Đại dịch COVID-19 theo quốc gia và vùng lãnh thổ

bài viết danh sách Wikipedia

Bài viết này cung cấp tổng quan chung các quốc gia và vùng lãnh thổ bị ảnh hưởng bởi và tình trạng các khu vực bị ảnh hưởng bởi virus Corona, virus gây bệnh coronavirus 2019 (COVID-19) và là nguyên nhân gây ra đại dịch đại dịch COVID-19. Các trường hợp nhiễm COVID-19 ở người đầu tiên được xác định tại Vũ Hán, thủ phủ của tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc vào tháng 12 năm 2019.

Đại dịch COVID-19
Xác nhận tử vong trên 100.000 người,[1][note 1]
kể từ ngày 15 tháng 11 năm 2021
  •   555+
  •   100–555
  •   18–100
  •   3.3–18
  •   0.6–3.3
  •   0.1–0.6
  •   <0.1
  •   Không có ca tử vong hoặc không có dữ liệu
Dịch bệnhCOVID-19
Chủng virusSARS-CoV-2
Vị tríToàn thế giới
Trường hợp đầu tiênVũ Hán, Hồ Bắc, Trung Quốc
30°37′11″B 114°15′28″Đ / 30,61972°B 114,25778°Đ / 30.61972; 114.25778
Thời gian17 tháng 11 năm 2019 (2019-11-17)[2] – hiện tại
(5 năm và 3 tháng)
Trường hợp xác nhận777.368.165[3]
Tử vong
7.087.718[3]
Vắc-xin
  • 5.645.247.500[3] (số lượt tiêm chủng)
  • 5.197.972.500[3] (số lượt tiêm đủ liều)
  • 13.724.514.000[3] (tổng số liều đã tiêm)

Các số liệu được trình bày trên trang này dựa trên các trường hợp ca nhiễm và tử vong được báo cáo. Trong khi ở một số các quốc gia có thu nhập cao, tỷ lệ tổng số ca bệnh, tử vong ước tính trên số ca mắc, tử vong được báo cáo là thấp và gần bằng 1 thì ở một số quốc gia khác, tỷ lệ này có thể hơn 10[4] hoặc thậm chí hơn 100.[5] Việc triển khai các phương pháp Giám sát COVID-19 là rất khác nhau.[6]

Các ca đầu tiên được ghi nhận tại Trung Quốc tháng 12 năm 2019. Tháng 1 năm 2020 ghi nhận các ca ở Nhật Bản, Thái Lan, Mỹ, Việt Nam, Pháp... sau đó lan ra toàn thế giới. Tính đến 17 tháng 6, 213 quốc gia và vùng lãnh thổ có dịch (4 vùng lãnh thổ thuộc Mỹ được tính vào Mỹ), chỉ có Bắc Triều Tiên, Turkmenistan, 10 nước Nam Thái Bình Dương dân số dưới 1 triệu chưa bị (không kể một số vùng lãnh thổ nhỏ có thể gộp chung với một quốc gia). Đỉnh dịch tại Trung Quốc trung tuần tháng 2 (ngày 12 tháng 2 là 14.108 ca, chết nhiều nhất ngày 23 tháng 2 với 150 ca). Nước bị dịch mạnh tiếp theo là Hàn Quốc, tăng nhanh cuối tháng 2, đỉnh dịch ngày 3 tháng 3 với 851 ca. ItaliaIran tăng nhanh từ giữa tháng 3, đỉnh dịch tại Italia là 21 tháng 3 với 6.557 ca, Iran với 3.186 ca ngày 30 tháng 3. Dịch sau đó lan rộng ra châu Âu, Tây Ban Nha vượt qua Italia thành tâm dịch, đỉnh điểm 26 tháng 3 với 8.271 ca. Từ cuối tháng 3 dịch giảm nhiều ở Trung Quốc, Hàn Quốc nhưng lan mạnh ở Mỹ và nhiều nước châu Âu đặc biệt Tây Âu (kể cả các nước nhỏ như San Marino, Andorra). Mỹ từ tháng 4 hầu hết các ngày đều trên 20.000 ca, ngày 4 tháng 4 tới 34.642 ca, ngày 24 tháng 4 với 39.072 ca, ngày 1 tháng 5 với 36.090 ca,... vươn lên đứng đầu thế giới. Tâm dịch ở Mỹ từ Washington chuyển sang New York, New Jersey từ cuối tháng 3 và từ đầu tháng 6 tăng nhanh ở California, Texas, Florida,... Từ trung tuần tháng 5, dịch giảm đáng kể ở hầu hết các nước Tây Âu trừ Anh, nhưng lại lan mạnh ở Nga, và BelarusĐông Âu (Nga ngày 11 tháng 5 đạt đỉnh dịch 11.656 ca), Brasil, sau đó là Peru, Chile, MexicoMỹ Latinh (Brazil ngày 16 tháng 6 có 37.278 ca), Thổ Nhĩ Kỳ, sau đó là Ả Rập Xê Út, QatarTrung Đông (Iran dịch vẫn mạnh), Ấn Độ, Pakistan, sau đó là BangladeshNam Á (Ấn Độ có 13.103 ca ngày 17 tháng 6). Đầu tháng 7 các nước nhiều ca thêm Nam Phi, Colombia, Argentina. Các nước có dịch mới nhất tính đến 17 tháng 6 là Comoros, Tajikistan (từ 30 tháng 4), Lesotho (từ 13 tháng 5). Tính đến 17 tháng 7 có nhiều ngày trên 200.000 ca mới mỗi ngày toàn cầu (các ngày 2,3, từ 7 đến 11, và từ ngày 14 tháng 7), 28 nước / vùng chưa có tử vong, đến 20 tháng 7 Papua New Guinea có ca tử vong đầu tiên tuy nhiên có tài liệu không tính chết vì covid mà chết nguyên nhân khác. Cập nhật ngày 24 tháng Bảy thế giới kỷ lục số ca mới một ngày (gần 290.000 ca / ngày), Mỹ cũng kỷ lục số ca một ngày (hơn 78.000 ca / ngày), và Uganda có người tử vong vì dịch đầu tiên. Ngày 26 tháng 7 Triều Tiên nghi nhiễm ca đầu tiên tuy nhiên sau xác định chưa có dịch. Ngày 29 tháng 7 Papua New Guinea thông báo 2 ca tử vong đầu tiên. Ngày 31 tháng 7 Việt Nam có 2 ca tử vong vì Covid đầu tiên, bệnh nhân 428 và 437, Fiji cũng có ca tử vong đầu tiên. Tính đến cuối tháng 8 tình hình dịch bệnh toàn thế giới vẫn rất nghiêm trọng, tuy số ca mỗi ngày giảm nhẹ ở Mỹ, Brazil, Nam Phi, Chile, Pakistan... nhưng lại tăng đáng kể hay vẫn nghiêm trọng ở nhiều nước khác như Peru, Colombia, Argentina, Pháp, Tây Ban Nha, Iraq, Philippines,... đặc biệt Ấn Độ ngày 30 tháng 8 lập kỷ lục số ca mới một ngày (gần 79.500 ca). Ấn Độ cũng vượt qua Mexico về số tử vong vì dịch. Tính đến 27 tháng 9 tình hình dịch bệnh trên thế giới vẫn rất nghiêm trọng, nhiều ngày trong tháng trên 300.000 ca / ngày và trên 5000 người chết vì dịch / ngày. Dịch tháng 9 có xu hướng tăng ca nhiều nước châu Âu như Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Ukraina, Bỉ, Hà Lan, Đức,... tại Israel ở châu Á, Argentina ở châu Mỹ, và vẫn nghiêm trọng ở nhiều nước khác như Ấn Độ, một số ngày trên 90.000 ca / ngày, ở Mỹ và Brazil (dù có giảm chút xíu), ở Nga, Iran, Iraq, Colombia, Mexico, Peru, Indonesia, Philippines... Có thêm 2 nước / vùng có người chết trong tổng số các nước có ca nhiễm. Ngày 1 tháng 10 thế giới ghi nhận kỷ lục số người chết một ngày (gần 9.000 người) đặc biệt tại Argentina lập kỷ lục số người chết một ngày cao nhất trong số các nước có dịch (3.352 chết, bao gồm 3.050 trường hợp tử vong tại tỉnh Buenos Aires được xác nhận vào ngày 25 tháng 9 đã bị bỏ sót trong các báo cáo trước đó). Ngày 3 tháng 10 Solomon có ca nhiễm đầu tiên. Ngày 7 tháng 10 thế giới lập kỷ lục số ca tính theo ngày, hơn 343.000 ca, có 39 nước số ca trên 1.000 ca/ngày, bao gồm một số điểm nóng mới như Séc, Ba Lan, Rumani, Mianma, Nêpan, Tuynidi, Canada,...Ngày 8 và 9 tháng 10 lại có kỷ lục mới số ca (ngày 9 hơn 380.000 ca, 41 nước trên 1000 ca). Quần đảo Wallis và Futuna có ca đầu tiên 16 tháng 10.

Ngày 21 tháng 10 năm 2020, thế giới lập kỷ lục số ca / ngày, trên 437.000 ca (hơn 6.800 chết), riêng châu Âu hơn 193.000 ca (hơn 1.700 chết), trong số 12 nước trên 10.000 ca trong ngày có 8 nước ở châu Âu. Mỹ đứng đầu số ca (hơn 63.600 ca) và số người chết (hơn 1.200 người) trong ngày. Ngày 23 tháng 10 thế giới hơn 490.000 ca (kỷ lục), Mỹ xếp đầu hơn 81.000 ca (kỷ lục nước này). Tính hai tuần 15 đến 27/10 Mỹ có hơn 847.000 ca, hơn 9.800 qua đời, Ấn Độ hơn 707.000 ca, hơn 8.900 qua đời, Pháp hơn 408.000 ca, Brazil hơn 296.000 ca, Anh hơn 259.000 ca... đứng đầu. Dịch tăng nhanh nhất châu Âu, nhiều ngày hơn 200.000 ca/ngày. Ngày 28 tháng 10 thế giới lập kỷ lục số ca, trên 504.000. Quần đảo Marshall có 2 ca đầu tiên.

Ngày 30 tháng 10 năm 2020 thế giới lập kỷ lục số ca, hơn 573.000/ngày, châu Âu cũng lập kỷ lục số ca suýt soát 300.000 ca/ngày, Mỹ lập kỷ lục thế giới số ca của một nước trong ngày 101.000 ca/ngày bỏ qua kỷ lục của Ấn Độ 16 tháng 9 (hơn 97.800 ca/ngày). Ngày 4 tháng 11 thế giới lập kỷ lục số người chết vì dịch/ ngày (hơn 9.000 chết / ngày), các nước Mỹ, Nga, Đức, Ba Lan, Ukraina, Séc, Rumani, Marốc, Bồ Đào Nha... đang điểm nóng cũng lập kỷ lục số ca mới tính theo ngày ở mỗi nước. Ngày 5 tháng 11 thế giới lập kỷ lục mới số ca /ngày (hơn 604.000 ca / ngày) và chỉ sau hôm trước về số ca chết (với hơn 8.700 chết/ngày), Mỹ lập kỷ lục số ca / ngày (hơn 118.200 ca /ngày -theo Worldometers, hơn 121.000 ca -theo Johns Hopkins), châu Âu cũng lập kỷ lục số ca / ngày (hơn 310.700 ca /ngày, chiếm hơn 50% toàn thế giới, hơn 3.600 chết/ngày), Pháp, Tây Ban Nha, Ý, Đức, Ba Lan, Ukraina,... lập kỷ lục số ca mới / ngày. Ngày 11 tháng 11 Mỹ lại lập kỷ lục mới số ca. Tổng ca chết trong ngày toàn thế giới là hơn 10.100. Số ca mới trong ngày cao nhất châu Âu, nhưng tính theo nước vẫn là Mỹ. Hai nước, vùng ngày 10-11/11 có ca chết đầu tiên là Saint LuciaGibraltar. Ngày 11/11 Vanuatu có ca nhiễm đầu tiên (trước đó 9/11 American Samoa có ca đầu tiên nhưng có tài liệu gộp vào ca của Mỹ). Ngày 14/11 thế giới một ngày có 575.748 ca, 8.811 tử vong (tính đến 8h10 sáng 15/11 Việt Nam, theo Worldometter, thế giới trong một ngày 575.576 ca, 8.811 tử vong, các nước Tây Ban Nha, Thụy Điển, Oman, Venezuela... chưa số liệu mới, Thụy Sĩ chưa có số liệu ca mới, riêng Mỹ chưa có số liệu cập nhật một số bang, một số hạt / quận một số bang, số liệu của quân đội, nhà tù liên bang...). Ngày 19 tháng 11 Samoa có ca đầu tiên. Tháng 11 là tháng thế giới nhiều ca và nhiều tử vong nhất từ đầu dịch, với nhiều ngày trên 600.000 ca /ngày, trên 10.000 tử vong / ngày. Saint-Barthélemy có tử vong đầu tiên vào 30 tháng 11. Ngày 2 tháng 12 Mỹ lập kỷ lục mới tử vong của một nước trong ngày khi ghi nhận 2.833 tử vong (cao hơn kỷ lục ngày 21 tháng 4 có 2.744 tử vong) (theo JHU thì có 2.658 trường hợp tử vong do Covid-19 đã được báo cáo cao hơn kỷ lục trước đó ngày 15 tháng 4 có 2.603 tử vong), số ca trong ngày cũng hơn 203.000 ca cao hơn cả châu Âu hơn 200.000 ca trong ngày. Theo Dự án Theo dõi Covid (CTP), hôm thứ Tư, 100.226 người đã phải nhập viện với Covid-19, kỷ lục ở Mỹ. Tử vong toàn cầu cũng kỷ lục, con số 12.378 ngày 2 tháng 12. Ngày 3 tháng 12, toàn cầu kỷ lục mới 679.194 ca, tử vong 12.683, Mỹ cũng lập kỷ lục 218.576 ca mới và 2.918 tử vong, mặc dù vậy châu Âu vẫn là khu vực tử vong cao nhất trong ngày (5.489 / ngày). Số người nhập viện ở Mỹ cũng lập kỷ lục, 100.667 người / ngày. Số ca trong 14 ngày gần nhất đến 3/12 ở các điểm nóng: Mỹ hơn 2.395.000 (không tính các vùng quốc hải), Ấn Độ gần 576.500, Brazil gần 491.000, Ý gần 370.000, Nga gần 360.000, Đức gần 251.000, Ba Lan gần 241.000, Anh gần 229.000, Ukraine hơn 188.100, Iran gần 187.700, Pháp gần 179.500, Tây Ban Nha hơn 140.400...(toàn thế giới hơn 8 triệu /14 ngày). Ngày 9 và 10 tháng 12 một số nước điểm nóng lại lập kỷ lục số ca theo ngày như Đức, Panama, Nhật, Croatia,... hay lập kỷ lục tử vong theo ngày như Mỹ, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Đức, Ukraine, Indonesia,... Ngày 11 tháng 12 thế giới lại lập kỷ lục ca mới và tử vong tính theo ngày, Mỹ cũng kỷ lục ca mới tính theo ngày. Ngày 16 tháng 12 thế giới lại lập kỷ lục số ca nhiễm và chết tính theo ngày, và Mỹ nước đứng đầu cũng lập kỷ lục ca nhiễm và chết (lần đầu vượt quá 3.500 chết/ngày).

Tính đến 18 tháng 12 trong 2 tuần gần nhất, các nước tăng số ca nhanh nhất thứ tự là Mỹ, Braxin, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Đức, Ý, Anh, Ukraina, Iran, Pháp, Ba Lan (hơn 150.000 ca /2 tuần), tiếp đến là Mexico, Colombia, Tây Ban Nha...Khu vực đứng đầu ca mới và tử vong mới là châu Âu, và Mỹ vẫn là nước đứng đầu về số ca mới và tử vong mới mỗi ngày. Ngày 21 tháng 12 Nam Cực có các ca đầu tiên, là châu lục cuối cùng có dịch. Eritrea có ca tử vong đầu tiên 22 tháng 12. Mông Cổ có tử vong đầu tiên ngày 29 tháng 12.

Tính đến hết năm 2020, chỉ còn 8 nước (Triều Tiên, Turkmenistan, một số quốc đảo nhỏ nam Thái Bình Dương) và một số vùng lãnh thổ rất nhỏ chưa bị Covid-19. Đã có gần 84 triệu ca toàn cầu, hơn 1,8 triệu ca tử vong trên tất cả các châu lục. Kỷ lục ca mới theo ngày là ngày 31 tháng 12 với hơn 738.800 ca / ngày, và kỷ lục tử vong theo ngày là 30 tháng 12 với hơn 15.100 tử vong / ngày. Mỹ đứng đầu số ca cũng lập kỷ lục tử vong vào 30 tháng 12 với 3.880 tử vong / ngày. Dịch bệnh những ngày cuối năm ngoài nghiêm trọng tại Mỹ, thì cũng nghiêm trọng hay là tăng nhanh tại nhiều nước khác như Brazil, Anh, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Đức, Ý, Pháp, Colombia, Hà Lan, Nam Phi, Mexico, Ukraina, Tây Ban Nha, Ba Lan (trên 100.000 ca / 14 ngày tuần gần nhất, tính đến cuối năm)... (cụ thể ở dưới). Dịch bệnh gây tác động xấu kinh tế thế giới, giảm tuổi thọ trung bình người dân nhiều quốc gia, và những hậu quả xấu khác đối với xã hội.

