Mesut Özil

cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức

Mesut Özil (phát âm tiếng Đức: [ˈmeːzut ˈøːzil], tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: [meˈsut œˈzil]; sinh ngày 15 tháng 10 năm 1988) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công. Özil được biết đến với kỹ năng kỹ thuật, khả năng sáng tạo, kỹ năng chuyền bóng và tầm nhìn.[4] Anh cũng có thể thi đấu như một tiền vệ rộng.

Mesut Özil
Özil vào năm 2019
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Mesut Özil[1]
Ngày sinh 15 tháng 10, 1988 (35 tuổi)[2]
Nơi sinh Gelsenkirchen, Tây Đức
Chiều cao 1,80 m[3]
Vị trí Tiền vệ tấn công
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
1995–1998 Westfalia 04 Gelsenkirchen
1998–1999 Teutonia Schalke-Nord
1999–2000 Falke Gelsenkirchen
2000–2005 Rot-Weiss Essen
2005–2006 Schalke 04
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2006–2008 Schalke 04 30 (0)
2008–2010 Werder Bremen 71 (13)
2010–2013 Real Madrid 105 (19)
2013–2021 Arsenal 184 (33)
2021–2022 Fenerbahçe 32 (8)
2022–2023 İstanbul Başakşehir 4 (0)
Tổng cộng 427 (73)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2006–2007 U-19 Đức 11 (4)
2007–2009 U-21 Đức 16 (5)
2009–2018 Đức 92 (23)
Thành tích huy chương
Bóng đá nam
Đại diện cho  Đức
Cúp bóng đá thế giới
Vô địch 2014
Vị trí thứ ba 2010
Giải vô địch bóng đá U-21 châu Âu
Vô địch 2009
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Sinh ra và lớn lên ở Gelsenkirchen, Özil bắt đầu sự nghiệp câu lạc bộ cao cấp của mình khi chơi cho câu lạc bộ quê hương Schalke 04, trước khi ký hợp đồng với Werder Bremen vào năm 2008, ở tuổi 19. Sau khi giành chức vô địch DFB-Pokal trong mùa giải đầu tiên, những màn trình diễn cá nhân của anh ấy đã dẫn đến việc chuyển đến Real Madrid vào năm 2010.[5] Tại đây, anh đã giúp câu lạc bộ giành chức vô địch La Liga, và đứng đầu về số pha kiến ​​tạo trong ba mùa giải liên tiếp.[6] Năm 2013, Özil là chủ đề của một vụ chuyển nhượng kỷ lục câu lạc bộ khi anh ký hợp đồng với Arsenal trong một vụ chuyển nhượng trị giá lên tới 42,5 triệu bảng Anh (50 triệu euro), trở thành cầu thủ người Đức đắt giá nhất từ ​​trước đến nay vào thời điểm đó. Ở Anh, anh ấy đã giành được 3 FA Cup và giúp chấm dứt cơn hạn hán danh hiệu kéo dài 9 năm của Arsenal, đồng thời ghi nhiều đường kiến ​​tạo thứ hai từ trước đến nay (19) trong một mùa giải ở Premier League. Năm 2021, Özil gia nhập Fenerbahçe theo dạng chuyển nhượng tự do.[7] Đến năm 2022, anh gia nhập İstanbul Başakşehir và thi đấu tại đây cho đến khi giã từ sự nghiệp.

Là một cầu thủ quốc tế người Đức, Özil giữ kỷ lục cho các giải thưởng Cầu thủ Đức xuất sắc nhất trong năm (5). Anh có trận ra mắt cấp cao cho đội tuyển quốc gia Đức vào năm 2009 ở tuổi 20 và xuất hiện trong năm giải đấu lớn. Anh là cầu thủ kiến ​​tạo hàng đầu tại FIFA World Cup 2010UEFA Euro 2012, nơi anh đã giúp Đức hai lần lọt vào bán kết. Özil đã giúp Đức vô địch FIFA World Cup 2014, nhưng đã nghỉ thi đấu quốc tế vào năm 2018 do anh đã cáo buộc rằng Liên đoàn bóng đá Đức (DFB) và giới truyền thông Đức phân biệt đối xử và thiếu tôn trọng anh. Sau đó 4 năm, ngày 22 tháng 3 năm 2023, Mesut Özil chính thức giải nghệ sau 18 năm thi đấu chuyên nghiệp.

