọn "ra đi" hay "ở lại". Ông tưởng tượng rằng mình đã lên thiên giới, điều khiển "xe phi long" bằng ngọc, chu du tứ phương, nhưng khi tới thiên môn thì không thể đi tiếp, còn lời cầu hôn của ông cũng bị thần nữ cự tuyệt. Cuối cùng, ông cũng vì không đành lòng rời khỏi cố hương mà quyết định ở lại.

Nancy Drew

Nancy Drew là một nhân vật hư cấu và là nhân vật chính trong loạt tác phẩm trinh thám ly kỳ Mỹ của nhà văn Edward Stratemeyer. Nhân vật được xem như phiên bản nữ của loạt truyện Hardy Boys. Nancy Drew ra mắt công chúng lần đầu tiên năm 1930 trong tác phẩm The Secret of the Old Clock. Các tập truyện do nhiều người cùng viết dưới một bút danh chung là Carolyn Keene. Trải qua nhiều thập niên, hình tượng nhân vật Nancy đã thay đổi để thích ứng với những khác biệt văn hóa và thị hiếu Hoa Kỳ trong các thời kỳ khác nhau. Từ năm 1959, nội dung các tập truyện được chỉnh lại và rút gọn lại, một phần để giảm chi phí in ấn và sự thành công vẫn trong vòng tranh cãi. Trong quá trình sửa đổi, nhân vật nữ anh hùng trong bản gốc đã được xây dựng lại thành một hình tượng bớt bướng bỉnh và ít bạo lực hơn. Vào thập niên 1980, loạt truyện mới The Nancy Drew Files ra đời với hình ảnh Nancy trưởng thành và chuyên nghiệp hơn, có cả những tình tiết lãng mạn kèm theo. Loạt truyện gốc Nancy Drew Mystery Stories ra mắt vào năm 1930 và kết thúc vào năm 2003. Từ năm 2004, Nancy trong loạt truyện Girl Detective đã lái xe hơi hybrid chạy điện hiện đại cũng như sử dụng điện thoại di động. Năm 2012, loạt Girl Detective kết thúc, được thay thế bằng Nancy Drew Diaries ra mắt vào năm 2013. Hình tượng nhân vật phát triển theo thời gian phù hợp với bối cảnh đương thời. Loạt truyện được phổ biến liên tục trên toàn thế giới: ít nhất 80 triệu bản sách đã được bán ra và được dịch sang hơn 45 thứ tiếng. Nancy Drew được chuyển thể trong sáu phim điện ảnh, bốn phim truyền hình và một số trò chơi điện tử phổ biến; hình ảnh nhân vật cũng xuất hiện trong một loạt các mặt hàng khác trên khắp thế giới.

Thần thoại Hy Lạp

 

Thần thoại Hy Lạp là tập hợp những huyền thoại và truyền thuyết của người Hy Lạp cổ đại liên quan đến các vị thần, các anh hùng, bản chất của thế giới, và nguồn gốc cũng như ý nghĩa của các tín ngưỡng,các nghi lễ tôn giáo của họ. Chúng là một phần của tôn giáo Hy Lạp cổ đại và nay là một phần của một tôn giáo hiện đại lưu hành ở Hy Lạp mà trên thế giới gọi là Hellenismos. Các học giả hiện đại tham khảo và nghiên cứu các truyện thần thoại này để rọi sáng vào các thể chế tôn giáo, chính trị Hy Lạp cổ đại, nền văn minh của nó cũng như để tìm hiểu về bản thân sự hình thành của một huyền thoại.

Thần thoại Hy Lạp được thể hiện rõ ràng trong tập hợp đồ sộ những truyện kể, và trong các tác phẩm nghệ thuật tượng trưng Hy Lạp cổ, chẳng hạn các tranh vẽ trên bình gốm và các đồ tế lễ. Thần thoại Hy Lạp cố gắng giải thích nguồn gốc của thế giới, và kể tỉ mỉ về cuộc đời và các cuộc phiêu lưu của một tập hợp đa dạng những vị thần, nữ thần, anh hùng và những sinh vật thần thoại. Những truyện kể này đầu tiên được truyền miệng bằng thơ ca; ngày nay các thần thoại Hy Lạp chủ yếu được biết thông qua văn học Hy Lạp ngày nay.