Tuần đầu năm 2021 dịch vẫn rất nghiêm trọng, Anh ngày 5 tháng 1 lập kỷ lục số ca trong ngày (trên 60.000 ca, chỉ xếp sau Mỹ), Mỹ trên 3.500 tử vong, Đức gần 1.200 tử vong xếp 2 vị trí đầu tử vong trong ngày. Grenada, Seychelles, quần đảo Faeroe lần lượt có các ca tử vong đầu tiên vào các ngày 3,4,6 tháng 1. Mỹ lập kỷ lục mới theo ngày ca nhiễm (hơn 279.000) và tử vong (hơn 4.200) ngày 7 tháng 1, Brazil lập kỷ lục theo ngày số ca (hơn 80.000 ca) ngày 7, các nước châu Á lập kỷ lục số ca theo ngày: Nhật Bản (hơn 6.000 ca), Li băng (hơn 4.700 ca), Malaysia (hơn 3.000 ca) ngày 7, Indonesia (hơn 10.000 ca) ngày 8...Butan có ca tử vong đầu tiên ngày 8 tháng 1. Micronesia có ca đầu tiên 11 tháng 1. Nửa đầu tháng 1/2021 có 5 nước là Mỹ, Anh, Đức, Brazil, Mexico có một số ngày ghi nhận trên 1.000 ca tử vong / ngày (Mỹ một số ngày trên 4.000 ca tử vong / ngày), trước đó chỉ có thêm Ấn Độ và Pháp cũng đã từng ghi nhận trên 1.000 tử vong / ngày (không tính Trung Quốc cộng dồn số liệu tử vong 17/4 và Argentina cũng làm tương tự ngày 1/10/2020). Theo CNN, hơn 38.000 người Mỹ đã chết vì Covid-19 trong hai tuần đầu tiên của năm mới, và đại dịch sẽ làm giảm tuổi thọ trung bình của người Mỹ hơn một năm xuống còn 77,48 năm vào năm 2020 - thấp hơn bất kỳ năm nào kể từ năm 2003 (sẽ làm giảm tuổi thọ của người da đen và La tinh nhiều hơn người da trắng từ ba đến bốn lần). Hơn 3 triệu trường hợp mắc mới tại Mỹ đã được báo cáo trong 13 ngày đầu năm. Tính đến 14/1, các nước có tỷ lệ lây nhiễm cao nhất trên quy mô dân số trong 7 ngày gần nhất thứ tự là Ailen, Israel, Andorra, Séc, Bồ Đào Nha, Anh, Slovenia, Panama, Mỹ, Montenegro, Libăng, San Marino, Tây Ban Nha, Slovakia, Lítva, Thụy Điển, Látvia; có tỷ lệ tử vong cao nhất trên quy mô dân số trong 7 ngày gần nhất thứ tự Séc, Anh, Monaco, Slovakia, Lítva, Thụy Điển, Bồ Đào Nha, Slovenia, Hungary, Panama, Đức, Mỹ, Látvia, Nam Phi; tỷ lệ tử vong trong tổng số ca bệnh cao nhất là Yemen, Mexico, Ecuador, chỉ so sánh 18 nước trên 1 triệu ca đứng đầu là Mexico, Iran, Peru, Ý, Nam Phi, Anh, Colombia.

Theo Đại học Johns Hopkins 16/1, chỉ mất 6 tuần để ghi nhận khoảng 500.000 ca tử vong do Covid-19 trên khắp thế giới. Trong khi đó thế giới đã mất hơn sáu tháng để báo cáo 500.000 trường hợp tử vong đầu tiên của Covid-19. Tính đến sáng 16/1, Mỹ đã báo cáo 392.351 trường hợp tử vong do Covid-19. Số người chết chính thức trên toàn cầu do đại dịch coronavirus đã vượt qua con số 2 triệu người vào 15/1. Với việc xét nghiệm vẫn còn thiếu sót ở nhiều quốc gia, có thể có thêm hàng trăm nghìn trường hợp tử vong nữa chưa cộng vào. Saint Vincent and the Grenadines có ca tử vong đầu tiên 16/1. Tại Mỹ, Los Angeles là hạt đầu tiên vượt quá 1 triệu ca. Ngày 20 tháng 1 thế giới lại kỷ lục ca tử vong (17.363 tử vong), trong đó đứng đầu tử vong là các nước Mỹ, Anh, Mexico, Brazil và Đức trên 1000 tử vong / ngày (Anh, Mexico lập kỷ lục tử vong / ngày), là những nước thường xuyên ghi nhận trên 1.000 tử vong / ngày trong tháng 1 năm 2021. Một số nước kỷ lục số ca / ngày (Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,...).

Tính đến 28 tháng 1, theo CNN lấy từ WHO, biến thể Covid -19, được gọi là B.1.1.7 hoặc VOC 202012/01 lần đầu tiên thấy ở Anh đã xuất hiện ở ít nhất 70 quốc gia (Việt Nam ngày 2 tháng 1 phát hiện BN1435 nhiễm biến thể mới này, ngày 27 tháng 1 phát hiện một nữ công nhân Hải Dương dương tính nCoV khi sang Nhật nhiễm biến chủng mới, sáng ngày 28 tháng 1 cũng công bố ca lây nhiễm ngoài cộng đồng từ ca nhiễm biến chủng mới này, ngày 1/2 công bố BN1660 ở TP.HCM là ca thứ 2 nhiễm biến thể nCoV từ Anh, ngày 2 tháng 2 công bố nhiều ca ở miền Bắc trước đó nhiễm biến thể nCoV từ Anh). Cũng theo WHO, một biến thể đầu tiên được xác định ở Nam Phi đã được phát hiện ở 31 quốc gia, Đông Nam Á là khu vực duy nhất của WHO chưa báo cáo trường hợp mắc biến thể mới này, nó được biết đến rộng rãi với cái tên B.1.135. Biến thể P.1, lần đầu tiên được xác định ở Brazil, đã được phát hiện ở tám quốc gia. Báo cáo này thêm sáu quốc gia vào bản cập nhật gần nhất về các biến thể. Việt Nam ngày 31/1/21 cũng đã công bố ca nhiễm biến thể nCoV từ Nam Phi (B.1.135) đầu tiên, là BN1442, một ca nhập cảnh.

Từ 5 tháng 12 năm 2020 tại Nga đã tiến hành tiêm chủng vắc xin, từ 8 tháng 12 nước Anh bắt đầu tiêm chủng vắc xin diện rộng tiếp theo là nhiều nước khác cũng tiến hành tiêm chủng. Tuy nhiên tháng 12 năm 2020 và tháng 1 năm 2021 dịch bệnh vẫn gia tăng ở nhiều nước (do khí hậu lạnh đi và nhiều ngày lễ người dân hay đến các điểm công cộng, cộng với sự xuất hiện các biến thể mới của virus Corona). Có những nhận định lạc quan dịch sẽ giảm dần từ tháng 2 năm 2021. Trên thực tế thì đa số các ca nhiễm ở các nước phát triển, tuy nhiên các nước này tỷ lệ dân số được tiêm chủng cao hơn các nước nghèo do đó áp lực đại dịch lên các nước nghèo là cao hơn.

Riêng nước Mỹ, Đại học Johns Hopkins cho biết cả nước phải mất 311 ngày, cho đến ngày 27 tháng 11 năm 2020, để đạt được tổng số 13 triệu trường hợp Covid-19 đầu. Nhưng nước Mỹ chỉ mất 64 ngày để đạt được 13 triệu trường hợp thứ hai. Tổng cộng 26 triệu ca ngày 30 tháng 1.

Tính đến 31/1/21, trong tuần gần nhất, Mỹ có 1,04 triệu ca, Brazil 360.104 ca, Tây Ban Nha 243.559 ca, Anh 170.236 ca, Pháp 143.865 ca, Nga 129.101 ca, Mexico 101.041 ca là các nước trên 100.000 ca/tuần. Các nước có tỷ lệ ca trong tuần tăng nhanh nhất so với tuần trước là Việt Nam 2.345,5%, Papua New Guinea 1.500%, Thái Lan 468,1%, Brunei, một số nước châu Phi...

Tính đến 31/1/21 trong hai tuần gần nhất, các nước nhiều ca mới nhất là Mỹ 2,23 triệu ca, Brazil 716.632 ca, Tây Ban Nha 490.955 ca, Anh 442.443 ca, Pháp 286.829 ca, Nga 277.969 ca, Mexico 222.832 ca, tiếp đến là Colombia, Ấn Độ, Đức, Ý, Bồ Đào Nha, Indonesia, Argentina, Nam Phi, trên 100.000 ca/ 2 tuần.

Tính đến 31/1/21, trong 2 tuần gần nhất Mỹ có 43.696 tử vong, Mexico 17.832 tử vong, Anh 16.948 tử vong, Brazil 14.657 tử vong, Đức 10.262 tử vong, tiếp đến là Nga, Nam Phi, Ý, Pháp, Colombia, Tây Ban Nha, đều trên 5.000 tử vong.

Trong hai tuần gần nhất đến 31/1/21, Bồ Đào Nha, Andorra, Israel, Montenegro, Tây Ban Nha, Séc xếp đầu về tỷ lệ ca mới trên dân số, Bồ Đào Nha, Anh, Slovakia xếp đầu về tỷ lệ tử vong trên dân số. Tính trong một tháng đầu năm 2021 toàn cầu khoảng 19,7 triệu ca mới, khoảng 410.000 tử vong mới. Tuy nhiên số ca có xu hướng giảm dần nửa cuối tháng 1. Nửa đầu tháng 2 năm 2021 số ca trên toàn cầu có xu hướng tiếp tục giảm mặc dù tăng cục bộ ở một số ít nước, hay vẫn nghiêm trọng như tại Séc, Montenegro, Israel, Slovakia, Mỹ, Thụy Điển, UAE, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Latvia, Albania...Tử vong giảm chậm hơn. Đến đầu tháng 3 năm 2021 số ca và tử vong vẫn tiếp tục có xu hướng giảm, tuy nhiên WHO ngày 1 tháng 3 cho biết, số ca mắc Covid-19 mới trên toàn cầu trong tuần gần nhất đã lần đầu tiên tăng sau 7 tuần. Các ca nhiễm được báo cáo tăng ở 4/6 khu vực của WHO: châu Mỹ, châu Âu, Đông Nam Á và Trung Đông. Một số nước trước đây ít dịch lại có xu hương tăng nhanh như Cuba hay Uruguay ở châu Mỹ, Malaysia, Labanon ở châu Á, Estonia, Latvia ở châu Âu hay Zambia ở châu Phi... Ở châu Âu dịch vẫn nghiêm trọng ở các nước Séc, Thụy Điển, Montenegro, Xécbia, Estonia, Latvia, Hungary, một số vùng của Pháp, Ý, Ba Lan..., tại châu Á là UAE, Gioócđani. Một vài ngày Brazil đã vượt qua Mỹ về số ca mới tính theo ngày, và sẽ vượt qua Ấn Độ. Số tử vong của Mỹ và Brazil còn cao, thường xuyên trên 1.000 tử vong / ngày, Mexico một số ngày cũng trên 1.000 tử vong / ngày. Tỷ lệ tử vong cao nhất trên dân số tuần gần nhất đến 3 tháng 3 là Slovakia, Séc, Montenegro, Hungary. Ngày 11 tháng 3, Campuchia có ca tử vong đầu tiên. Ngày 12 tháng 3 Brazil vượt Ấn Độ, trở thành nước có số ca nhiễm cao thứ hai thế giới. Ngày 20 tháng 3, Wallis and Futuna có ca tử vong đầu tiên. Trong 7 ngày gần nhất tính đến 19 tháng 3 dịch nghiêm trọng nhất (tỷ lệ ca mới trên dân số) tại một số nước Đông Âu (Estonia, Ba Lan, Séc, Hungary, Serbia, Montenegro, Macedonia...), một số nước Trung Đông (Jordan, Palestin), tiếp đến là một số nước khác châu Âu như Pháp, Ý, Áo, Thụy Điển... và Nam Mỹ như Brazil, Paraguay...Tỷ lệ tử vong trên dân số cao nhất cùng thời gian là ở Séc, Slovakia, Hungary, Bulgaria, Bosnia, Montenegro ở châu Âu, và Brazil ở châu Mỹ.

Tính đến 1 tháng 4 các nước có tỷ lệ ca nhiễm trên dân số cao nhất trong vòng 14 ngày là Hungary, Estonia, Jordan, Xécbia, Ba Lan, Séc, Uruguay, Montenegro..., các nước có số ca tăng nhanh nhất trong vòng 14 ngày so với 14 ngày trước đó là Lesotho, Djibouti, Đông Timor, Cameroon, Iceland, Papua New Guinea, Bangladesh, Mông Cổ. Trong số 10 quốc gia có tổng số ca nhiễm cao nhất thì tăng nhanh nhất về tỷ lệ so sánh trong vòng 14 ngày so với 14 ngày trước là ở Ấn Độ, tiếp đến là ở Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi đó tỷ lệ giảm cao nhất ở Anh, và giảm ở các nước México, Nga, Ý, trong khu vực Đông Nam Á tăng nhanh nhất là Đông Timor, Philippines, Singapore và Campuchia. Tỷ lệ tử vong cao nhất trên dân số đến 1 tháng 4 trong 7 ngày gần nhất là Hungary, Bosnia, Bungari, Macedonia, Séc, Brazil,...Sau nhiều tuần số ca nhiễm và tử vong có xu hướng giảm, thì dịch có xu hướng tăng trở lại từ nửa cuối tháng 3, với nhiều ngày toàn cầu trên 600.000 ca mới và trên 10.000 tử vong mới mỗi ngày.

Đến ngày 11 tháng 4, Ấn Độ vượt qua Brazil trở lại vị trí thứ hai về số ca nhiễm, tuy nhiên Brazil vẫn thường xuyên trong đầu tháng 4 đứng đầu về số tử vong mỗi ngày. Dịch cũng tăng nhanh ở nhiều nước như Campuchia, Mông Cổ, Timor, Papua New Guinea, Uruguay, Cuba, Jordan, Thái Lan... Trong 7 ngày gần nhất tính đến 11 tháng 4, tỷ lệ số ca mới nhiều nhất trên dân số là Uruguay, Thụy Điển, Síp, Thổ Nhĩ Kỳ, Bahrain, Xécbia, Estonia, Ba Lan, Hungary, và 2 nước nhỏ Andorra và San Marino. Tỷ lệ tử vong trên dân số trong vòng 7 ngày đến 11 tháng 4 cao nhất là Hungary, Bosnia, Macedonia, Bungari, Montenegro, Uruguay, Brazil, Xlôvakia, Ba Lan, Séc. Tính đến 13 tháng 4, đứng đầu ca mới trong vòng 7 ngày gần nhất là Ấn Độ (725.932), Brazil (417.228), Mỹ (414.562), Thổ Nhĩ Kỳ (324.388), Pháp (221.357), Iran (130.058), Ba Lan (129.938), Argentina (123.970), Đức (114.702), Ý (92.887), Ukraine (92.690), Colombia (84.701), Philíppin (63.465), Peru (63.111), Tây Ban Nha (52.308), Nga (51.093), Canada (50.628), Irắc (45.608), Chile (45.140), Hà Lan (42.796), Bangladesh (40.305), Hungary (33.498), Pakistan (29.732), Indonesia (29.308), Séc (25.939), Mexico (25.331),...và đứng đầu tử vong trong 7 ngày gần nhất là Brazil (17.670), Mỹ (5.878), Mexico (4.717), Ấn Độ (4.002), Ba Lan (3.416), Ý (2.865), Ukraine (2.320), Nga (2.121),... Tỷ lệ tử vong trên số ca nhiễm Yemen đứng đầu thế giới, tiếp theo là đến Mexico, Syria, Sudan, Ai Cập..., thấp nhất là Singapore, tiếp đến là Timor, Mông Cổ, Qatar,... (một số nước có ca nhiễm nhưng chưa có tử vong).

Tính đến 17 tháng 4, đứng đầu số ca mới trong 7 ngày qua lần lượt là Ấn Độ, Mỹ, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Iran, Argentina, Đức, tăng nhanh nhất nhóm đầu này là Ấn Độ tăng 62% so sánh với số ca tuần trước, Đức tăng 40% so sánh với số ca tuần trước, Iran tăng 37% so sánh với số ca tuần trước, trong số các nước có trên 1.000 ca trong tuần thì tăng nhanh nhất là Thái Lan, tăng 325% so sánh với số ca tuần trước. Brazil đứng đầu tử vong trong tuần, xếp tiếp theo lần lượt là Ấn Độ, Mỹ, Ba Lan. Toàn thế giới trong tuần số ca mới tăng 16% và số tử vong tăng 8% khi so sánh với số ca và tử vong tuần trước. Tới 18 tháng 4 trong vòng một tuần đã có hơn 5,268 triệu ca mới và gần 82.000 tử vong, số ca mới này là đỉnh dịch, riêng ngày 15 lên tới hơn 845.000 ca, cao nhất kể từ khi có dịch, cao hơn kỷ lục trước đó vào 8 tháng 1. Ngày 21 và 22 và 23 tháng 4 thế giới lập kỷ lục về số ca nhiễm một ngày, hơn 888.000 và hơn 892.000 ca, và hơn 896.000 ca, đặc biệt Ấn Độ liên tục có kỷ lục mới số ca mỗi ngày, ngày 22 tháng 4 hơn 332.000 ca, ngày 23 tháng 4 hơn 345.000 ca, kỷ lục ghi nhận ở một quốc gia, dịch hoành hành ở nước này một phần là do sự lây lan của biến chủng mới mang tên B.1.617. Tính đến 22 tháng 4, Campuchia, Timor, Papua New Guinea, Uruguay, Yemen, Lào và Cuba là các nước tăng gấp đôi tổng số ca trong thời gian nhanh nhất. Mông Cổ, Campuchia, Uruguay đứng đầu các nước tăng gấp đôi số ca tử vong trong thời gian nhanh nhất. Lào là nước duy nhất có dịch quy mô dân số trên 1 triệu chưa có tử vong.

Tính từ nửa sau tháng 4 năm 2021, châu Á trở thành khu vực dịch tăng nhanh nhất. Tính đến 25 tháng 4, 7 ngày gần nhất châu Á số ca tăng tới 29% và số tử vong tăng tới 50% khi so sánh với số ca và số tử vong của 7 ngày trước nữa, trong đó riêng Ấn Độ chiếm tới gần 2/3 số ca và trên 1/2 tử vong của châu Á tính trong 7 ngày. Số ca tăng gấp đôi tính theo thời gian nhanh nhất tại Lào, Campuchia, Mông Cổ, Timor, Papua New Guinea, Thailand ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Yemen ở Tây Á, Uruguay và Cuba ở Mỹ Latinh. Đây đều là các nước từng được coi là kiểm soát dịch hàng tốt nhất thế giới suốt một thời gian dài (trước đó một số nước như Hy Lạp, Jordan... từng được coi là kiểm soát dịch tốt nhưng cũng bị làn sóng lây lan mạnh quét qua). Ấn Độ ngày 24 tháng 4 lại lập kỷ lục mới về số ca một ngày tính theo thống kê từng nước, gần 350.000 ca, và tử vong cũng kỷ lục ở quốc gia, gần 2.800 tử vong (con số này vẫn thấp hơn con số của Mỹ và Brazil từng ghi nhận hơn 4.000 tử vong một ngày). Vanuatu có tử vong đầu tiên vào 20 tháng Tư.