Thuở niên thiếu sửa

Mesut Özil[8] sinh ngày 15 tháng 10 năm 1988  tại Gelsenkirchen, North Rhine-Westphalia,[9] là một người con của người nhập cư Thổ Nhĩ Kỳ.[10][11] Ông nội của ông chuyển đến làm Gastarbeiter từ Zonguldak, Thổ Nhĩ Kỳ đến Đức.[12] Anh đã chơi ở cấp độ trẻ, cho nhiều câu lạc bộ khác nhau ở Gelsenkirchen trong giai đoạn 1995 ~ 2000, trước khi thi đấu năm năm cho Rot-Weiss Essen.[cần dẫn nguồn]

Sự nghiệp câu lạc bộ sửa

Schalke 04 sửa

Ozil bắt đầu sự nghiệp ở cấp độ trẻ khi chơi cho nhiều câu lạc bộ khác nhau ở Gelsenkirchen và có năm năm thi đấu ở Rot-Weiss Essen.

Năm 2005, anh chuyển tới đội trẻ của Schalke 04. Trận ra mắt của anh trong màu áo Schalke 04 là ở trận gặp Eintracht Frankfurt vào ngày 12 tháng 8 năm 2006.[13] Trận đầu tiên anh ra sân ngay từ đầu cho Schalke 04 vào ngày 17 tháng 9 năm 2006 trong trận thua 2-0 trước Hertha BSC Berlin. Trận ra mắt của anh ở cúp châu Âu cho Schalke là vào ngày 19 tháng 6 năm 2006 ở trận thua 3-1 trước AS Nancy thuộc khuôn khổ cúp UEFA. Anh đá ở vị trí tiền vệ và đeo áo số 17 sau khi chơi ở vị trí của một cầu thủ kiến tạo và tiền vệ tấn công để thay thế cầu thủ bị treo giò LincolnCúp Liên đoàn bóng đá Đức (Ligapokal) trong trận tiếp Bayer LeverkusenBayern München.[14] Sự xuất hiện của Özil tại đội một Schalke đã giúp anh được đánh giá là "cầu thủ lớn trong tương lai", tuy nhiên do những bất đồng với ban huấn luyện câu lạc bộ mà anh đã chuyển đến Werder Bremen vào tháng 1 năm 2008.[15]

Werder Bremen sửa

 
Özil với Werder Bremen năm 2010.

Vào ngày 31 tháng 1 năm 2008, anh ký hợp đồng thi đấu với Werder Bremen có thời hạn đến 31 tháng 7 năm 2011 với phí chuyển nhượng 4,3 triệu .[16] Ngày 6 tháng 4 năm 2008, anh ghi bàn thắng đầu tiên của mình ở Bundesliga trong trận gặp SC Karlsruher.[17]

Ở mùa giải 2008-09, anh cùng Bremen vô địch DFB-Pokal. Ở trận chung kết với Bayer Leverkusen, anh đã ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu.[18] Vào ngày 1 tháng 5 năm 2010 anh đánh dấu trận đấu thứ 100 của mình ở Bundesliga khi gặp chính đội bóng cũ Schalke 04. Ở trận này anh ghi bàn mở tỉ số, góp công vào chiến thắng 2-0 của đội nhà. Ở đấu trường châu Âu, anh cũng đã giúp Werder Bremen vào đến trận chung kết Cúp UEFA nhưng đã để thua đội bóng Ukraina Shakhtar Donetsk.[19] Mặc dù tại Bundesliga 2008–09, Bremen chỉ về đích ở vị trí thứ 10 nhưng Özil cũng đã thể hiện phong độ xuất sắc với ba bàn thắng và 15 đường kiến tạo thành bàn.[19]

Trong mùa giải 2009-10, Bremen xếp hạng ba tại Bundesliga, với 9 bàn thắng và 17 đường kiến tạo thành bàn của Özil. Tháng 7 năm 2010, anh từ chối gia hạn hợp đồng với Bremen và câu lạc bộ buộc phải chuẩn bị bán anh do hợp đồng đã sắp hết hạn.[20]

Real Madrid sửa

2010–11 sửa

 
Özil trong màu áo Real Madrid năm 2010.