Thế Lữ

Thế Lữ (10 tháng 6 năm 1907 – 3 tháng 6 năm 1989) là một nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch người Việt Nam. Thế Lữ nổi danh trên văn đàn vào những năm 1930, với những tác phẩm Thơ mới, đặc biệt là bài Nhớ rừng, cùng những tác phẩm văn xuôi, tiêu biểu là tập truyện Vàng và máu. Trở thành thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn kể từ khi mới thành lập, ông hầu hết hoạt động sáng tác văn chương trong thời gian là thành viên của nhóm, đồng thời cũng đảm nhận vai trò là một nhà báo, nhà phê bình, biên tập viên mẫn cán của các tờ báo Phong hóaNgày nay.

Từ năm 1937, hoạt động của Thế Lữ chủ yếu chuyển hướng sang biểu diễn kịch nói, trở thành diễn viên, đạo diễn, nhà viết kịch, trưởng các ban kịch Tinh Hoa, Thế Lữ, Anh Vũ, hoạt động cho đến sau Cách mạng tháng Tám. Ông tham gia kháng chiến chống Pháp, làm kịch kháng chiến trong những năm Chiến tranh Đông Dương. Sau Hiệp định Genève, ông tiếp tục hoạt động sân khấu, trở thành Chủ tịch đầu tiên của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam. Ông được coi là một người tiên phong, không chỉ trong phong trào Thơ mới, trong lĩnh vực văn chương trinh thám, kinh dị, đường rừng, mà còn là người có đóng góp rất lớn trong việc chuyên nghiệp hóa nghệ thuật biểu diễn kịch nóiViệt Nam. Thế Lữ đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 1984Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt II năm 2000.

Truyện kể Genji

 

Truyện kể Genji là một trường thiên tiểu thuyết của nữ sĩ cung đình Nhật Bản có biệt danh là Murasaki Shikibu sống dưới trướng của thứ phi Akiko trong cung Fujitsubo, triều đại Thiên hoàng Ichijō, không rõ tên thật của bà là gì. Truyện được sáng tác vào khoảng những năm 1010 thời đại Heian bằng chữ viết kana, theo thể loại monogatari cổ điển đã có lịch sử phát triển từ 200 năm trước đó của Nhật Bản. Xoay quanh hình tượng nhân vật hoàng tử Genji trong phần chính và Kaoru, người con trai trên danh nghĩa của Genji trong phần thập thiếp cùng mối quan hệ của họ với những người phụ nữ, tác phẩm gồm 54 chương, thuộc một trong những truyện rất lớn về dung lượng, rất phức tạp về nội dung và rất quyến rũ về mặt hình thức trong lịch sử văn học thế giới. Trở thành một hiện tượng có một không hai đối với văn học nhân loại vào thời kỳ trung cổ tiền Phục Hưng: về mặt lịch sử truyện được đánh giá là tiểu thuyết theo nghĩa hiện đại đầu tiên của nhân loại, sớm hơn rất nhiều so với sự ra đời của tiểu thuyết ở châu Âu với tác phẩm Don Quijote của Miguel de Cervantes vào thế kỷ 16.

1989 (album của Taylor Swift)

1989album phòng thu thứ năm của nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Mỹ Taylor Swift, phát hành ngày 27 tháng 10 năm 2014 bởi hãng đĩa Big Machine Records. Sau khi ra mắt Red, Swift phát triển album này và hợp tác cùng nhiều nhà sản xuất âm nhạc, chủ yếu với Max MartinShellback. Album đánh dấu giai đoạn biến chuyển về mặt âm nhạc của cô, được mô tả là "album pop chính thức đầu tiên", lấy cảm hứng từ âm nhạc thập niên 1980 với ca từ về tình cảm lứa đôi và sự khám phá bản thân.