Tính đến hết tháng 4 (30/4/2021), toàn thế giới đã có suýt soát 152 triệu ca nhiễm, gần 3,2 triệu ca tử vong. Tuần gần nhất có gần 5,8 triệu ca với hơn 94.000 tử vong, tăng 1% và 8% khi so sánh với số liệu tuần trước. Khi so sánh với số liệu tuần trước, thì số ca tuần gần nhất giảm ở châu Âu, Bắc và Nam Mỹ, châu Phi và châu Đại Dương, nhưng tăng 10% ở châu Á, số ca tử vong giảm ở châu Âu, Bắc Mỹ, châu Phi và châu Đại Dương, nhưng tăng 35% ở châu Á và tăng 4% ở Nam Mỹ. Trong số 10 nước có số ca mới lớn nhất trong tuần gần nhất thì giảm ở 8 nước Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Argentina, Iran, Đức, Colombia, Ý, và chỉ tăng ở Ấn Độ (tăng 23%), và Brazil (tăng 6%). Ấn Độ cũng tăng 61% số ca tử vong mới, khi so sánh với số liệu tuần trước. Trong số các nước châu Á, các nước có số ca nhiễm mới tăng nhanh nhất trong tuần khi so sánh với tuần trước là Lào (tăng 470%), Nepal (tăng 144%), Sri Lanka (tăng 141%), Đài Loan, Myanmar, Maldives, Việt Nam, Campuchia, Thái Lan, Malaysia...Ngày 30 tháng 4 Ấn Độ cũng lập kỷ lục mới về số ca mới, khi có 402.110 ca mới và con số tử vong là 3.522.

Tính đến 7 tháng Năm, tuần gần nhất số ca và tử vong đều giảm 4% so với số ca và tử vong tuần trước. Về số ca, châu Âu giảm sâu nhất tới 23%, trong khi châu Á tăng nhanh nhất, 3% so với tuần trước. Trong số 10 nước có số ca cao nhất trong tuần, thì chỉ có Ấn Độ là tăng 9% số ca (số liệu hơn 2,73 triệu ca, gần 26.000 tử vong trong tuần), các nước khác Brazil, Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Argentina, Pháp, Iran, Colombia, Đức, Ý đều giảm số ca. Trong số các nước ghi nhận trên 100 ca trong tuần thì tăng nhanh nhất theo tỷ lệ % so với số ca tuần trước là Seychelles, Nepal, Haiti, Vietnam, Maldives, Trinidad and Tobago, Sri Lanka. Các nước Lào, Campuchia, Timor, Mông Cổ, Thái Lan, Uruguay, Papua New Guinea, Yemen, Seychelles, Cameroon, Fiji là các nước có số ca tăng gấp đôi nhanh nhất tính đến 6 tháng Năm. Viện IHME của Mỹ cho rằng gần 6,9 triệu người đã tử vong vì Covid-19 trên toàn thế giới, nhiều gấp đôi so với con số báo cáo chính thức. Phân tích chỉ ra Mỹ vẫn là nước có tử vong cao nhất thế giới, nhưng con số thực tế có thể hơn 900.000 ca, thay vì gần 580.000 như báo cáo chính thức. Đứng thứ hai sau Mỹ không phải Brazil mà là Ấn Độ, theo IHME. Quốc gia này đã báo cáo hơn 230.000 người chết vì đại dịch, nhưng phân tích cho rằng con số này là hơn 650.000 người. Mexico và Nga là hai quốc gia tiếp theo, với số ca tử vong ước tính lần lượt là 617.000 và 590.000, thay vì con số 218.000 và 110.000 ca như số liệu được công bố. Tính đến 5 tháng Năm, các nước Mỹ, Ấn Độ, Anh, Brazil, Đức, Pháp, Ý đứng đầu về số người được tiêm vắcxin nhưng tỷ lệ người được tiêm cao nhất trên dân số đứng đầu là Israel, Anh, UAE, Bahrain, Mỹ, Chile, Hungary, Uruguay. Mặc dù số ca tiếp tục cao, nhưng dự báo kinh tế thế giới 2021 của một số tổ chức quốc tế là lạc quan, và các giải thể thao hàng đầu như Euro 2020, Copa América 2021, và Olympic Tokyo 2020 vẫn dự kiến tổ chức. Ấn Độ trong hai ngày 7 và 8 tháng Năm đã có trên 4.100 ca tử vong mỗi ngày theo công bố chính thức, số liệu này chỉ kém Brazil từng ghi nhận trên 4.200 tử vong / ngày, và Mỹ từng ghi nhận trên 4.400 tử vong/ ngày). Maldives, Baranh, Uruguay, Seychelles, Cáp Ve, Síp đứng đầu về tỷ lệ ca mới trên quy mô dân số trong tuần (7 ngày) tính đến 8 tháng 5. Sáng ngày 9 tháng Năm, Lào có ca tử vong đầu tiên, là người Việt Nam sinh sống tại thủ đô Vientiane. Tinh đến 15 tháng Năm, trong vòng 7 ngày số ca toàn thế giới giảm 10% và tử vong toàn thế giới giảm 3% so với số liệu 7 ngày trước đó, số ca nhiễm mới 7 ngày của ba nước đứng đầu ca mới Ấn Độ giảm 9%, Brazil tăng 3%, Mỹ giảm 22% so với số liệu 7 ngày trước, trong số các nước có trên 500 ca nhiễm trong vòng 7 ngày thì tăng nhanh nhất khi so sánh tỷ lệ % của 7 ngày mới nhất với 7 ngày trước là Papua New Guinea, Vietnam, Maldives, Timor-Leste, Dominican Republic. Tại châu Á, tăng nhanh nhất trong vòng 7 ngày so với 7 ngày trước tính theo tỷ lệ % là Việt Nam, Đài Loan, Maldives, Timor, Myanmar, Nhật Bản, Sri Lanka, Malaysia.

Tính đến hết tháng 5 năm 2021 thế giới đã có trên 171 triệu ca và trên 3,56 triệu tử vong, trong 7 ngày gần nhất số ca mới giảm 17%, và tử vong giảm 9% so với số liệu công bố 7 ngày trước đó. Trong số 3,4 triệu ca mới trong vòng 7 ngày thì châu Á hơn 1,78 triệu (trên 50%) giảm 22% so với số liệu 7 ngày trước, Nam Mỹ 0,96 triệu ca tăng 0,3% so với số liệu 7 ngày trước, số ca của châu Âu và Bắc Mỹ, châu Đại Dương giảm so với số liệu 7 ngày trước, nhưng châu Phi lại tăng 7%. Ấn Độ vẫn đứng đầu về số ca mới tính theo tuần, nhưng giảm 29% và tử vong giảm 13% so với tuần trước (trước đó nước này kỷ lục số ca mới và tử vong mới trong 1 ngày, ngày 6 tháng 5 ghi nhận hơn 414.000 ca và 18 tháng 5 ghi nhận hơn 4.500 tử vong). Tiếp theo về số ca nhiễm mới trong tuần là Brazil, Argentina, Colombia và Mỹ. Tại châu Á, chỉ tính các nước ghi nhận trên 1.000 ca trong tuần thì tăng nhanh nhất theo tỷ lệ % so với số liệu tuần trước đó là Afghanistan, Vietnam, Palestine, Mông Cổ, Campuchia, Philippin, Thái Lan, UAE và Malaixia. Xếp đầu châu Á về tỷ lệ tử vong so với số liệu tuần trước là Đài Loan. Còn với Trung Quốc nước đầu tiên bị dịch, tụt xuống xếp thứ 98 về số ca và thứ 61 về tử vong tính đến cuối tháng 5 năm 2021, tính từ đầu năm 2021 đến hết tháng 5 Trung Quốc mới có 2 ca tử vong.

Trong nửa đầu tháng 6 dịch tiếp tục có xu hướng giảm trên quy mô toàn thế giới nhưng vẫn tăng cục bộ một số nước. Trong tuần gần nhất tính đến 15 tháng 6 số ca nhiễm mới giảm 6% và tử vong giảm 10% so với số liệu của 7 ngày trước nữa. Dịch có xu hướng tăng ở châu Phi và Nam Mỹ nhưng giảm ở các khu vực khác, kể cả châu Á là nơi có nhiều ca mới nhất. Đứng đầu số ca mới trong 7 ngày gần nhất là Ấn Độ, Brazil, Colombia, Argentina, Mỹ, Nga, Iran, Indonesia, Nam Phi, Anh. Đứng đầu tử vong trong 7 ngày gần nhất là Brazil sau đó là Ấn Độ. Tính đến 15 tháng 6 số ca mới tăng nhanh nhất trong 7 ngày khi so sánh với 7 ngày trước (chỉ tính các nước trên 1.000 ca trong tuần) tính theo tăng % lần lượt là Ruanđa, Dămbia, Namibia, Myanma, Nam Phi, Mông Cổ, Kênya, Uganda, Ôman, Nga và Anh. Tính đến 25 tháng 6, trong 7 ngày gần nhất số ca tăng 0,6% và tử vong giảm 3% so với 7 ngày trước nữa. Brazil đứng đầu số ca mới và tử vong mới trong vòng 7 ngày, xếp tiếp theo về ca mới lần lượt là Ấn Độ, Colombia, Argentina, Nga, Indonesia, Nam Phi, Anh, Mỹ, Iran. Trong số các nước này tăng nhanh nhất về % so với 7 ngày trước là Indonesia, Nam Phi và Anh. Xếp thứ 2 đến 10 về tử vong trong 7 ngày lần lượt là Ấn Độ, Colombia, Argentina, Nga, Indonesia, Mỹ, Peru, Mexico, Nam Phi. Số ca nhiễm mới trong vòng 7 ngày so với 7 ngày trước nữa giảm ở Nam Mỹ (nơi ghi nhận nhiều ca nhất), châu Á, nhưng lại tăng ở châu Âu (nhất là Nga, Anh), Bắc Mỹ (giảm nhẹ ở Mỹ nhưng tiếp tục tăng ở Mexico, Cuba là 2 nước xếp thứ 2 và 3), châu Phi (tăng ở cả Nam Phi và Tuynidi, Dămbia đứng 3 vị trí đầu) và châu Đại Dương (Fiji đứng đầu ca mới). Đông Nam Á có 4 nước (Indonesia, Philippin, Malaysia, Thái Lan) nằm trong top 10 nước nhiều ca mới nhất trong tuần ở châu Á, so với thế giới là trong top 20. Đếm thiếu số ca nhiễm và tử vong là vấn đề toàn cầu, ngay cả ở những quốc gia có nhiều xét nghiệm. Tổ chức Y tế Thế giới tháng 5 năm 2021 cho biết số ca tử vong có thể gấp hai hoặc ba lần dữ liệu chính thức. Tình hình đặc biệt nghiêm trọng ở các nước đang phát triển, nơi khả năng tiếp cận dịch vụ y tế và xét nghiệm nCoV hạn chế hơn. Tính đến hết tháng 6, có 23,5% dân số thế giới đã được tiêm ít nhất một liều vắc-xin COVID-19. 3,08 tỷ liều đã được sử dụng trên toàn cầu, và 40,24 triệu liều hiện được sử dụng mỗi ngày. Chỉ 0,9% người dân ở các nước thu nhập thấp đã được tiêm ít nhất một liều. Tỷ lệ người được tiêm cao nhất đến hết nửa năm 2021 thuộc về Anh, Chile, Uruguay, Israel, Baranh, Hunggary, Ý, Đức, Tây Ban Nha...Số người được tiêm cao nhất là Ấn Độ, Mỹ, Brazil, Đức, Anh, Thổ Nhĩ Kỳ, Ý, Pháp, Mexico (chỉ tính các nước chia nhỏ liều làm 2)...Tỷ lệ dân số được tiêm ít nhất một liều vắc xin cao nhất là Canada, Côoét, Anh, tỷ lệ dân số được tiêm đầy đủ liều đứng đầu là Israel, Baranh, Mông Cổ, Anh, Mỹ... Trung Quốc tiếp đến là Mỹ đứng đầu về số người tiêm đủ liều. Châu Âu đứng đầu về tỷ lệ dân tiêm chủng và thấp nhất thuộc về châu Phi. Trong khu vực Đông Nam Á, Singapore đứng đầu tỷ lệ dân được tiêm và thấp nhất là Myanmar và xếp tiếp theo từ dưới lên là Việt Nam. Số người tiêm đủ liều của Việt Nam thấp nhất Đông Nam Á.

Tính đến hết tháng 6 năm 2021 (nửa năm 2021), trong tuần (7 ngày) gần nhất số ca nhiễm tăng 2% nhưng tử vong giảm 6% so với số liệu tuần trước đó. Châu Âu tăng 30%, số ca tăng nhiều nhất là ở Nga và Anh, tử vong của châu Âu tăng 10%, nhiều nhất tại Nga. Bắc Mỹ số ca tăng 11%, tử vong giảm 3%. Mỹ, Mexico, Cuba đứng đầu số ca mới. Châu Á số ca tăng 4%, tử vong giảm 10%, Ấn Độ đứng đầu số ca và tử vong mới nhưng tỷ lệ so sánh giảm, nhưng tỷ lệ so sánh lại tăng ở các nước đứng tiếp theo là Indonesia, Iran, Bănglađét, Malaysia, Irắc. Nam Mỹ số ca nhiễm mới và tử vong giảm lần lượt 14% và 11% khi so với tuần trước. Châu Phi tăng 26% ca nhiễm và 23% tử vong. Châu Đại Dương số ca tăng 42% và tử vong giảm 50%, Úc đứng đầu về tỷ lệ tăng ca nhiễm nhưng đứng đầu ca mắc mới là Phidi. Toàn cầu Brazil, Ấn Độ, Colombia, Nga, Indonesia, Áchentina, Anh, Nam Phi, Mỹ, Iran lần lượt đứng đầu số ca nhiễm mới trong tuần gần nhất và Brazil, Ấn Độ, Colombia, Nga, Áchentina lần lượt đứng đầu tử vong mới trong tuần gần nhất, tính đến hết tháng 6. Trong khoảng 3 tháng từ tháng 4 đến 6 năm 2021, số ca tăng vọt toàn cầu khoảng tháng 4 nhưng giảm dần trong tháng 5 và 6. Một số nước lập đỉnh về số ca nhiễm hay tử vong như tại Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Nepal, Campuchia, Mông Cổ, Ápganixtan ở châu Á, Nga hay ở Brazil,...đáng chú ý là dịch lan mạnh ở nhiều nước / vùng trước đó được xem là chống dịch rất thành công như tại Campuchia, Mông Cổ, Việt Nam, Timor, Đài Loan, Cuba, Uruguay, Papua Niu Ghinê, Phidi, một số nước châu Phi như Dămbia, Namibia, trong tháng 6 dịch cũng có xu hướng tăng nhanh trở lại ở Colombia, Indonesia, Nga, Anh, UAE, Oman, Bănglađét, Myanma...Tuy nhiên một số nước vẫn được xem là khống chế dịch tốt như Trung Quốc, Niu Dilân, Singapore, Brunây, vùng Macao...

Tổng số ca tăng gấp đôi nhanh nhất tính đến hết nửa năm 2021 thuộc về Phidi, sau đó là Saint Kitts và Nevis, Việt Nam, Mông Cổ, Đài Loan, Thái Lan, Campuchia, Timor, Trinidad và Tobago, Sri Lanka. Tổng số tử vong tăng gấp đôi nhanh nhất thuộc về Phidi, Uganđa, Campuchia, Đài Loan, Sri Lanka, Mông Cổ, Thái Lan...

Tính đến 13 tháng 7, trong một tuần gần nhất toàn cầu số ca nhiễm mới tăng 14% và số tử vong tăng 1% so với một tuần trước đó. Tại châu Á, nơi dịch nghiêm trọng nhất, tuần gần nhất số ca nhiễm và tử vong tăng lần lượt 18% và 21% so với tuần trước, số ca nhiễm mới giảm ở Ấn Độ nhưng tăng ở Indonesia, Iran, Bănglađét, Malaysia, Irắc, Thái Lan... là những nước có số ca nhiễm mới cao nhất, trong số các nước có trên 1.000 ca nhiễm trong tuần thì tỷ lệ tăng nhiễm cao nhất khi so sánh số liệu tuần trước là Việt Nam, tiếp đến là Libăng, Mianma, Hàn Quốc, Síp, Pakistan, Israel,...Khu vực Trung Á số ca nhiều nhất là Kadắcxtan cũng có xu hướng tăng lên, ở Đông Bắc Á nhiều ca mới nhất là Nhật Bản cũng có xu hướng tăng lên. Một số điểm nóng khác như Kưdơgưxtan hay Ápganixtan, Nêpan, Oman có xu hướng giảm. Trong Đông Nam Á, số ca nhiễm mới chỉ giảm nhẹ ở Philippin, Campuchia, Timo, nhưng tăng ở 8 nước còn lại, và Indonesia là nước có tử vong cao nhất trong tuần ở châu Á, trên cả Ấn Độ. Châu Âu nơi dịch nặng thứ hai, ca mới tăng 38% và tử vong tăng 2% so với tuần trước, nước Anh đứng đầu về số ca nhiễm mới, tiếp theo là Nga, nhưng nước tăng nhanh nhất là Hà Lan, tăng tới 512% so với số liệu tuần trước. Tây Ban Nha xếp trên Hà Lan, cũng tăng tới 66%. Số ca mới cũng tăng nhanh ở Pháp, Bồ Đào Nha, Hy Lạp...Nam Mỹ, nơi dịch nặng thứ ba, số cá nhiễm mới và tử vong mới giảm 16% và 17%, Brazil có số ca nhiễm mới đứng đầu thế giới nhưng có xu hướng giảm, các nước điểm nóng như Colombia, Argentina cũng có xu hướng giảm. Bắc Mỹ, số ca nhiễm mới và tử vong mới tăng lần lượt 44% và 7%. Mỹ, nước có số ca cao nhất thế giới, nhưng trong tuần chỉ xếp thứ 6 thế giới, số ca nhiễm mới tăng 55% và tử vong tăng 8%. Mexico và Cuba hai vị trí tiếp theo về ca nhiễm mới đều tăng so với tuần trước, Guatemala xếp tiếp theo. Châu Phi số ca mới tăng 11%, tử vong tăng 12%, thống kê ca nhiễm mới Nam Phi xếp đầu và Namibia xếp thứ 7 giảm, nhưng Tuynidi, Dimbabuê, Libi, Dămbia, Môdămbich xếp vị trí 2 đến 6 lại tăng khi so với tuần trước. Châu Đại Dương số ca tăng 57% và tử vong tăng 18% so với tuần trước, Phidi và Úc là hai điểm nóng nhưng xếp 67 và 115 thế giới. Tính đến 15 tháng Bảy, các nước Phidi, Việt Nam, Xanh Kít và Nêvít, Liberia, Mông Cổ, Thái Lan, Dimbabuê, Campuchia đứng các vị trí đầu tăng số ca gấp đôi (Phidi mất 10 ngày, Việt Nam mất 11 ngày...). Các nước Síp, Phidi, Bốtxoana, Tuynidi, Cuba, Anh, Hà Lan đứng đầu tỷ lệ số ca nhiễm mới trên đầu người trong tuần gần nhất. Ở Đông Nam Á, riêng ngày 15 tháng 7 một số nước kỷ lục ca nhiễm trong 1 ngày như Indonesia, Malaysia, Việt Nam, Lào hay kỷ lục tử vong trong 1 ngày như Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Việt Nam. Trong ngày, Indonesia đứng đầu thế giới số ca nhiễm, và xếp 2 thế giới về tử vong (chỉ sau Brazil).