Ngày 17 tháng 8 năm 2010, câu lạc bộ Werder Bremen thông báo họ đã đạt được thoả thuận với Real Madrid về việc chuyển nhượng Özil.[21] Mức phí chuyển nhượng ước tính là 15 triệu .[22][23]

Anh có trận đấu đầu tiên cho Real Madrid trong trận giao hữu thắng Hércules 3-1 ngày 22 tháng 8.[24] Trận đấu đầu tiên của Özil tại La Liga là khi anh được tung vào sân thay cho Ángel di María ở phút 62 trận hoà 0-0 với Mallorca ngày 29 tháng 8.[25] Ngày 15 tháng 9, anh có màn ra mắt tại UEFA Champions League trong chiến thắng 2-0 trước Ajax Amsterdam và có đường chuyền thành bàn cho Gonzalo Higuaín, đường chuyền thành bàn đầu tiên của anh cho Real.[26] Bốn ngày sau, anh ghi bàn ấn định chiến thắng 6-1 trước Racing tại La Liga.[27]

Özil có bàn thắng đầu tiên cho Real trong chiến thắng 6-1 tại La Liga trước Deportivo ngày 3 tháng 10 sau pha đột phá trong vòng cấm rồi dứt điểm bằng chân trái.[28] Ngày 19 tháng 10, anh ghi bàn thắng đầu tiên tại UEFA Champions League với pha lập công ấn định chiến thắng 2-0 trước AC Milan.[29] Ngày 22 tháng 12, anh có trận đấu đầu tiên tại Copa del Rey, ghi được một bàn trong chiến thắng 8-0 trước Levante.[30]

 
Özil và Daniele Bonera trong trận Real MadridMilan, UEFA Champions League 2010–11.

Ngày 6 tháng 3 năm 2011, sau khi có hai đường chuyền thành bàn trong chiến thắng 3-1 trước Racing de Santander, Özil đã được truyền thông quốc tế dành nhiều lời khen ngợi.[31] Anh ghi bàn trong trận đấu derby thành Madrid với Atlético de Madrid hai tuần sau đó.[32] Anh xuất hiện 69 phút trong trận chung kết Cúp Nhà vua Tây Ban Nha 2011, nơi mà Real đã đánh bại Barcelona 1-0 để đăng quang.[33] Kết thúc mùa giải 2010-11, anh có 25 đường chuyền thành bàn, nhiều hơn bất kì một cầu thủ nào khác ở châu Âu trong mùa giải đó. Phong độ của Özil trong mùa giải đầu tiên tại Real Madrid đã giúp anh nhận được sự khen ngợi của khán giả, truyền thông và đồng đội.[31][34]

2011–12 sửa

Özil khoác áo số 10 của Real Madrid từ đầu mùa giải 2011–12, dấu hiệu cho thấy huấn luyện viên người Bồ Đào Nha José Mourinho muốn anh trở thành cầu thủ dẫn dắt lối chơi của đội.[35] Ngày 14 tháng 8 năm 2011, Özil có bàn thắng đầu tiên vào lưới Barcelona trong trận El Clásico lượt đi Supercopa de España 2011.[36] Tuy nhiên trong trận lượt về ba ngày sau đó, anh lại bị đuổi khỏi sân sau pha tranh cãi với tiền đạo David Villa của Barca.[37]

Özil được đưa vào danh sách rút gọn của giải thưởng Quả bóng vàng FIFA năm 2011.[38]

 
Đôi giày của Özil được trưng bày tại bảo tàng sân vận động Santiago Bernabéu.