Xuất bản dưới định dạng kỹ thuật số và đĩa nhựa, Swift quyết định rút 1989 và toàn bộ danh mục âm nhạc khỏi nhiều dịch vụ streaming, trong đó có Spotify. Các nhà phê bình âm nhạc đương đại đánh giá 1989 một cách tích cực, khen ngợi phần sản xuất mang tính thử nghiệm và khả năng chuyển đổi phong cách âm nhạc của Swift. Album mang về nhiều giải thưởng, bao gồm giải Grammy cho "Album của năm", giúp Swift trở thành nữ nghệ sĩ đầu tiên hai lần thắng giải tại hạng mục này. 1989 gặt hái thành công rực rỡ về mặt thương mại, là album có mở đầu thành công nhất kể từ năm 2002 và trở thành album thứ ba của Swift bán hơn 1 triệu bản trong tuần đầu ra mắt tại Hoa Kỳ. Đây là album bán chạy thứ hai và thứ ba, lần lượt trong năm 2014 và 2015 trên toàn cầu, với doanh số hiện tại chạm mốc hơn 23 triệu bản, riêng tại Hoa Kỳ bán được hơn 10 triệu bản thuần.

808s & Heartbreak

808s & Heartbreakalbum phòng thu thứ tư của nghệ sĩ và nhà sản xuất thu âm người Mỹ Kanye West, ra mắt vào ngày 24 tháng 11 năm 2008 bởi hãng Roc-A-Fella Records. Các phiên thu âm cho album diễn ra tại các phòng thu Glenwood Studios ở Burbank, California và Avex Recording Studio ở Honolulu, Hawaii từ tháng 9 đến tháng 10 năm 2008. Album chủ yếu do West, No I.D.Jeff Bhasker sản xuất. West thai nghén album này sau nhiều sự kiện đau buồn diễn ra vào năm trước đó, đánh dấu sự chuyển hướng rõ rệt so với những tác phẩm trước của West về mặt ca từ, giọng hát cũng như sản xuất.

Tuy được West phân loại là một album nhạc pop, 808s & Heartbreak còn kết hợp các yếu tố của synthpop, electronica, R&Belectropop. Thay vì đọc rap, West hát trong hầu hết các bài hát, với nội dung về tình yêu, sự cô đơn và nỗi buồn. Album dùng máy biến đổi giọng Auto-Tunemáy đánh trống hiệu Roland TR-808, được West sử dụng và thao tác để cho ra những âm thanh điện tử méo mó. Với phương pháp sản xuất theo lối tối giản, West quyết định đi ngược lại những âm thanh tiêu biểu của phần nhịp nhạc hip hop và thay vào đó tạo âm hưởng của những tiếng trống thổ dân.

A Very Gaga Holiday

A Very Gaga Holidayđĩa mở rộng trực tiếp của nữ ca sĩ người Mỹ Lady Gaga, gồm những bài hát mà cô biểu diễn trong chương trình truyền hình đặc biệt phát sóng trên kênh ABC nhân dịp ngày Lễ Tạ ơn mang tên A Very Gaga Thanksgiving. EP chính thức bày bán tại Hoa Kỳ vào ngày 22 tháng 11 năm 2011 thông qua việc phân phối độc quyền trên iTunes StoreAmazon và trễ hơn, vào ngày 26 tháng 11 tại các quốc gia còn lại trên thế giới. EP gồm những bản cover của các bài hát "Orange Colored Sky", "White Christmas", đặc biệt, trong bản cover "White Christmas" Gaga tự bổ sung một phần lời do chính cô sáng tác vào bài hát gốc, "You and I" và "The Edge of Glory". "You and I" và "The Edge of Glory" đều là các bài hát nằm trong album phòng thu thứ hai phát hành trước đó của nữ ca sĩ với tựa đề Born This Way. Thỉnh thoảng, sau khi trình bày được một nửa bài hát thì Gaga tạm dừng và bắt đầu tâm sự với thính giả.

Kể từ khi phát hành, A Very Gaga Holiday nhận được những phản hồi hai chiều từ giới phê bình. Nhà phê bình âm nhạc Stephen Thomas Erlewine, đại diện cho website AllMusic, đã chọn "White Christmas" và "Orange Colored Sky" là hai bài hát ông yêu thích trong EP, trong khi Amelia Proud, đến từ tờ Daily Mail, lại cảm thấy EP không được truyền cảm và có vẻ không hay bằng các nhạc phẩm trước của nữ ca sĩ. A Very Gaga Holiday góp mặt vào các bảng xếp hạng album của các quốc gia gồm Canada, Pháp và Hoa Kỳ, đồng thời ca khúc "White Christmas" trong EP cũng lọt vào bảng xếp hạng đĩa đơn tại các quốc gia gồm Bỉ, Nhật Bản và Anh.