Tính đến hết tháng 7 năm 2021, trong vòng một tuần gần nhất, số ca nhiễm và tử vong đều tăng 10% so với thống kê một tuần trước đó. Mỹ trở lại là nước có số ca nhiễm mới đứng đầu thế giới tính trong một tuần, số ca nhiễm mới và số tử vong mới trong một tuần tăng 38% và 19% so với số liệu tuần trước, riêng ngày 30 tháng 7 có hơn 101.000 ca nhiễm mới. Ấn Độ có xu hướng tăng lên, xếp vị trí thứ 2, Indonesia lui xuống vị trí thứ 3, trước đó một vài ngày từng đứng đầu thế giới về số ca trong ngày. Tuy nhiên Indonesia vẫn là nước đứng đầu thế giới về tử vong trong một tuần (gần 1/5 tử vong trong tuần toàn thế giới), xếp trên Brazil vị trí thứ 2 (Brazil số nhiễm mới thứ 4). Xếp tiếp theo về số ca nhiễm là Iran, Anh, Nga (từ 5 đến 7), về số ca tử vong là Nga, Ấn Độ, Myanmar (từ 3 đến 5). Trong tuần số ca nhiễm mới giảm ở châu Âu và Nam Mỹ, nhưng tăng ở châu Á, Bắc Mỹ, châu Phi và châu Đại Dương. Riêng châu Á chiếm hơn 40% số ca nhiễm mới toàn cầu, trong top 10 châu Á thì Thổ Nhĩ Kỳ tăng tới 114% là nhanh nhất. Khu vực Đông Nam Á, có Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Việt Nam nằm trong top 10 châu lục. Việt Nam vượt qua Philippin về số ca nhiễm trong tuần tăng 27% so với tuần trước và là nước có số tử vong tăng nhanh nhất châu Á (so sánh các nước trên 10 tử vong trong tuần), tới 256% so với số liệu tuần trước. Việt Nam xếp vị trí 92 số ca nhiễm và 107 thế giới về tử vong, chỉ tính 4 ngày cuối tháng 7 thống kê 782 ca tử vong toàn quốc, nhiều nhất ở Tp.HCM (số liệu Bộ Y tế, không phải CDC hay cơ quan tương đương các địa phương cung cấp). Trong khi đó Trung Quốc đã tụt xuống vị trí 107 thế giới về tổng ca nhiễm, và 68 thế giới về tổng số tử vong (từ cuối tháng 4 năm 2021 không ghi nhận tử vong mới nào). Nhật Bản đang tổ chức Olympic, số ca nhiễm mới tăng 88% so với tuần trước xếp 21 thế giới về số ca nhiễm mới trong tuần đứng sát sau Việt Nam. Tại châu Phi, Tanzania sau một thời gian rất dài không công bố trước thế giới về số ca nhiễm và tử vong, trong ngày 19 và 29 tháng 7 công bố thêm 100 và 408 ca mới nâng tổng số ca nhiễm được công bố lên 1.017. Tính đến 9 tháng 8 trong vòng một tuần gần nhất cả thế giới tăng 5% về số ca nhiễm và tăng 3% về tử vong khi so sánh với tuần trước. Mỹ đứng đầu về số ca nhiễm mới, tăng 31% khi so sánh số liệu tuần trước, tử vong cũng tăng 34%. Lý do chính là hoành hành của biến thể Delta xuất hiện lần đầu ở Ấn Độ và biến thể Lambda lần đầu ghi nhận ở Peru. Xếp thứ hai về ca nhiễm mới là Ấn Độ giảm 5%, nước này tử vong cũng giảm 9% so với tuần trước. Trong số các nước ghi nhận trên 10.000 ca trong tuần thì tăng nhanh nhất là Canada sau đó là Israel. Tử vong cao nhất tuần là Indonesia. Trong Đông Nam Á, xếp thứ hai về tử vong trong tuần là Việt Nam, xếp 9 thế giới về tử vong dù xếp 22 thế giới về số ca nhiễm mới trong tuần. Việt Nam ghi nhận gần 58.000 ca nhiễm mới tăng 5% và 2.062 tử vong trong vòng 7 ngày tăng tới 76% khi so sánh với 7 ngày trước, tỷ lệ tăng này cao nhất trong top 10 thế giới về tử vong trong tuần. Một số ngày ghi nhận gần 400 tử vong. TP.HCM đứng đầu về tử vong, chiếm quá nửa. Riêng ngày 9 tháng 8 Việt Nam xếp 16 thế giới về ca nhiễm mới và xếp 6 thế giới về số tử vong. Trong Đông Nam Á, sau Việt Nam về tử vong trong tuần là Myanmar xếp 10 thế giới, Malaysia, Thái Lan, Philippines lần lượt xếp 13,15,16 thế giới. Về số ca nhiễm mới trong tuần của các châu lục thì giảm đáng kể ở Nam Mỹ, giảm rất ít ở châu Âu, châu Phi, nhưng tăng ở châu Á, châu Đại Dương nhất là Bắc Mỹ.

Tính đến 29 tháng 8 trong một tuần gần nhất thế giới số ca nhiễm giảm 4% và tử vong giảm 3% so với số liệu tuần trước. Nhiều ngày trên 700.000 ca nhiễm và trên 10.000 tử vong. Mỹ đứng đầu thế giới số ca mới chiếm gần 1/4 ca mới toàn thế giới và đứng đầu thế giới về tử vong, hơn 10% tử vong toàn thế giới trong tuần, số ca mới giảm 10% và tử vong mới tăng 2% so với số liệu tuần trước. Xếp tiếp theo về ca nhiễm mới là Ấn Độ, Iran, Anh, Brazil, Nhật Bản, Malaysia, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan. Các điểm nóng Đông Nam Á như Malaysia tăng 0,5%, Thái Lan giảm 12%, các nước xếp 12,14,15 thế giới là Philippines tăng 17%, Indonesia giảm 25%, Việt Nam tăng 19%. Toàn châu Á trong tuần số ca tăng 2% trong đó tăng nhanh nhất top 10 là Ấn Độ tăng 29%, tiếp theo là Việt Nam. Các nước chống dịch tốt như Singapore số ca tăng tới 170% cao hàng đầu châu Á về tăng %, Brunei thì ghi nhận 5 ca tử vong tăng 500%. Indonesia xếp vị trí 3 thế giới (trên Mexico 4 thế giới) về tử vong trong tuần chỉ sau Mỹ và Nga, Việt Nam xếp thứ 8 với 2.472 tử vong trong tuần giảm 1% so với số liệu tuần trước. Khu vực Bắc Mỹ số ca trong tuần giảm 10%,trong top 10 tăng nhanh nhất là Canada tăng 25%. Châu Âu số ca giảm 1% so với tuần trước trong top 10 tăng nhanh nhất là Đức tăng 34% so với tuần trước. Theo WHO có 33 nước châu Âu số ca tăng quá 10% trong vòng 14 ngày khi so với 14 ngày trước. Khu vực Tây Âu dịch nghiêm trọng hơn so với phần lớn phía đông. Số ca giảm đáng kể ở Nam Mỹ và châu Phi. Tại châu Đại Dương số ca giảm 15%,nhưng Úc nước nhiều ca nhất tăng 47%. Ngày 21 tháng 8 Dominica ghi nhận ca tử vong đầu tiên trong khi Palau ghi nhận hai ca nhiễm đầu tiên. Tính đến 31 tháng 8 tức hết tháng 8 năm 2021 toàn thế giới có gần 219 triệu ca nhiễm và hơn 4,5 triệu tử vong. Các số liệu này là chưa đầy đủ. Các nước có tỷ lệ ca tử vong trên số ca nhiễm cao nhất là Yemen 18,7% , Peru 9,2%, Mexico 7,7% tiếp theo là các nước Sudan, Syria, Ecuador, Ai Cập , Somalia, Đài Loan, ... Các nước nhiều ca nhất tỷ lệ này ở Mỹ là 1,6%, ở Ấn Độ là 1,3%, ở các nước Đông Nam Á như Myanmar là 3,9%, ở Indonesia 3,3%, Campuchia là 2%, Philippines 1,7%,Thái Lan và Malaysia đều là 1%. Tỷ lệ tử vong trên số ca nhiễm của Việt Nam là 2,4% cao hơn trung bình thế giới. Theo cập nhật của Bộ Y tế Việt Nam ngày 31 tháng 8 thì ty lệ tử vong của Việt Năm đến hiện tại là 2,5%, thế giới là 2,1%.

Tính đến ngày 8 tháng 9 thế giới có gần 223,4 triệu ca nhiễm và hơn 4,6 triệu ca tử vong. Tuần gần nhất số ca nhiễm giảm 8% và tử vong giảm 7% so với số liệu tuần trước, số ca nhiễm chỉ tăng ở châu Đại Dương và châu Âu còn lại giảm ở tất cả các châu lục khác. Châu Á vẫn là nơi dịch nghiêm trọng nhất. Mỹ đứng đầu về số ca nhiễm mới và tử vong mới trong tuần với hơn 1 triệu ca nhiễm chiếm gần 1/4 số ca và gần 8.400 tử vong chiếm khoảng 13% tử vong thế giới trong một tuần. Xếp tiếp theo về ca nhiễm là Ấn Độ và Anh. Các nước Đông Nam Á có Malaysia xếp 6 Philippines xếp 7, Thái Lan xếp 11, Việt Nam xếp thứ 13 thế giới số ca trong tuần. Singapore xếp đầu Châu Á về tỷ lệ tăng số ca mới khi so với tuần trước. Tuần gần nhất Trung Quốc nước đầu tiên bị dịch chỉ xếp 152 thế giới số ca nhiễm mới. Về tử vong sau Mỹ là Nga và Mexico, các nước Đông Nam Á có Indonesia xếp 4, Việt Nam xếp thứ 7 thế giới (trên Ấn Độ xếp 8), Malaysia xếp thứ 9, Thái Lan xếp 11... Có bốn biến thể đáng quan ngại là Alpha, Beta, Gamma, đặc biệt là Delta, ngoài ra các biến thể đáng quan tâm có Lambda, Mu... Các nước Mông Cổ, Israel, Gruzia, Malaysia ở châu Á, Montenegro và Kosovo ở châu Âu, Cuba và một số đảo quốc nhỏ vùng Caribe đứng đầu về tăng số ca nhiễm trên tổng dân số trong vòng hai tuần gần nhất. Các nước có số ca tăng gấp đôi nhanh nhất là Grenada (5 ngày), Brunei (7 ngày), Dominica (8 ngày), Việt Nam xếp vị trí thứ 7 khi chỉ mất 24 ngày, xếp tiếp theo là Lào và Thái Lan vị trí 8 và 9 thế giới. New Caledonia có cả tử vong đầu tiên ngày 10 tháng 9. Các nước có tỷ lệ dân số được tiêm chủng cao nhất là UAE, Bồ Đào Nha Qatar, Tây Ban Nha và Singapore (8 tháng 9).

Đến 15 tháng 9 năm 2021 thế giới có hơn 227 triệu ca nhiễm và hơn 4,67 triệu ca tử vong (tài liệu WHO thì hơn 226 triệu ca nhiễm và hơn 4,65 triệu tử vong). Đứng đầu về ca nhiễm là Mỹ, Ấn Độ, Brazil, Anh. Đứng đầu về tử vong là Mỹ, Brazil, Ấn Độ, Mexico. Trong tuần gần nhất số ca nhiễm giảm 8%. và tử vong giảm 4% so với tuần trước. Mỹ đứng đầu về ca nhiễm mới, tiếp theo là Anh. Israel đứng đầu về tỷ lệ dân số nhiễm mới trong tuần gần nhất, trên 1000 ca/ 1 triệu dân. Ngày 21 tháng 9 Anguilla ghi nhận ca tử vong đầu. Tính đến 23 tháng 9 trong tuần gần nhất thế giới ghi nhận khoảng 3,5 triệu ca giảm 8% so với tuần trước, chết hơn 56.000 người giảm 9% so với tuần trước. Mỹ đứng đầu về ca mới và tử vong trong tuần. Trong 14 ngày gần nhất Mỹ đã giảm 12% ca nhiễm, giảm 10% nhập viện nhưng tăng 35% tử vong so với số liệu 14 ngày trước nữa. Châu Á ngoài hai nước chưa công bố có ca nhiễm nào, có Trung Quốc được xem là kiểm soát dịch tốt khi số ca nhiễm tuần gần nhất thấp hơn 10 nước trong khối Asean. Dịch cũng được kiểm soát tốt ở Đài Loan, Hồng Công, ở Bhutan, một số nước vùng Vịnh. Việt Nam một số ngày đã nằm trong top 10 thế giới về số ca nhiễm mới và tử vong. Tại châu Âu, dịch được kiểm soát tốt ở các nước Bắc Âu và một số nước Đông và Trung Âu như Ba Lan,Séc, Hungary...Tại châu Mỹ, Cuba tuy là nước có tỷ lệ tiêm chủng cao nhưng số ca mới còn lớn, một số nước nghèo như Nicaragua, Haiti số ca ghi nhận rất thấp. Các nước Nam Mỹ như Argentina, Colombia hay Peru từng là điểm nóng đến giữa tháng 9 số ca mới giảm rất nhiều. Châu Phi số ca cũng giảm và nam và bắc châu lục này ghi nhận nhiều ca hơn trung Phi. Một số nước như Mali hay Chad trong top ca nhiễm bình quân đầu người rất thấp. Ở châu Đại Dương có New Zealand kiểm soát dịch tốt.

Tính đến hết tháng 9 năm 2021, thế giới đã trên 234 triệu ca nhiễm và gần 4,8 triệu tử vong. Tuần gần nhất đến hết tháng 9 số ca nhiễm mới và tử vong giảm 9% và 8% so với số liệu tuần trước. Tuy nhiên theo ngày số ca lên xuống không ổn định. Mỹ đứng đầu số ca nhiễm mới và tử vong mới trong tuần (một số ngày trên 2.000 tử vong/ngày). Có 45 nước có trên 10.000 ca nhiễm trong tuần, trong đó tăng nhanh nhất theo tỷ lệ % so với tuần trước là Romania, Ukraine ở châu Âu, Hàn QuốcSingapore ở châu Á. Số ca giảm ở châu Á, châu Mỹ, châu Phi nhưng tăng ở châu Âu và châu Đại Dương. Tại châu Âu, trong số 9 nước nhiều ca nhất, ngoài Romania, Ukraine thì Serbia cũng có xu hướng tăng nhanh trở lại, Đức tuy có giảm nhẹ nhưng tử vong tăng so với tuần trước, dịch có xu hướng giảm ở Pháp, Ý, Tây Ban Nha nhưng còn nghiêm trọng ở Anh và Nga. Tại châu Á, hai nước số ca nhiều nhất là Thổ Nhĩ Kỳ (tăng nhẹ) và Ấn Độ (giảm đáng kể). Tại Đông Nam Á, số ca giảm so với tuần trước ở 7 trên 11 nước, chỉ tăng ở Singapore, Campuchia, Lào, Brunei. Trung Quốc, nước được dự đoán là tăng trưởng kinh tế cao hàng đầu thế giới năm 2021, vẫn được xem là chống dịch tốt khi cộng dồn từ đầu dịch số ca nhiễm trên dân số thấp thứ 6 thế giới, chỉ sau 5 nước dân số dưới 1 triệu, trong top 30 nước số ca nhiễm trên dân số thấp nhất chỉ có hai nước trên 100 triệu dân, ngoài Trung Quốc là Nigeria. Trung Quốc chỉ có 908 ca đang nhập viện, số liệu cuối tháng 9, xếp 156 thế giới. Theo Hãng tin Reuters công bố sáng 2-10, số ca tử vong vì COVID-19 trên thế giới đã vượt qua ngưỡng 5 triệu ca. Reuters cho thấy nếu mốc 2,5 triệu ca tử vong đầu tiên đã được ghi nhận trong hơn một năm kể từ khi bùng phát dịch, thì mốc 2,5 triệu ca tiếp theo được ghi nhận chỉ trong 236 ngày.

Tính đến 18 tháng 10, châu Á vẫn là khu vực có nhiều ca nhiễm nhất mặc dù châu Âu là nơi có ca tử vong lớn nhất. Trong một tuần gần nhất Mỹ, tiếp đến là Anh và Nga là các nước nhiều ca nhiễm mới nhất, trong khi Mỹ, Nga và Rumani là các nước đứng đầu số tử vong mới. Số ca nhiễm tiếp tục tăng khi so sánh với tuần trước ở châu Âu, nhưng giảm ở các châu lục và khu vực còn lại. Ở châu Âu, ngoài Anh và Nga, thì một số nước Trung Âu như Rumani, hay Ucraina, một số nước vùng Bantích, và Nam Âu (như Xécbia, Bungari, Hy Lạp) có xu hướng tăng lên, kể cả ở Ba Lan hay Hunggari, là những nước dịch ít nghiêm trọng hơn. Tại châu Á, dịch có xu hướng tăng nhanh ở vùng Cápca nhưng giảm ở nhiều khu vực khác. Ở Bắc Mỹ, 9/10 nước có số ca nhiễm trên tổng dân số cao nhất là các đảo quốc nhỏ ở vùng Caribê, nước còn lại là Mỹ xếp thứ 9, và Cuba nước đang giảm số ca xếp thứ 11. Tại Nam Mỹ, 4 nước có số ca nhiễm mới cao nhất thì Braxin, Vênêduê la, Colombia giảm, nhưng tăng ở Chile. Số ca và tử vong toàn cầu vẫn có xu hướng giảm xuống. Tính đến 18 tháng 10, có hơn 17,7 triệu người đang nhập viện, trong đó cao nhất là các nước Mỹ (gần 9,6 triệu), Anh (hơn 1,4 triệu), Nga (gần 800.000), Thổ Nhĩ Kỳ (gần 500.000), Mêhicô (hơn 355.000),... Việt Nam xếp thứ 29 thế giới về số người đang nhập viện. Tính đến hết tháng 10 năm 2021, cả thế giới đã có trên 247 triệu ca nhiễm, trên 5 triệu ca tử vong, và hiện tại hơn 18,3 triệu ca nhập viện. Mỹ đứng đầu về số ca nhập viện, hơn 9,3 triệu, tiếp đến là Anh với hơn 1,5 triệu và Nga hơn 0,9 triệu, tính đến 31 tháng 10. Trong tuần gần nhất số ca giảm 0,4% và tử vong tăng 2% khi so sánh với tuần trước. Nga đứng đầu thế giới về số tử vong trong tuần, với gần 8.000 tử vong, tiếp theo là Mỹ hơn 7.500 tử vong. Dịch có xu hướng tăng nhanh ở châu Âu, nhưng giảm ở các châu lục - khu vực còn lại. Trong số gần 3 triệu ca nhiễm mới trong tuần thì châu Âu là hơn 1,5 triệu, chiếm quá nửa. Nga, Ukraina, RumaniAnh là các nước có nhiều ca nhiễm mới nhất trong tuần ở châu Âu. Nga một số ngày có trên 1000 tử vong / ngày và cao nhất thế giới tính theo ngày. Dịch cũng khá nghiêm trọng ở một số nước châu Á, bao gồm Việt Nam tăng 29% so với tuần trước, tại Singapore, Hàn Quốc hay tại một số nước vùng Cápca. Tại châu Mỹ, một số đảo quốc vùng Caribe tỷ lệ ca nhiễm theo đầu người còn cao nhưng có xu hướng giảm.

Tính đến 6 tháng 11 năm 2021, cả thế giới quá 250 triệu ca nhiễm, trên 5,06 triệu ca tử vong. Thời điểm hiện tại có hơn 18,6 triệu ca nhập viện, đứng đầu là Mỹ hơn 9,2 triệu nhập viện, Anh gần 1,6 triệu nhập viện, tiếp theo là Nga, Ucraina, Thổ Nhĩ Kỳ. Các nước Montenegro, Seychelles đang đứng đầu về số ca nhiễm bình quân theo đầu người, trong khi Peru sau đó là Bulgaria đứng đầu về số ca tử vong bình quân theo đầu người. Có 12 nước / vùng có ca nhiễm nhưng chưa ghi nhận tử vong đều rất ít dân, trong khi 10 nước có số tử vong bình quân đầu người thấp nhất thì 5 nước ở châu Phi, Trung Quốc, Lào, Butan ở châu Á, Niu Dilân và Vanuatu ở nam Thái Bình Dương. Trong tuần gần nhất tính đến 6 tháng 11, toàn thế giới số ca nhiễm mới tăng 2%, nhưng tử vong giảm 5%. Châu Âu tăng 9%, châu Phi tăng 0,6%, các châu lục khác số ca nhiễm trong vòng 7 ngày giảm so với 7 ngày trước đó. Châu Âu vẫn chiếm quá 50% số ca mới toàn cầu trong tuần, tăng nhanh ở nhiều nước như Nga, Đức, Ba Lan, Hà Lan, Séc, Áo, Hy Lạp...Tại Bắc Mỹ, Mỹ số ca giảm 7% trong tuần, Cuba giảm tới 39%. Tại Nam mỹ, Brazil tiếp tục giảm, nhưng Colombia và Ecuado tăng. Tại châu á, Việt Nam xếp ở vị trí thứ 5 trong tuần nhưng tăng tới 48% so với tuần trước, dịch đã xuất hiện trên tất cả các tỉnh thành. Xếp trên Việt Nam là Ấn Độ, Iran, Thái Lan đều giảm, còn Thổ Nhĩ Kỳ đứng đầu tăng 8%. Trung Quốc đứng đầu châu Á về tăng %, tới 59% nhưng số ca thực tế chỉ có 580 xếp 35 châu Á và không có tử vong. Xếp tiếp theo về tăng % là Việt Nam, sau đó là Lào, đảo Síp, Manđivơ đều 39%. Tại châu Phi, trong số các nước trên 1.000 ca mới trong tuần chỉ Bốtxoana là tăng nhanh, châu Đại Dương chỉ Niu Dilân là tăng nhanh còn lại đều giảm. Tonga có ca nhiễm đầu tiên ngày 30 tháng 11.

Tính đến 22 tháng 11 năm 2021 trong tuần gần nhất số ca mắc tăng 10%, và tử vong tăng 0,6% so với số liệu tuần trước đó. Trong số hơn 3,8 triệu ca trong tuần của thế giới thì châu Âu hơn 2,3 triệu ca mắc, tăng hơn 17% so với số liệu tuần trước. Đức đứng đầu số ca mới ở châu Âu, và xếp thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ. Về tử vong trong số gần 50.000 tử vong trong tuần toàn cầu, châu Âu là gần 27.000 chiếm quá nửa. Nga đứng đầu thế giới số tử vong trong tuần, xếp trên Mỹ (vị trí thứ hai). Châu Á trong tuần giảm 5% khi so với tuần trước, trong top 10 châu Á chỉ Việt Nam tăng 19%, xếp thứ 5, còn lại giảm ở 9 nước khác, bao gồm Ấn Độ, Philippin, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Thái Lan, Malaixia và 3 nước vùng Cápca. Tính riêng ngày 22 tháng 11 Việt Nam xếp thứ hai châu Á, 11 thế giới về số ca mắc mới, chỉ sau Thổ Nhĩ Kỳ một nước giáp châu Âu. Khu vực Đông Á và Đông Nam Á, ngoài Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông có số ca rất thấp, thì Nhật Bản, Campuchia cũng được xem là khống chế dịch tốt, tuy nhiên một số nước khác như Hàn Quốc, Lào có xu hướng tăng. Các nước vùng Vịnh (UAE, Cata, Baranh...) số ca giảm xuống rất thấp, tương tự một số nước Nam Á như Bănglađét hay Pakistan... số ca giảm sâu. Nhiều nước Nam Mỹ và Trung Mỹ không chế dịch tốt, số ca giảm đáng kể ở nhiều nước Trung Mỹ, nhưng tại Mỹ trong tuần tăng 11%. Một số đảo quốc nhỏ vùng Caribê dịch còn nghiêm trọng. Châu Phi trong tuần giảm 5% còn châu Đại Dương tăng 3% bao gồm tăng ở cả Úc, Niu Dilân và Papua Niu Ghinê. Tính đến ngày 27 tháng 11 tuần gần nhất số ca nhiễm mới tăng 2% nhưng tử vong giảm 4% so với số liệu một tuần trước đó. Châu Âu vẫn là điểm nóng chiếm gần 2,5 triệu ca mắc mới trên tổng số hơn 3,8 triệu ca mắc mới toàn cầu. Mỹ vẫn đứng đầu thế giới số ca mắc mới nhưng giảm 31% so với tuần trước. Trừ Bắc Mỹ, còn các khu vực khác dịch đều tăng. Tại châu Á trong top 10 trừ Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam, Gióoc đa ni, Hàn Quốc dịch vẫn tăng, còn dịch giảm ở 6 điểm nóng khác. Đáng chú ý là dịch giảm sâu ở một số nước tỷ lệ tiêm chủng thấp, như Ấn Độ tiêm đủ liều dưới 30% Indonesia mới có 33%, I rắc mới hơn 11%, Băng la đét hơn 21%, Pakistan hơn 22%, Nêpan hơn 27%, Mianma hơn 19%...(theo WHO). Biến chủng mới B.1.1.529 xuất hiện lần đầu ở Nam Phi đang đe dọa nỗ lực dập dịch của thế giới.

Tính đến 30 tháng 11 năm 2021, có hơn 263 triệu ca mắc và trên 5,2 triệu ca tử vong toàn cầu. Tuần gần nhất tính đến hết tháng 11, có gần 4 triệu ca mắc mới tăng 1% và tử vong hon 48.000 giảm 5% khi so sánh với số liệu tuần trước. Mỹ đứng đầu về số ca mắc mới, giảm 17%, Đức xếp thứ hai tăng 12% khi so sánh với số liệu tuần trước. Châu Âu xếp đầu các khu vực với hơn 2,5 triệu ca mắc mới. Tại châu Á, Việt Nam đã xếp thứ hai châu lục chỉ sau Thổ Nhĩ Kỳ giáp châu Âu về số ca mắc trong tuần. Thổ Nhĩ Kỳ tăng 2% số ca mắc mới nhưng giảm 5% về tử vong, Việt Nam tăng 31% về ca mắc mới và tử vong tăng 34%. Trong top 10 châu Á số ca nhiễm mới, ngoài hai nước trên thì chỉ có Gióóc đa ni và Hàn Quốc là có số ca nhiễm mới là tăng khi so sánh với số liệu tuần trước. Lào là nước có số ca tăng gấp đôi nhanh nhất thế giới theo số liệu ngày 30 tháng 11 trên Niu Dilân và Bácbađô. Châu Phi là châu lục có số ca mắc mới tăng nhanh nhất trong tuần, tới 64%, trong đó Nam Phi là 309%. Tính đến 8 tháng 12, tuần gần nhất thế giới tăng 7% ca mắc và tăng 1% tử vong so với tuần trước. Châu Âu chiếm gần 2,6 triệu ca / hơn 4,3 triệu ca cả thế giới trong tuần. Châu Á số ca nhiễm và tử vong giảm 5% và 9% so với tuần trước, Việt Nam với gần 100.000 ca mắc mới và gần 1.500 tử vong xếp thứ hai châu Á về số ca mắc mới và hai châu Á về tử vong trong tuần, tăng 2% và 23% khi so với tuần trước, một số ngày lọt top 10 thế giới về số ca mắc mới và tử vong mới, xếp 32 thế giới về tổng ca nhiễm và tổng tử vong. Mỹ vẫn đứng đầu thế giới về số ca mắc mới trong tuần, trong khi châu Phi là khu vực tăng nhanh nhất về số ca mắc mới.

Tính đến 16 tháng 12 năm 2021 trong vòng 7 ngày gần nhất thế giới trên 4,375 triệu ca mắc mới và trên 48.200 tử vong mới, đứng đầu về ca mắc mới lần lượt là Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nga, Nam Phi, Tây Ban Nha, Ý, Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam, Hà Lan, Bỉ... Tử vong cao nhất lần lượt là Mỹ, Nga, Ucraina, Ba Lan, Đức, Ấn Độ, Việt Nam, Mêhicô ,...Số ca mắc mới và tử vong mới của Việt Nam tăng lần lượt là 6% và 9%. Hai ngày 15 và 16 tháng 12 thế giới có tới hơn 726.000 và hơn 722.000 ca, là cao nhất tính từ đầu tháng 9 trở lại. Tính đến 22 tháng 12, trong vòng 7 ngày gần nhất thế giới tăng 15% số ca mắc và giảm 7% tử vong khi so sánh 7 ngày trước. Mỹ vẫn đứng đầu về ca mắc mới và tử vong mới, xếp thứ hai về ca mắc là Anh và tử vong là Nga (trong vòng 7 ngày). Dịch tiếp tục diễn biến phức tạp tại nhiều nước như Mỹ, Anh, Tây Ban Nha, Canada, Úc, một số nước châu Phi...Châu Á là khu vực duy nhất có số ca mắc giảm khi so sánh với tuần trước. Trong top 10 châu Á, dịch chỉ tăng ở 2 nước là Việt Nam xếp thứ hai và Libăng xếp thứ 10. Một số ngày Việt Nam đã vượt qua Thổ Nhĩ Kỳ về số ca nằm viện như ngày 21, Việt Nam có trên 381.000 nằm viện, Thổ Nhĩ Kỳ hơn 293.000, ngày 22 Việt Nam có trên 384.000 nhập viện, Thổ Nhĩ Kỳ là trên 289.000. Thế giới ngày 22 tháng 12 có trên 894.000 ca mắc mới, cao thứ ba tính theo ngày từ khi dịch bùng nổ, Việt Nam xếp 11, thứ hai châu Á và đứng đầu Đông Nam Á. Greenland có ca tử vong đầu tiên vào ngày 28 tháng 12. Trong ba ngày cuối năm 2021 lập kỷ lục số ca mắc tính theo ngày, ngày 29 và 31 trên 1,6 triệu ca, ngày 30 gần 1,9 triệu ca. Biến thể Omicron sau khi hoành hành ở nhiều nước châu Phi đã gây ra số ca cao kỷ lục ở nhiều nước như Mỹ, Anh, Pháp,..Ngày 30 tháng 12 Mỹ ghi nhận trên 572.000 ca mắc.

Tính đến hết năm 2021, tuần gần nhất toàn thế giới tăng 60% số ca mắc khi so sánh với tuần trước, nhưng giảm 9% về tử vong khi so với tuần trước. Trong tuần thế giới hơn 8,9 triệu ca nhiễm và gần 42.000 tử vong. Dịch tăng nhanh ở Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Đan Mạch, Ailen... ở châu Âu, Mỹ, Canada, Argentina... ở châu Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ,... ở châu Á, Úc ở châu Đại Dương...Việt Nam xếp thứ 15 thế giới về số ca mắc trong tuần nhưng về tử vong xếp thứ 6 thế giới tính theo tuần, chỉ sau Mỹ, Nga, Ba Lan, Ấn Độ, Đức. Việt Nam ghi nhận ngày 21/12 người từ Anh về Việt Nam nhiễm biến chủng Omicron (B.1.1.529).Đây là ca đầu tiên biến chủng mới ở Việt Nam.

Tính đến hết 31 tháng 12 năm 2021 toàn thế giới đã có trên 288 triệu ca nhiễm, trên 5,425 triệu ca tử vong, hiện tại hơn 29,3 triệu đang nằm viện, số liệu này là chưa đầy đủ. Mỹ vẫn đứng đầu về số ca nhiễm và tử vong, với hơn 55,6 triệu ca nhiễm và gần 847.000 tử vong. Dịch đã lan ra 222 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngày 20/12, Tổng Giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) Tedros Adhanom Ghebreyesus cho biết, hơn 3,3 triệu người đã tử vong vì Covid-19 trong năm 2021. Như vậy tử vong của năm 2021 là cao hơn 2020.Châu lục bị dịch nặng nhất là châu Âu. Theo số liệu của AFP tính đến ngày 1/1/2022, 52 quốc gia và vùng lãnh thổ ở châu Âu đã ghi nhận 100.074.753 ca nhiễm nCoV kể từ khi đại dịch khởi phát cuối năm 2019, tương đương hơn 1/3 trong tổng số 288.279.803 ca nhiễm trên toàn thế giới. Một số nước khu vực Bắc Âu trước bị ảnh hưởng ít hơn khi so với các khu vực khác của châu Âu, nhưng trong đợt dịch vào cuối năm này số ca tăng cao. Các khu vực bị ảnh hưởng nặng nhất trong hơn hai năm dịch ngoài châu Âu là châu Á và Bắc Mỹ (xem thêm ở dưới). Đáng chú ý là trong năm 2021 dịch bùng lên ở một số nước / vùng trong năm 2020 được xem là chống dịch tốt như Mông Cổ (đỉnh dịch trong tháng 9), Singapore (đỉnh dịch tháng 10), Đài Loan (thời gian ngắn tháng 6), Cuba (đỉnh dịch tháng 8 và 9), Lào (đỉnh dịch tháng 12), Campuchia (đỉnh dịch tháng 7), Myanmar (đỉnh dịch tháng 7), Úc (đỉnh dịch cuối tháng 12), Việt Nam (đỉnh dịch tháng 9 và tháng 12, ngày 30 tháng 12 gần 20.000 ca mắc)...Một số nước nghèo ở châu Phi, Venezuela, Haiti, Nicaragua ở châu Mỹ, Bhutan ở Nam Á và Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Macao vẫn được ghi nhận là ít bị dịch. Trung Quốc nước đầu tiên bị dịch đến hết năm 2021 xếp 115 thế giới về số ca mắc và 83 thế giới về tử vong, từ tháng 5 năm 2021 không ghi nhận ca tử vong nào, tính cho đến cuối năm. Tanzania ít chia sẻ thông tin dịch (tuy nhiên một số ngày nước này công bố có vài nghìn ca mắc), trong khi Bắc Triều Tiên và Tuốcmênixtan cùng vài đảo quốc nhỏ Nam Thái Binh Dương không chia sẻ thông tin có ca mắc nào. Một số nước nhỏ chưa có ca tử vong. Một số nước đến cuối năm 2021 được cho là khống chế số ca mắc xuống rất thấp như Nhật Bản, Pakistan , Bănglađét, Nêpan, Indonesia, Campuchia, Myanma, Quata, Ôman, Baranh, Ảrập Xêút, Irắc, Cuba... cho dù các nước này từng trải qua số ca mắc hay số ca mắc trên tổng dân số cao trong năm 2020 hay một vài tháng 2021. Việt Nam được xem là thăng hạng nhanh trong năm 2021, xếp 31 thế giới về ca mắc và 26 thế giới về tử vong tính đến hết năm 2021. Tính tổng thể năm 2021 thế giới trải qua 4 đợt dịch lớn là tháng 1, tháng 4-5, tháng 8 và tháng 12. Trong đó đợt dịch tháng 12 nhiều ca mắc nhất nhưng tử vong không cao bằng ba đợt dịch lớn trước.

Hai tháng đầu năm 2022 dịch bệnh tiếp tục rất nghiêm trọng trên quy mô toàn thế giới. Hết tháng 2 thống kê chưa đầy đủ đã có gần 440 triệu ca nhiễm và gần 6 triệu tử vong. Con số tử vong theo WHO có thể cao gấp 2-3 lần. Có những ngày lên tới hơn 3,8 triệu ca nhiễm trong ngày. Tử vong cũng tăng lên cao. Đến cuối tháng 2 dịch giảm ở nhiều nơi, bao gồm nhiều nước châu Âu và châu Mỹ, Trung, Nam và Tây Á, và vẫn được cho là ít nghiêm trọng ở hầu hết châu Phi. Tuy nhiên dịch vẫn nghiêm trọng và lây lan nhanh ở nhiều nước châu Á Thái Bình Dương, đặc biệt như Việt Nam (một số ngày trên 100.000 ca nhiễm cộng dồn, cao hàng top đầu thế giới, lan rộng khắp miền bắc...), Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông, Brunây, Niu Di lân, Úc,... Còn Trung Quốc vẫn khống chế dịch tốt và một số nước Đông Nam Á dịch đã giảm sâu. Tính đến hết tháng 3 năm 2022 thế giới đã có trên 490 triệu ca nhiễm và trên 6,1 triệu tử vong, thống kê này là không đầy đủ do nhiều nguyên nhân bao gồm cả do thay đổi cách tính và công bố của một số quốc gia, tình hình chiến sự tại Ukraina khiến một số ngày nước này không thể công bố...Dịch đã lan tới 225 quốc gia và vùng lãnh thổ (trong số này chỉ có 8 nước/vùng chưa ghi nhận tử vong, và vùng Niue là lãnh thổ mới nhất ghi nhận có ca nhiễm). Theo khu vực, châu Âu là khu vực có số ca nhiễm cao nhất, tiếp theo là châu Á. Mỹ vẫn đứng đầu về số ca nhiễm và số ca tử vong (tử vong vượt 1 triệu). Tính đến 12 tháng 4, số liệu chưa đầy đủ, thế giới đã có hơn 500 triệu ca nhiễm và trên 6,2 triệu tử vong. Riêng khu vực Đông Nam Á, Việt Nam vẫn đứng đầu số ca nhiễm và thường xuyên top đầu thế giới số ca nhập viện. Nauru là quốc gia mới nhất có dịch. Nghiên cứu của Viện Đo lường và đánh giá sức khỏe (IHME) thuộc Đại học Washington (Mỹ) công bố trên tạp chí The Lancet khi phân tích dữ liệu của 190 quốc gia và vùng lãnh thổ, đưa ra số ca mắc đến giữa tháng 11-2021, ước tính có 3,39 tỉ người đã nhiễm virus SARS-CoV-2 ít nhất một lần, tương đương với khoảng 44% dân số thế giới. Đáng chú ý, con số ước tính này chỉ được đưa ra vào thời điểm trước khi biến thể Omicron có khả năng lây lan mạnh xuất hiện. Tính đến hết tháng 4, thống kê chưa đầy đủ, thế giới đã có trên 513 triệu ca nhiễm và trên 6,2 triệu tử vong. Đến cuối tháng 4 năm 2022 số ca nhiễm và tử vong có xu hướng giảm trên toàn cầu, tuy nhiên một số nước như Trung Quốc hay Đài Loan,... lại có xu hướng nghiêm trọng hơn trước. Việt Nam xếp 12 thế giới về ca nhiễm và 24 thế giới về tử vong, theo thống kê chưa đầy đủ, số ca nhiễm mới và tử vong giảm, nhưng số ca nhập viện vẫn cao so với thế giới.

Triều Tiên ngày 12 tháng 5 năm 2022 lần đầu tiên thừa nhận có dịch bệnh và đã có tử vong, như vậy chỉ còn hai nước là Turkmenistan và Tuvalu cùng với hai lãnh thổ nhỏ nam Thái Bình Dương chưa công bố có dịch. Tính đến 17 tháng 5, Triều Tiên đã vươn lên xếp 49 thế giới về số ca nhiễm, theo worldometers. Theo CDC Mỹ, công bố vào ngày 26/4, đến tháng 2/2022, 58% dân số Mỹ (tương đương khoảng hơn 190 triệu người) đã nhiễm virus SARS-CoV-2. Theo báo New York Times 18 tháng 4 năm 2022, Số tử vong thực tế do COVID-19 toàn cầu có thể lên đến 15 triệu ca, WHO cho biết trong số khoảng 9 triệu ca tử vong bổ sung so với dữ liệu báo cáo chính thức, khoảng 1/3 được cho là ở Ấn Độ, theo đó tổng số ca tử vong vì COVID-19 tại quốc gia Nam Á có thể ở mức ít nhất 4 triệu ca, cao nhất thế giới. Theo cách tính mới của WHO, ngoài Ấn Độ, một số nước khác như Nga, Trung Quốc, Ai Cập và Indonesia cũng được cho là có số liệu tử vong vì COVID-19 trên thực tế cao hơn so với báo cáo. WHO ngày 5 tháng 5 năm 2022 ước tính đại dịch Covid-19 đã giết gần 15 triệu người trong năm 2020 và 2021, gấp ba lần báo cáo của các quốc gia và khu vực. Theo WHO, 84% ca tử vong quá mức tập trung ở Đông Nam Á, châu Âu và châu Mỹ. Mặc dù lấy con số 14,9 triệu, WHO cũng cho số liệu dao động từ khoảng 13,3 triệu đến 16,6 triệu. Số tử vong này ngoài tử vong trực tiếp do Covid, còn có tử vong gián tiếp do tác động của đại dịch đối với hệ thống y tế và xã hội như là do hệ thống y tế quá tải nên nhiều người không thể được tiếp cận phòng và chăm sóc sức khỏe. Do đó một số nước sẽ có con số âm, vì dịch bệnh đã khiến giảm nguyên nhân chết vì các lý do khác. Số liệu này cũng nhằm phản ánh nhiều quốc gia vẫn thiếu năng lực để giám sát tử vong đáng tin cậy.

Theo WHO, Tổng tử vong vượt mức từ ngày 1 tháng 1 năm 2020 đến ngày 31 tháng 12 năm 2021 cho từng khu vực y tế của WHO: châu Phi 1,25 triệu, châu Mỹ 3,23 triệu, Đông Địa Trung Hải 1,08 triệu, châu Âu 3,25 triệu, Đông và Nam Á 5,99 triệu, Tây Thái Bình Dương 0,12 triệu. Các nước nhiều tử vong nhất vượt mức theo WHO (cách tính mới) bao gồm Ấn Độ gần 4,73 triệu, Nga hơn 1 triệu, Indonesia 1 triệu, Mỹ gần 933.000, Brazil hơn 681.000, Mexico gần 626.000, Peru gần 290.000, Thổ Nhĩ Kỳ hơn 264.000, Ai Cập gần 252.000, Nam Phi gần 239.000... Sau khi WHO công bố báo cáo, Chính phủ Ấn Độ đã phản đối phương pháp được sử dụng để ước tính tỷ lệ tử vong vượt mức trong khi Phe đối lập do Rahul Gandhi lãnh đạo trước đó đã tấn công chính phủ vì đã báo cáo thiếu chặt chẽ về những cái chết ở Ấn Độ... Dịch bệnh đã đưa đến suy giảm kinh tế toàn cầu trong năm 2020, có xu hướng phục hồi năm 2021 nhưng năm 2022 là khó đoán. Nó cũng dẫn đến nhiều sự thay đổi chính trị như thất cử của tổng thống Mỹ, từ chức của thủ tướng Nhật, hay thay đổi nhân sự cấp cao ở nhiều nước khác, và nhiều vụ án tham nhũng bị phanh phui có liên quan đến dịch bệnh, cũng như ghi nhận bất ổn chính trị ở một số nước ít nhiều có liên quan đến dịch bệnh hay khủng hoảng kinh tế do dịch bệnh. Dịch bệnh năm 2022 buộc Trung Quốc phải tạm thời hoãn tổ chức các sự kiện thể thao lớn như Asiad 2022 hay vòng chung kết Asian Cup 2023. Dự báo của IMF tháng 4 năm 2022 tăng trưởng kinh tế Trung Quốc năm 2022 chỉ là 4,4% (năm 2021 tăng trưởng của nước này là 8,1%, trong khi Ấn Độ là 8,9%, Mỹ là 5,7%, Euro (Khu vực đồng euro) là 5,3%, toàn cầu là 6,1%, của Việt Nam theo nhà nước là ước 2,58%) trong khi dự báo tăng trưởng toàn cầu 2022 là 3,6%, Mỹ là 3,7%.

Tính đến hết 31/12/2022, theo trang worldometers, thế giới có gần 665 triệu ca nhiễm và gần 6,7 triệu tử vong. Số liệu này được cho là còn nhiều thiếu sót. Có 229 quốc gia và vùng lãnh thổ có dịch, gần nhất là Tokelau tháng 12 năm 2022 (trước đó là Tuvalu và quần đảo Pitcairn). Quốc gia duy nhất chưa công bố có dịch là Turkmenistan. Chỉ có 6 quốc gia và vùng lãnh thổ nhỏ có dịch nhưng chưa ghi nhận tử vong. Theo trang worldometers thì đỉnh dịch là vào tháng 1 năm 2022. Tuy nhiên đến cuối năm 2022 dịch bùng lên ở một số quốc gia, bao gồm cả Trung Quốc.

Đến 31/12/20 có 1 Tổng thống, 2 Thủ tướng, 2 Chủ tịch Quốc hội ở châu Phi, 2 Thủ tướng, 4 Chủ tịch Quốc hội ở châu Á, 4 Tổng thống, 1 Ông hoàng, 7 Thủ tướng, 4 Chủ tịch Quốc hội ở châu Âu, 4 Tổng thống, 1 Thủ tướng, 1 Chủ tịch Quốc hội ở Bắc Mỹ, 2 Tổng thống, 5 Chủ tịch Quốc hội ở Nam Mỹ mắc Covid, có 1 Thủ tướng tử vong, một số cựu Tổng thống, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội một số nước tử vong (xem danh sách ở dưới).

Bản đồ

Tổng số ca

Bản đồ thế giới hiển thị tổng số trường hợp đã xác nhận và tổng số trường hợp được xác nhận trên một triệu, theo quốc gia. Dữ liệu được lấy từ Kho dữ liệu COVID-19 của Trung tâm Khoa học và Kỹ thuật Hệ thống (CSSE) tại Đại học Johns Hopkins.[note 2]

Tổng số ca tử vong

Dữ liệu được lấy từ Kho dữ liệu COVID-19 của Trung tâm Khoa học và Kỹ thuật Hệ thống (CSSE) tại Đại học Johns Hopkins.[note 2]

Bản đồ tổng số người chết được xác nhận trên một triệu người theo quốc gia.[9][note 2][note 3]
 
Xem ngày tải lên mới nhất tại nguồn Commons.
MBản đồ tổng số người chết được xác nhận theo quốc gia.[10][note 2][note 3]
 
Xem ngày tải lên mới nhất tại nguồn Commons.

Ca tử vong mỗi ngày

Dữ liệu cho bản đồ và biểu đồ được lấy từ Kho dữ liệu COVID-19 của Trung tâm Khoa học và Kỹ thuật Hệ thống (CSSE) tại Đại học Johns Hopkins.[note 2] Rolling 7-day average.

Bản đồ số ca tử vong mới được xác nhận hàng ngày trên một triệu người theo quốc gia.[11][note 2][note 3]
 
Xem ngày tải lên mới nhất tại nguồn Commons.
Graph of daily new confirmed deaths worldwide per million people.[12][note 2][note 3]
 
Xem ngày tại dòng thời gian ở phía dưới.
Graph showing the daily count of new confirmed deaths worldwide.[13][note 2][note 3]
 
Xem ngày tại dòng thời gian ở phía dưới.

Tổng số lượt tiêm chủng

Dữ liệu được thu thập từ Our World in Data trong dữ liệu từ các số liệu có thể xác minh được dựa trên các nguồn chính thức công khai.[14][note 4]

Tỷ lệ dân số được tiêm chủng đầy đủ COVID-19 theo quốc gia so với dân số của quốc gia đó.[14][15][note 4]
 
Xem ngày ở cuối bản đồ.
Tỷ lệ dân số đã được tiêm ít nhất một liều vắc-xin COVID-19 theo quốc gia so với dân số của quốc gia đó.[14][16][note 4]
 
Xem ngày ở cuối bản đồ.
Liều lượng vắc xin COVID-19 được tiêm trên 100 người theo quốc gia.[14][17][note 4]
 
Xem ngày ở cuối bản đồ.

Thống kê

Tổng số ca mắc, tử vong và tỷ lệ tử vong theo từng quốc gia (Our World in Data)

Bảng được cập nhật tự động vào ngày 17 tháng 2 2025.[note 5] Nguồn dữ liệu từ Our World in Data.[note 1]

Xem Tỷ lệ tử vong do đại dịch COVID-19 theo quốc gia để có một bảng mở rộng nhiều thông tin hơn.

Tất cả các cột là tích lũy. "Tử vong/triệu" là số người chết trên một triệu người.

Số ca nhiễm, số ca tử vong và tỷ lệ tử vong do đại dịch COVID-19 theo quốc gia và vùng lãnh thổ[18]
Địa điểm Tử vong
1 triệu
Tử vong Số ca nhiễm
  Thế giới[a] 887 7.087.718 777.368.165
  Peru 6.601 220.994 4.528.708
  Bulgaria 5.679 38.765 1.338.332
  Bắc Macedonia 5.428 9.990 352.060
  Bosna và Hercegovina 5.118 16.404 404.142
  Hungary 5.072 49.124 2.237.718
  Croatia 4.807 18.783 1.355.405
  Slovenia 4.686 9.914 1.362.767
  Gruzia 4.519 17.151 1.864.383
  Montenegro 4.317 2.654 251.280
  Cộng hòa Séc 4.104 43.809 4.828.073
  Moldova 4.040 12.283 650.911
  Latvia 3.973 7.475 977.765
  Slovakia 3.888 21.280 1.885.755
  Hy Lạp 3.841 39.996 5.761.959
  San Marino 3.693 126 25.292
  România 3.597 68.959 3.568.163
  Hoa Kỳ 3.560 1.216.003 103.436.829
  Litva 3.505 9.875 1.421.484
  Vương quốc Anh 3.404 232.112 25.029.134
  Ý 3.344 199.416 26.959.147
  Brasil 3.338 702.116 37.511.921
  Chile 3.298 64.497 5.410.017
  Martinique 3.159 1.104 230.354
  Ba Lan 3.151 120.977 6.773.561
  Armenia 3.049 8.784 453.992
  Gibraltar 3.002 113 20.550
  Bỉ 2.949 34.339 4.893.861
  Paraguay 2.940 19.880 735.759
  Trinidad và Tobago 2.934 4.390 191.496
  Argentina 2.879 130.739 10.110.999
  châu Âu[b] 2.827 1.268.685 186.503.493
  Bồ Đào Nha 2.794 29.106 5.671.053
  Nga 2.776 404.188 24.867.679
  Colombia 2.758 142.732 6.394.994
  Thụy Điển 2.726 28.590 2.773.288
  Aruba 2.708 292 44.224
  Ukraina 2.677 109.925 5.542.001
  Serbia 2.658 18.057 2.567.964
  Guadeloupe 2.653 1.021 203.235
  Pháp 2.616 168.150 39.014.130
  México 2.603 334.818 7.622.513
  Tây Ban Nha 2.547 121.852 13.980.340
  Bermuda 2.547 165 18.860
  Guam 2.536 419 52.287
  Áo 2.485 22.534 6.083.080
  Tunisia 2.427 29.423 1.153.361
  Polynesia thuộc Pháp 2.318 650 79.451
  Saint Lucia 2.293 410 30.231
  Uruguay 2.269 7.694 1.042.681
  Liechtenstein 2.262 89 21.616
  Suriname 2.256 1.406 82.507
  Estonia 2.220 2.998 614.549
  Sint Maarten 2.182 92 11.051
  Bahamas 2.135 849 39.127
  Barbados 2.100 593 108.839
  Đức 2.080 174.979 38.437.854
  Phần Lan 2.058 11.466 1.499.712
  Grenada 2.035 238 19.693
  Ecuador 2.022 36.056 1.079.779
  Andorra 1.994 159 48.015
  Panama 1.993 8.774 1.045.095
  Ireland 1.942 9.925 1.752.796
  Malta 1.914 1.011 123.611
  Liban 1.905 10.947 1.239.904
  Kosovo 1.869 3.212 274.279
  Bolivia 1.853 22.387 1.212.156
  Costa Rica 1.844 9.374 1.235.825
  Puerto Rico 1.832 5.938 1.252.713
  Hồng Kông 1.798 13.466 2.876.106
  Montserrat 1.787 8 1.403
  Monaco 1.720 67 17.181
  Belize 1.708 688 71.432
  Đan Mạch 1.696 10.012 3.446.216
  Quần đảo Virgin thuộc Anh 1.669 64 7.644
  Curaçao 1.645 305 45.883
  Nam Phi 1.644 102.595 4.072.914
  Iran 1.640 146.837 7.627.863
  Thụy Sĩ 1.611 14.170 4.476.982
Bản mẫu:Country data Collectivity of Saint Martin Saint Martin 1.591 46 12.324
  Guyana 1.584 1.302 74.500
  Antigua và Barbuda 1.572 146 9.106
  Jersey 1.555 161 66.391
  Luxembourg 1.530 1.000 397.223
  United States Virgin Islands 1.525 132 25.389
  Síp 1.450 1.364 712.477
  Caribbean Hà Lan 1.430 41 11.922
  Canada 1.424 55.282 4.819.055
  Namibia 1.422 4.110 172.556
  Israel 1.395 12.707 4.841.558
  Guiana thuộc Pháp 1.384 413 98.041
  Isle of Man 1.378 116 38.008
  Seychelles 1.370 172 51.899
  Hà Lan 1.283 22.986 8.633.174
  Albania 1.275 3.608 337.196
  Jamaica 1.275 3.621 157.360
  Jordan 1.254 14.122 1.746.997
  Saint Vincent và Grenadines 1.214 124 9.674
  Eswatini 1.170 1.427 75.356
  Thổ Nhĩ Kỳ 1.164 101.419 17.004.713
  Botswana 1.148 2.801 330.699
  Guatemala 1.131 20.203 1.250.394
  Dominica 1.106 74 16.047
  New Caledonia 1.093 314 80.203
  Malaysia 1.076 37.351 5.329.836
  Palestine 1.075 5.708 703.228
  Honduras 1.062 11.114 472.911
  Réunion 1.056 921 494.595
  Guernsey 1.051 67 35.326
  Na Uy 1.050 5.732 1.534.219
  Azerbaijan 1.005 10.353 836.505
  Bahrain 1.001 1.536 696.614
  Saint Kitts và Nevis 984 46 6.607
  Oman 978 4.628 399.449
  Úc 963 25.236 11.861.161
  Fiji 962 885 69.047
  Kazakhstan 951 19.072 1.504.370
  Libya 891 6.437 507.269
  Quần đảo Bắc Mariana 889 41 14.985
  New Zealand 884 4.538 2.668.236
  Quần đảo Turks và Caicos 872 40 6.838
  Anguilla 844 12 3.904
  Mauritius 841 1.074 331.426
  Cabo Verde 802 417 64.474
  Wallis và Futuna 782 9 3.760
  Belarus 775 7.118 994.045
  Cuba 771 8.530 1.113.662
  Sri Lanka 740 16.907 672.812
  Đài Loan 739 17.672 9.970.937
  American Samoa 702 34 8.359
  Hàn Quốc 693 35.934 34.571.873
  El Salvador 673 4.230 201.981
  Mông Cổ 630 2.136 1.011.489
  Mayotte 612 187 42.027
  Maldives 602 316 186.694
  Nhật Bản 597 74.694 33.803.572
  Philippines 586 66.864 4.173.631
  Indonesia 581 162.059 6.830.196
  Liên bang Micronesia 579 65 31.765
  Iraq 575 25.375 2.465.545
  Palau 562 10 6.372
  Kuwait 559 2.570 667.290
  Quần đảo Faroe 518 28 34.658
  Quần đảo Cayman 516 37 31.472
  Iceland 489 186 210.760
  Thái Lan 484 34.741 4.808.454
  Saint Barthélemy 456 5 5.507
  Maroc 436 16.305 1.279.115
  Việt Nam 433 43.206 11.624.000
  Quần đảo Marshall 424 17 16.297
  Nepal 404 12.031 1.003.450
  Brunei 399 182 350.550
  Cộng hòa Dominica 390 4.384 661.103
  Greenland 374 21 11.971
  Ấn Độ 374 533.662 45.044.602
  Myanmar 362 19.494 643.241
  Singapore 358 2.024 3.006.155
  Zimbabwe 357 5.740 266.404
  São Tomé và Príncipe 353 80 6.771
  Saint Pierre và Miquelon 347 2 3.426
  Lesotho 310 709 36.138
  Ả Rập Xê Út 299 9.646 841.469
  Quần đảo Solomon 254 199 25.954
  Qatar 238 690 514.524
  Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất 229 2.349 1.067.030
  Ai Cập 220 24.830 516.023
  Venezuela 207 5.856 552.695
  Mauritanie 204 997 63.882
  Zambia 202 4.078 349.892
  Afghanistan 197 7.998 235.214
  Comoros 193 161 9.109
  Kiribati 183 24 5.085
  Campuchia 177 3.056 139.326
  Bangladesh 174 29.499 2.051.576
  Ma Cao 174 121 3.514
  Djibouti 166 189 15.690
  Algérie 151 6.881 272.219
  Kyrgyzstan 147 1.024 88.953
  Samoa 144 31 17.057
  Gambia 141 372 12.627
  Syria 140 3.163 57.423
  Quần đảo Cook 135 2 7.375
  Malawi 130 2.686 89.168
  Gabon 126 307 49.069
  Pakistan 125 30.656 1.580.631
  Tonga 123 13 16.992
  Sénégal 111 1.972 89.321
  Rwanda 107 1.468 133.268
  Kenya 104 5.689 344.130
  Sudan 102 5.046 63.993
  Guinea Xích Đạo 101 183 17.130
  Đông Timor 100 138 23.460
  Tuvalu 99 1 2.943
  Lào 88 671 219.060
  Trung Quốc[c] 85 122.398 99.381.761
  Nauru 84 1 5.393
  Guiné-Bissau 84 177 9.614
  Uganda 76 3.632 172.163
  Somalia 76 1.361 27.334
  Haiti 74 860 34.771
  Cameroon 71 1.974 125.279
  Mozambique 68 2.252 233.905
  Papua New Guinea 65 670 46.864
  Cộng hòa Congo 64 389 25.234
  Ethiopia 60 7.574 501.296
  Yemen 56 2.159 11.945
  Liberia 54 294 8.090
  Angola 54 1.937 107.487
  Madagascar 46 1.428 68.634
  Vanuatu 44 14 12.019
  Ghana 44 1.463 172.336
  Nicaragua 36 245 16.240
  Guinée 33 468 38.582
  Mali 32 743 33.183
  Togo 31 290 39.539
  Eritrea 30 103 10.189
  Uzbekistan 29 1.016 175.082
  Bờ Biển Ngà 27 835 88.461
  Bhutan 26 21 62.697
  Cộng hòa Trung Phi 22 113 15.443
  Burkina Faso 17 400 22.168
  Sierra Leone 15 126 7.985
  Cộng hòa Dân chủ Congo 14 1.474 101.006
  Nigeria 14 3.155 267.196
  Nam Sudan 13 147 18.862
  Tanzania 13 846 43.372
  Niger 12 315 9.532
  Tajikistan 12 125 17.786
  Bénin 11 163 28.036
  Tchad 10 194 7.702
  Burundi 1 15 54.569
  Quần đảo Pitcairn 0 0 4
  Quần đảo Falkland 0 0 1.923
  Niue 0 0 1.092
  Triều Tiên 0 0 0
  Turkmenistan 0 0 0
  Tokelau 0 0 80
  Thành Vatican 0 0 26
  Saint Helena, Ascension và Tristan da Cunha 0 0 2.166
  1. ^ Countries which do not report data for a column are not included in that column's world total.
  2. ^ Dữ liệu của các nước thành viên Liên minh châu Âu được liệt kê riêng lẻ, nhưng cũng được tổng hợp ở đây để thuận tiện. Nó sẽ không được tính lại trong phần tổng thế giới.
  3. ^ Không bao gồm đặc khu hành chính (Hồng KôngMa Cao) hoặc Đài Loan.


2021

2021 1 thg 1 1 thg 2 1 thg 3 1 thg 4 1 thg 5 1 thg 6 1 thg 7 1 thg 8 1 thg 9 1 thg 10 1 thg 11 1 thg 12
Thế giới 1,925,656 2,358,544 2,657,997 2,938,648 3,305,818 3,680,696 3,954,287 4,228,358 4,535,931 4,791,457 4,999,157
 Hoa Kỳ 366,491 469,409 529,966 558,122 577,087 592,657 601,446 610,469 643,496 696,682 739,856
 Brasil 193,875 223,945 254,221 317,646 401,186 461,931 515,985 555,460 579,574 596,122 607,694
 Ấn Độ 151,001 156,420 159,216 165,435 219,450 353,795 407,208 427,001 441,828 450,920 461,275
 México 148,494 186,843 210,431 223,407 230,859 234,706 237,623 245,354 266,098 281,100 288,276
 Nga 57,555 73,619 86,455 99,233 110,520 121,873 135,886 159,352 184,014 208,142 239,693
 Perú 93,192 103,396 121,940 142,864 166,382 183,879 192,331 196,291 198,263 199,367 200,217
 Indonesia 22,329 30,277 36,325 41,054 45,652 50,723 58,995 95,723 133,676 142,026 143,423
 Anh Quốc 73,512 106,158 122,849 126,713 127,517 127,782 128,140 129,654 132,535 136,662 140,632
 Ý 74,159 88,516 97,699 109,346 120,807 126,128 127,566 128,063 129,221 130,921 132,100
 Colombia 42,909 53,650 59,660 63,255 73,230 88,282 105,934 120,432 124,883 126,261 127,258
 Iran 55,223 57,959 60,073 62,665 71,758 80,156 84,264 90,630 107,794 120,428 126,303
 Argentina 43,163 47,931 51,965 55,736 63,508 77,456 93,668 105,586 111,607 115,179 115,950
 Pháp 64,254 75,661 85,986 95,062 103,828 108,711 110,160 110,822 112,770 114,470 115,272
 Đức 33,624 57,120 70,105 76,543 83,082 88,595 90,938 91,659 92,223 93,711 95,752
 Nam Phi 28,469 44,164 49,993 52,846 54,350 56,506 60,647 72,013 82,261 87,626 89,177
 Tây Ban Nha 54,180 65,473 74,467 77,498 79,734 81,122 81,724 82,695 85,533 86,936 87,458
 Ba Lan 28,956 37,222 43,793 53,665 67,924 73,856 75,044 75,261 75,358 75,666 77,012
 Thổ Nhĩ Kỳ 20,881 25,993 28,569 31,537 40,131 47,527 49,732 51,332 56,710 64,054 70,611
 Ukraina 18,680 22,768 26,050 33,246 44,436 50,699 52,391 52,951 53,833 56,446 68,027
 România 15,841 18,402 20,403 23,674 28,194 30,353 33,861 34,286 34,616 37,242 48,073
 Philippines 9,244 10,749 12,318 13,297 17,234 20,966 24,662 27,889 33,448 38,294 43,172
 Chile 16,608 18,452 20,572 23,135 26,353 29,300 32,545 35,448 36,937 37,468 37,757
 Ecuador 14,034 14,859 15,811 16,847 18,631 20,572 21,560 31,631 32,244 32,767 32,958
 Hungary 9,667 12,578 15,058 20,995 27,701 29,762 29,992 30,026 30,059 30,199 30,881
 Cộng hòa Séc 12,014 16,862 21,020 27,091 29,657 30,315 30,393 30,409 30,436 30,481 30,807
 Canada 15,472 19,942 21,960 22,926 24,169 25,512 26,273 26,592 26,918 27,819 28,965
 Malaysia 471 760 1,130 1,272 1,506 2,796 5,170 9,024 16,664 26,335 28,912
 Pakistan 10,105 11,657 12,860 14,434 17,811 20,779 22,281 23,360 25,788 27,729 28,449
 Bangladesh 7,576 8,137 8,416 9,105 11,510 12,660 14,646 20,916 26,274 27,531 27,870
 Bỉ 19,720 21,283 22,254 23,067 24,271 24,980 25,181 25,251 25,388 25,613 26,047
 Tunisia 4,676 6,754 8,001 8,812 10,722 12,654 14,959 19,858 23,538 24,890 25,241
 Bulgaria 7,576 9,045 10,191 13,197 16,399 17,700 18,061 18,213 18,896 20,882 23,999
 Iraq 12,813 13,047 13,406 14,323 15,465 16,375 17,186 18,657 20,830 22,260 23,170
 Việt Nam 35 35 35 35 35 47 87 1,306 11,064 19,301 22,083
 Thái Lan 63 77 83 94 224 1,069 2,080 4,990 11,841 16,850 19,260
 Bolivia 9,149 10,330 11,628 12,239 12,951 14,471 16,702 17,806 18,429 18,726 18,925
 Myanmar 2,697 3,138 3,199 3,206 3,209 3,217 3,347 9,731 15,490 17,789 18,714
 Ai Cập 7,631 9,316 10,688 11,995 13,339 15,096 16,169 16,524 16,736 17,331 18,651
 Hà Lan 11,405 13,981 15,556 16,533 17,145 17,623 17,744 17,826 18,010 18,170 18,411
 Nhật Bản 3,460 5,722 7,887 9,162 10,229 13,048 14,781 15,192 16,041 17,648 18,268
 Bồ Đào Nha 6,906 12,482 16,317 16,848 16,974 17,025 17,096 17,361 17,743 17,975 18,157
 Kazakhstan 2,749 3,126 3,389 5,912 6,561 7,321 7,759 9,077 13,732 16,055 17,150
 Paraguay 2,242 2,704 3,167 4,161 6,302 9,083 12,763 14,929 15,742 16,195 16,246
 Hy Lạp 4,838 5,872 6,580 8,169 10,457 12,171 12,763 13,016 13,698 14,828 15,938
 Guatemala 4,813 5,643 6,393 6,840 7,524 8,165 9,215 10,339 11,926 13,564 15,050
 Thụy Điển 9,742 12,226 13,031 13,616 14,196 14,571 14,661 14,677 14,724 14,903 15,044
 Maroc 7,388 8,275 8,623 8,818 9,023 9,147 9,296 9,785 12,649 14,267 14,668
 Sri Lanka 204 323 476 571 687 1,527 3,063 4,451 9,400 12,964 13,760
 Slovakia 2,250 4,711 7,270 9,790 11,732 12,353 12,511 12,540 12,548 12,649 13,045
 Bosna và Hercegovina 4,072 4,705 5,096 6,581 8,533 9,235 9,647 9,689 9,803 10,606 11,555
 Nepal 2,767 2,962 3,010 3,031 3,298 7,454 9,145 9,875 10,770 11,148 11,416
 Áo 6,355 7,817 8,530 9,259 10,071 10,424 10,507 10,527 10,582 10,802 11,094
 Jordan 3,834 4,316 4,701 6,858 8,836 9,462 9,750 10,032 10,411 10,718 11,038
 Thụy Sĩ 7,598 9,179 9,621 9,912 10,163 10,308 10,366 10,387 10,489 10,681 10,829
 Honduras 3,130 3,592 4,141 4,599 5,261 6,316 6,980 7,834 8,850 9,777 10,240
 Gruzia 2,528 3,194 3,520 3,785 4,130 4,804 5,327 5,853 7,482 8,976 10,089
 Serbia 3,211 4,020 4,443 5,308 6,362 6,865 7,047 7,114 7,292 8,234 9,955
 Croatia 3,920 5,027 5,526 5,947 7,081 8,026 8,206 8,259 8,334 8,640 9,251
 Ả Rập Xê Út 6,223 6,375 6,494 6,669 6,957 7,362 7,819 8,237 8,545 8,716 8,794
 Liban 1,455 3,082 4,692 6,234 7,278 7,729 7,851 7,906 8,053 8,325 8,502
 Cuba 146 214 322 424 644 958 1,284 2,758 5,303 7,436 8,236
 Israel 3,373 4,816 5,763 6,219 6,389 6,422 6,430 6,485 7,118 7,796 8,102
 Moldova 2,985 3,438 3,949 4,960 5,812 6,107 6,194 6,255 6,401 6,777 7,790
 Panama 3,975 5,244 5,831 6,109 6,227 6,370 6,536 6,808 7,054 7,223 7,315
 Afghanistan 2,201 2,404 2,444 2,489 2,631 2,973 4,962 6,737 7,123 7,206 7,280
 Bắc Macedonia 2,503 2,855 3,137 3,781 4,855 5,413 5,484 5,493 5,938 6,714 7,143
 Azerbaijan 2,609 3,126 3,218 3,567 4,517 4,913 4,974 5,023 5,636 6,525 7,074
 Costa Rica 2,171 2,612 2,803 2,957 3,217 4,022 4,661 5,030 5,492 6,349 7,029
 Ethiopia 1,923 2,093 2,365 2,865 3,688 4,165 4,320 4,385 4,675 5,582 6,459
 Armenia 2,828 3,084 3,195 3,533 4,128 4,445 4,517 4,619 4,857 5,339 6,379
 Uruguay 174 431 603 953 2,563 4,213 5,558 5,959 6,029 6,054 6,077
 Algérie 2,756 2,891 2,983 3,093 3,253 3,472 3,716 4,254 5,269 5,812 5,920
 Litva 1,845 2,849 3,270 3,590 3,947 4,289 4,392 4,417 4,573 5,021 5,913
 Trung Quốc 4,789 4,825 4,844 4,851 4,857 4,970 5,495 5,635 5,683 5,691 5,696
 Ireland 2,167 3,249 4,294 4,670 4,894 4,941 4,998 5,035 5,092 5,249 5,436
 Kenya 1,670 1,763 1,856 2,153 2,724 3,172 3,634 3,931 4,726 5,123 5,281
 Libya 1,478 1,877 2,179 2,667 3,029 3,126 3,193 3,509 4,247 4,651 5,099
 Slovenia 2,981 3,833 4,158 4,377 4,589 4,704 4,753 4,763 4,784 4,914 5,089
 Venezuela 1,025 1,183 1,338 1,589 2,117 2,629 3,101 3,576 4,010 4,454 4,884
 Palestine 1,529 2,012 2,259 2,881 3,517 3,765 3,831 3,872 3,948 4,366 4,681
 Zimbabwe 363 1,217 1,463 1,523 1,567 1,596 1,789 3,532 4,419 4,623 4,678
 Belarus 1,424 1,718 1,976 2,247 2,542 2,851 3,143 3,454 3,780 4,143 4,631
 Cộng hòa Dominica 2,414 2,666 3,100 3,325 3,480 3,628 3,822 3,963 4,008 4,046 4,130
 Oman 1,499 1,529 1,570 1,678 2,010 2,345 3,100 3,836 4,064 4,096 4,111
 Zambia 388 763 1,091 1,208 1,251 1,281 2,199 3,389 3,602 3,648 3,661
 El Salvador 1,336 1,623 1,854 2,010 2,124 2,249 2,381 2,629 2,918 3,234 3,622
 Namibia 205 352 424 523 643 830 1,521 3,044 3,244 3,511 3,552
 Latvia 635 1,195 1,618 1,899 2,131 2,376 2,513 2,556 2,578 2,717 3,250
 Puerto Rico 1,503 1,829 2,036 2,113 2,303 2,502 2,549 2,580 2,860 3,149 3,234
 Uganda 251 324 334 335 343 362 1,023 2,690 3,012 3,161 3,215
 Sudan 1,576 1,812 1,890 2,087 2,361 2,631 2,760 2,780 2,793 2,878 2,995
 Kosovo 1,325 1,488 1,589 1,862 2,163 2,233 2,248 2,256 2,494 2,943 2,967
 Albania 1,181 1,380 1,796 2,235 2,394 2,451 2,456 2,457 2,498 2,698 2,924
 Nigeria 1,289 1,586 1,907 2,057 2,063 2,099 2,120 2,149 2,455 2,721 2,896
 Hàn Quốc 917 1,425 1,605 1,735 1,831 1,963 2,021 2,098 2,292 2,497 2,859
 Campuchia 0 0 0 14 96 220 602 1,397 1,903 2,319 2,788
 Đan Mạch 1,298 2,125 2,361 2,419 2,485 2,516 2,534 2,549 2,584 2,656 2,714
 Kyrgyzstan 1,356 1,412 1,466 1,500 1,612 1,815 2,009 2,335 2,532 2,607 2,672
 Syria 711 921 1,027 1,265 1,592 1,770 1,876 1,914 2,013 2,247 2,566
 Kuwait 934 959 1,083 1,313 1,563 1,772 1,969 2,320 2,419 2,449 2,461
 Botswana 40 134 310 568 712 849 1,125 1,569 2,261 2,368 2,406
 Malawi 189 702 1,040 1,117 1,148 1,155 1,196 1,635 2,177 2,282 2,301
 Jamaica 302 350 422 596 778 948 1,075 1,190 1,518 1,869 2,236
 Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất 669 850 1,221 1,497 1,587 1,680 1,811 1,949 2,041 2,097 2,136
 Montenegro 681 802 999 1,266 1,492 1,583 1,610 1,629 1,720 1,919 2,100
 Mozambique 166 367 641 775 814 836 878 1,434 1,864 1,917 1,930
 Yemen 611 616 635 889 1,227 1,321 1,361 1,375 1,472 1,721 1,889
 Sénégal 410 628 872 1,051 1,107 1,139 1,166 1,353 1,765 1,858 1,878
 Úc 909 909 909 909 910 910 910 923 1,006 1,289 1,734
 Angola 405 466 508 537 596 766 900 1,011 1,217 1,537 1,710
 Trinidad và Tobago 126 134 139 142 165 479 833 1,070 1,285 1,474 1,696
 Cameroon 448 462 551 779 1,064 1,275 1,324 1,334 1,357 1,459 1,686
 Mông Cổ 0 2 2 8 110 276 563 820 931 1,204 1,672
 Estonia 234 422 598 908 1,166 1,258 1,269 1,272 1,293 1,357 1,540
 Bahrain 352 375 449 521 646 980 1,352 1,384 1,388 1,389 1,393
 Rwanda 92 196 261 307 335 353 427 808 1,083 1,273 1,331
 Uzbekistan 614 621 622 630 650 690 740 880 1,088 1,242 1,325
 Eswatini 206 565 652 667 671 673 678 787 1,101 1,220 1,242
 Somalia 130 130 239 529 713 769 775 811 977 1,111 1,208
 Phần Lan 597 702 784 881 932 970 979 1,001 1,054 1,117 1,184
 Ghana 335 416 607 743 779 785 796 823 1,036 1,156 1,175
 Cộng hòa Dân chủ Congo 591 671 707 743 766 782 924 1,038 1,059 1,084 1,098
 Suriname 121 154 170 177 201 292 516 645 718 879 1,090
 Madagascar 261 281 297 409 643 839 909 947 956 960 963
 Norway 433 563 622 660 753 783 792 799 820 869 917
 Guyana 164 176 195 231 295 385 468 535 613 783 913
 Luxembourg 495 579 637 743 794 814 818 822 830 835 845
 Guadeloupe 155 157 164 173 211 255 267 283 508 767 820
 Mauritanie 324 418 439 449 455 463 489 562 715 774 797
 Tanzania 21 21 21 21 21 21 21 21 50 719 725
 Bờ Biển Ngà 137 154 192 244 286 305 313 329 441 624 695
 Martinique 43 44 45 50 70 95 98 129 460 628 683
 Haiti 236 245 250 251 254 321 443 558 586 629 679
 Fiji 2 2 2 2 2 4 21 239 496 624 674
 Lesotho 50 160 292 315 316 326 329 374 403 632 658
 Bahamas 170 176 180 188 199 230 246 287 381 533 643
 Polynésie thuộc Pháp 114 131 139 141 141 142 142 149 423 621 636
 Qatar 245 248 258 291 458 556 590 601 602 606 610
 Síp 126 200 232 257 313 361 375 422 512 552 574
 Mali 269 330 353 385 484 517 525 532 539 548 563
 Belize 242 301 314 317 323 324 329 337 359 409 491
 Malta 225 270 315 394 415 419 420 423 441 457 461
 Singapore 29 29 29 30 30 33 36 37 55 95 407
 Guinée 81 82 89 125 144 161 171 220 335 379 385
 Réunion 42 46 52 115 148 189 237 275 342 366 374
 Papua New Guinea 9 9 13 60 115 162 174 192 192 234 370
 Cabo Verde 113 134 147 168 217 264 286 298 311 339 349
 Gambia 124 128 150 164 174 179 181 213 319 338 340
 Guyane thuộc Pháp 71 76 85 93 100 116 145 187 219 267 308
 Liberia 83 84 85 85 85 86 128 148 245 286 287
 Cộng hòa Congo 100 117 128 135 144 153 166 178 183 197 278
 Nouvelle-Calédonie 0 0 0 0 0 0 0 0 0 119 265
 Saint Lucia 5 13 35 60 74 79 84 89 103 201 255
 Maldives 48 52 62 67 73 169 213 221 226 231 243
 Togo 68 77 84 109 123 125 129 152 185 229 242
 Gabon 64 68 83 118 139 152 159 164 165 186 239
 Guam 122 129 131 134 136 139 140 143 149 197 238
 Burkina Faso 85 120 142 146 157 166 168 169 171 184 214
 Niger 102 159 172 187 191 192 193 195 199 202 213
 Nicaragua 165 169 173 178 182 186 191 195 200 204 208
 Grenada 1 1 1 1 1 1 1 1 1 139 198
 Mayotte 55 61 110 161 170 173 174 174 175 178 185
 Djibouti 61 63 63 70 143 154 155 156 157 167 181
 Mauritius 10 10 10 12 16 18 18 20 31 84 176
 Tchad 104 118 140 164 170 173 174 174 174 174 174
 Curaçao 14 20 22 33 108 122 126 126 143 162 174
 Aruba 49 58 71 85 98 107 107 109 139 166 171
 Guinea Xích Đạo 86 86 91 102 112 118 121 123 124 147 167
 Bénin 44 52 70 93 99 101 104 108 128 159 161
 Barbados 7 12 33 42 44 47 47 48 50 69 153
 Comoros 9 93 144 146 146 146 146 147 147 147 147
 Guiné-Bissau 45 45 48 63 67 68 69 76 119 135 141
 Nam Sudan 63 64 93 112 115 115 117 119 120 130 133
 Andorra 84 101 110 115 125 127 127 128 130 130 130
 Tajikistan 90 91 91 91 91 91 91 122 125 125 125
 Đông Timor 0 0 0 0 3 16 24 26 72 117 122
 Sierra Leone 76 79 79 79 79 79 100 120 121 121 121
 Seychelles 0 4 11 21 27 40 57 86 102 112 114
 Antigua và Barbuda 5 7 14 28 32 42 42 43 44 79 102
 Bermuda 10 12 12 12 27 32 33 33 33 72 101
 Cộng hòa Trung Phi 63 63 63 72 88 98 98 98 100 100 100
 Gibraltar 6 75 93 94 94 94 94 94 97 97 98
 San Marino 59 67 74 84 90 90 90 90 90 91 92
 Quần đảo Virgin thuộc Mỹ 23 24 25 26 27 27 30 37 54 71 81
 Jersey 42 66 69 69 69 69 69 69 77 78 80
 Sint Maarten 27 27 27 27 27 28 33 34 51 66 75
 Saint Vincent và Grenadines 0 2 8 10 11 12 12 12 12 21 66
 Lào 0 0 0 0 0 3 3 7 14 18 65
 Liechtenstein 44 53 55 56 56 57 58 58 58 58 58
 Đảo Man 35 35 35 39 39 39 39 43 48 52 57
 São Tomé và Príncipe 17 17 29 34 35 37 37 37 37 50 56
 Brunei 3 3 3 3 3 3 3 3 9 32 54
 Eritrea 3 7 7 10 10 14 23 35 38 42 45
 Quần đảo Virgin thuộc Anh 1 1 1 1 1 1 1 31 37 37 37
 Saint-Martin 12 12 12 12 13 15 27 30 17 35 37
 Monaco 3 13 24 28 32 32 33 33 35 35 36
 Iceland 29 29 29 29 29 30 30 30 33 33 33
 Dominica 0 0 0 0 0 0 0 0 4 20 32
 New Zealand 25 25 26 26 26 26 26 26 26 27 28
 Guernsey 16 16 17 17 17 17 17 17 18 21 23
 Saint Kitts và Nevis 0 0 0 0 0 0 3 3 3 13 23
 Quần đảo Turks và Caicos 6 9 14 17 17 17 18 18 20 23 23
 Bonaire 3 3 4 10 16 17 17 17 17 19 19
 Burundi 2 2 3 6 6 6 8 9 10 14 14
Khác 13 13 13 13 13 13 13 13 13 13 13
 Wallis và Futuna 0 0 0 4 7 7 7 7 7 7 7
 Saint-Barthélemy 0 0 0 1 1 1 1 1 1 2 4
 Bhutan 0 1 1 1 1 1 1 2 3 3 3
 Quần đảo Bắc Mariana 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 3
 Quần đảo Cayman 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2
 Quần đảo Faroe 0 1 1 1 1 1 1 1 2 2 2
 Anguilla 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 1
 Montserrat 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
 Samoa thuộc Mỹ 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 Quần đảo Cook 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 CHDCND Triều Tiên 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 Quần đảo Falkland 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 Greenland 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 Tòa Thánh 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 Kiribati 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 Quần đảo Marshall 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 Micronesia 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 Nauru 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 Niue 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 Palau 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 Quần đảo Pitcairn 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 Saba 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 Saint Helena 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 Saint-Pierre và Miquelon 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 Samoa 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 Sint Eustatius 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0
 Quần đảo Solomon 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 Tokelau 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 Tonga 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 Turkmenistan 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 Tuvalu 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
 Vanuatu 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0


Biểu đồ lôgarit các ca nhiễm đã được xác nhận từ Our World in Data

Biểu đồ logarit của các ca nhiễm được xác nhận từ Our World in Data sử dụng dữ liệu gần trong 12 tháng đầu tiên của đại dịch.

 
Các trường hợp theo quốc gia tính đến ngày 18 tháng 4 năm 2021, được vẽ trên thang đo lôgarit[22]

Các ca nhiễm và tử vong theo khu vực

Các tiêu chuẩn báo cáo rất khác nhau ở các quốc gia khác nhau. Không có số liệu thống kê nào là đặc biệt chính xác, nhưng tỷ lệ trường hợp mắc và tử vong ở Ấn Độ (Nam Á) và Châu Phi cận Sahara nói riêng có lẽ cao hơn nhiều so với báo cáo.[23][24]

Ca nhiễm và tử vong vì COVID-19 theo khu vực, theo số liệu và tỷ lệ tuyệt đối trên một triệu dân tính đến ngày 15 tháng 11 năm 2021[25]
Region[26] Tổng số ca Tổng số ca tử vong Ca nhiễm mỗi 1 triệu Tử vong mỗi 1 triệu Ca nhiễm hàng tuần hiện tại Ca tử vong hàng tuần hiện tại Dân số theo hàng triệu Đã tiêm đủ %[27]
Bắc Mỹ 48,979,877 788,818 132,806 2,139 750,755 10,186 369 59.6
Nam Mỹ 38,712,559 1,174,634 90,056 2,733 148,556 2,914 430 55.7
Liên minh Châu ÂuVương quốc Anh 52,053,776 947,404 101,001 1,838 1,428,123 10,139 515 66.6
Các quốc gia Châu Âu khác 15,416,638 221,419 93,106 1,337 463,561 8,074 166 45.7
Trung Mỹ 6,036,040 345,282 33,595 1,922 30,021 1,890 180 44.7
Nga và Trung Á 12,049,489 296,478 50,886 1,252 283,282 8,265 237 32.8
Trung Đông 13,996,848 209,059 53,629 801 82,704 1,159 261 37.0
Ca-ri-bê 2,041,573 23,913 47,155 552 21,093 263 43 41.1
Nam Á 38,917,535 553,649 20,964 298 94,724 2,865 1,856 26.5
Châu Đại Dương và các đảo ở Đông Á 9,194,126 212,965 15,927 369 31,722 1,535 577 44.4
Bắc Phi 2,630,605 71,034 13,037 352 14,271 627 202 22.8
Châu Phi cận Sahara 5,971,983 149,990 5,254 132 13,531 634 1,137 4.1
Đông Á 7,440,009 106,245 4,185 60 225,005 1,872 1,778 69.9
Tổng (hoặc trung bình) 253,441,058 5,100,890 32,698 658 3,587,348 50,423 7,751 41.9
Các trường hợp COVID-19 mới được xác định hàng tuần tại 7 khu vực hàng đầu trên thế giới.
 
Ca tử vong vì COVID-19 hàng tuần tại 7 khu vực hàng đầu trên thế giới.
 

Vắc-xin

Bảng được cập nhật tự động vào ngày 17 tháng 2 2025.[note 5] Số lượng và tỷ lệ phần trăm những người đã nhận được ít nhất một liều vắc xin COVID-19 (trừ khi có ghi chú khác). Có thể bao gồm việc tiêm chủng cho những người không phải là công dân, có thể đẩy tổng số vượt quá 100% dân số địa phương.

Địa điểm Số lượt tiêm[a] %[b]
  Thế giới[c] 5.645.247.500 70,7%
  Trung Quốc 1.318.026.800 92,5%
  Ấn Độ 1.027.438.900 72,1%
  châu Âu 338.481.060 75,4%
  Hoa Kỳ[d] 270.227.170 79,1%
  Indonesia 204.419.400 73,3%
  Brasil 189.643.420 90,2%
  Pakistan 165.567.890 67,9%
  Bangladesh 151.507.170 89,4%
  Nhật Bản 104.740.060 83,8%
  México 97.179.496 75,6%
  Nigeria 93.829.430 42,0%
  Việt Nam 90.497.670 90,8%
  Nga 89.081.600 61,2%
  Philippines 82.684.776 72,6%
  Iran 65.199.830 72,8%
  Đức 64.876.300 77,2%
  Thổ Nhĩ Kỳ 57.941.052 66,6%
  Thái Lan 57.005.496 79,5%
  Ai Cập 56.907.320 50,5%
  Pháp 54.677.680 82,5%
  Vương quốc Anh 53.806.964 78,9%
  Ethiopia 52.489.510 41,9%
  Ý[e] 50.936.720 85,4%
  Hàn Quốc 44.764.956 86,4%
  Colombia 43.012.176 83,1%
  Myanmar 41.551.930 77,3%
  Argentina 41.529.056 91,5%
  Tây Ban Nha 41.351.230 86,5%
  Canada 34.742.936 89,5%
  Tanzania 34.434.932 53,2%
  Peru 30.563.708 91,3%
  Malaysia 28.138.564 81,1%
  Nepal 27.883.196 93,8%
  Ả Rập Xê Út 27.041.364 84,0%
  Maroc 25.020.168 67,0%
  Nam Phi 24.210.952 38,8%
  Ba Lan 22.984.544 59,9%
  Mozambique 22.869.646 70,0%
  Úc 22.231.734 84,9%
  Venezuela 22.157.232 78,5%
  Uzbekistan 22.094.470 63,2%
  Đài Loan 21.899.240 93,5%
  Uganda 20.033.188 42,3%
  Afghanistan 19.151.368 47,2%
  Chile 18.088.516 92,5%
  Sri Lanka 17.143.760 75,1%
  Cộng hòa Dân chủ Congo 17.045.720 16,6%
  Angola 16.550.642 46,4%
  Ukraina 16.267.198 39,6%
  Ecuador 15.345.791 86,1%
  Campuchia 15.316.670 89,0%
  Sudan 15.207.452 30,8%
  Kenya 14.494.372 26,7%
  Ghana 13.864.186 41,8%
  Bờ Biển Ngà 13.568.372 44,6%
  Hà Lan 12.582.081 70,3%
  Zambia 11.711.565 58,1%
  Iraq 11.332.925 25,7%
  Rwanda 10.884.714 79,7%
  Kazakhstan 10.858.101 54,2%
  Cuba 10.805.570 97,7%
  Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất 9.991.089 97,5%
  Bồ Đào Nha 9.821.414 94,3%
  Bỉ 9.261.641 79,6%
  Somalia 8.972.167 50,4%
  Guatemala 8.937.923 50,1%
  Tunisia 8.896.848 73,4%
  Guinée 8.715.641 62,0%
  Hy Lạp 7.938.031 76,2%
  Algérie 7.840.131 17,2%
  Thụy Điển 7.775.726 74,1%
  Zimbabwe 7.525.882 46,8%
  Cộng hòa Dominica 7.367.193 65,6%
  Bolivia 7.361.008 60,9%
  Israel 7.055.466 77,5%
  Cộng hòa Séc 6.982.006 65,4%
  Hồng Kông 6.920.057 92,7%
  Áo 6.899.873 76,1%
  Honduras 6.596.213 63,0%
  Belarus 6.536.392 71,3%
  Hungary 6.420.354 66,3%
  Nicaragua 6.404.524 95,2%
  Niger 6.248.483 24,7%
  Thụy Sĩ 6.096.911 69,3%
  Burkina Faso 6.089.089 27,1%
  Lào 5.888.649 77,9%
  Sierra Leone 5.676.123 68,6%
  România 5.474.507 28,6%
  Malawi 5.433.538 26,4%
  Azerbaijan 5.373.253 52,2%
  Tajikistan 5.328.277 52,3%
  Singapore 5.287.005 93,6%
  Tchad 5.147.667 27,9%
  Jordan 4.821.579 42,8%
  Đan Mạch 4.746.522 80,4%
  El Salvador 4.659.970 74,2%
  Costa Rica 4.650.636 91,5%
  Turkmenistan 4.614.869 63,8%
  Phần Lan 4.524.288 81,2%
  Mali 4.354.292 18,9%
  Na Uy 4.346.995 79,7%
  Nam Sudan 4.315.127 39,2%
  New Zealand 4.302.330 83,8%
  Ireland 4.112.237 80,5%
  Paraguay 3.995.915 59,1%
  Liberia 3.903.802 72,7%
  Cameroon 3.753.733 13,6%
  Panama 3.746.041 85,1%
  Bénin 3.697.190 26,9%
  Kuwait 3.457.498 75,3%
  Serbia 3.354.075 49,4%
  Syria 3.295.630 14,7%
  Oman 3.279.632 69,3%
  Uruguay 3.010.464 88,8%
  Qatar 2.852.178 98,6%
  Slovakia 2.840.017 51,9%
  Liban 2.740.227 47,7%
  Madagascar 2.710.365 8,9%
  Sénégal 2.684.696 15,2%
  Cộng hòa Trung Phi 2.600.389 51,0%
  Croatia 2.323.025 59,5%
  Libya 2.316.327 32,1%
  Mông Cổ 2.284.018 67,5%
  Togo 2.255.579 24,8%
  Bulgaria 2.155.863 31,6%
  Mauritanie 2.103.754 43,1%
  Palestine 2.012.767 37,9%
  Litva 1.958.299 69,5%
  Botswana 1.951.054 80,0%
  Kyrgyzstan 1.736.541 25,0%
  Gruzia 1.654.504 43,6%
  Albania 1.349.255 47,7%
  Latvia 1.346.184 71,6%
  Slovenia 1.265.802 59,8%
  Bahrain 1.241.174 80,9%
  Armenia 1.150.915 40,0%
  Mauritius 1.123.773 88,1%
  Moldova 1.109.524 36,5%
  Yemen 1.050.202 2,7%
  Lesotho 1.014.073 44,4%
  Bosna và Hercegovina 943.394 29,4%
  Kosovo 906.858 52,8%
  Đông Timor 886.838 64,8%
  Estonia 870.202 64,5%
  Jamaica 859.773 30,3%
  Bắc Macedonia 854.570 46,4%
  Trinidad và Tobago 754.399 50,4%
  Guiné-Bissau 747.057 35,5%
  Fiji 712.025 77,4%
  Bhutan 699.116 89,5%
  Cộng hòa Congo 695.760 11,5%
  Ma Cao 679.703 96,5%
  Gambia 674.314 25,6%
  Síp 671.193 71,4%
  Namibia 629.767 21,8%
  Eswatini 526.050 43,2%
  Haiti 521.396 4,5%
  Guyana 497.550 60,6%
  Luxembourg 481.957 73,8%
  Malta 478.953 90,7%
  Brunei 451.149 99,1%
  Comoros 438.825 52,6%
  Djibouti 421.573 37,1%
  Maldives 399.308 76,2%
  Papua New Guinea 382.020 3,7%
  Cabo Verde 356.734 68,6%
  Quần đảo Solomon 343.821 44,0%
  Gabon 311.244 12,8%
  Iceland 309.770 81,4%
  Bắc Síp 301.673 78,8%
  Montenegro 292.783 47,6%
  Guinea Xích Đạo 270.109 15,0%
  Suriname 267.820 43,0%
  Belize 258.473 64,2%
  New Caledonia 192.375 67,0%
  Samoa 191.403 88,9%
  Polynesia thuộc Pháp 190.908 68,1%
  Vanuatu 176.624 56,4%
  Bahamas 174.810 44,0%
  Barbados 163.853 58,0%
  São Tomé và Príncipe 140.256 62,0%
  Curaçao 108.601 58,6%
  Kiribati 100.900 77,3%
  Aruba 90.546 84,0%
  Seychelles 88.520 70,5%
  Tonga 87.375 83,2%
  Jersey 84.365 81,5%
  Isle of Man 69.560 82,7%
  Antigua và Barbuda 64.290 69,2%
  Quần đảo Cayman 62.113 86,7%
  Saint Lucia 60.140 33,6%
  Andorra 57.913 72,6%
  Guernsey 54.223 85,1%
  Bermuda 48.554 75,0%
  Grenada 44.241 37,8%
  Gibraltar 42.175 112,1%
  Quần đảo Faroe 41.715 77,2%
  Greenland 41.227 73,6%
  Saint Vincent và Grenadines 37.532 36,8%