Ngày 2 tháng 5 năm 2012, anh đã giúp Real Madrid giành danh hiệu vô địch La Liga lần thứ 32 khi kiến tạo cho bàn mở tỉ số và ghi bàn thắng thứ hai trong chiến thắng 3-0 trước Bilbao.[39] 11 ngày sau, Özil lập cú đúp trong trận đấu cuối cùng của mùa giải với RCD Mallorca, chung cuộc Real thắng 4-1 và cán đích với mốc thành tích 100 điểm.[40] Tại La Liga 2011–12, anh dẫn đầu danh sách kiến thiết thành bàn với 17 lần.[41] Phong độ trong suốt mùa giải giúp anh được đề cử cho giải Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu của UEFA và đứng ở hạng 10, đồng thời cũng trở thành cầu thủ trẻ nhất trong top 10.[42]

2012–13 sửa

Vị trí của Özil tại mùa giải 2012-13 bị đe doạ bởi sự xuất hiện của Luka Modrić.[43] Anh có được danh hiệu đầu tiên trong mùa giải là Siêu cúp bóng đá Tây Ban Nha. Ngày 7 tháng 10 năm 2012, anh có đường kiến tạo cho Cristiano Ronaldo ghi bàn thắng gỡ hoà 2-2 trước Barcelona tại Nou Camp.[44] Ngày 6 tháng 11, Özil ghi bàn thắng quan trọng ở phút 89 từ quả đá phạt trực tiếp để đem về một điểm quý giá cho Real trong cuộc đối đầu Borussia Dortmund tại UEFA Champions League.[45] Tại La Liga, ngày 8 tháng 12, anh lập cú đúp giúp Real Madrid đánh bại Real Valladolid 3-2.[46] Tuy nhiên phong độ đi xuống của anh trong đầu mùa giải là nguyên nhân dẫn đến ba thất bại cùng hai trận hòa của Real ở La Liga.[47]

Ngày 20 tháng 4 năm 2013, Özil lập cú đúp trong chiến thắng 3-1 trước Real Betis.[48] Trong hai trận đấu lượt đi và về bán kết UEFA Champions League với Borussia Dortmund, Özil đều đã thể hiện phong độ không tốt mặc dù có một đường chuyền thành bàn cho Karim Benzema.[49][50] Mặc dù vậy, trong toàn mùa giải, anh có ảnh hưởng lớn lên lối chơi Real thông qua số bàn thắng toàn đội. Theo thống kê vào tháng 3 năm 2013, trong 112 lần Real làm tung lưới đối phương, có đến 83 lần được thực hiện khi Özil có mặt và chỉ 29 bàn được ghi khi anh ngồi ngoài, chiếm không quá 26%.[51]

2013–14 sửa

Mâu thuẫn giữa Özil và Real Madrid bắt đầu bùng phát khi đội bóng này từ chối tăng lương cho anh vào ngày 14 tháng 8 năm 2013.[52] Sự xuất hiện và toả sáng của tân binh Isco tại Bernabeu trong ba trận đầu tại La Liga cộng với phong độ mờ nhạt của Özil đã khiến anh không còn nhận được sự tin tưởng của huấn luyện viên Carlo Ancelotti. Cuối cùng Özil đã chuyển đến Arsenal và tiết lộ lý do chính khiến anh ra đi là Ancelotti.[53]

Trong ba năm thi đấu cho Real Madrid, Özil có tổng cộng 159 lần được ra sân với 27 bàn thắng và 85 đường chuyền thành bàn.[52]

Arsenal sửa

2013-14 sửa

 
Özil thi đấu cho Arsenal năm 2013.

Ngày 2 tháng 9 năm 2013, ngày cuối cùng của kì chuyển nhượng mùa hè 2013, Özil đã chính thức chuyển đến Anh thi đấu cho Arsenal theo bản hợp đồng có thời hạn 5 năm.[54] Trước đó vài giờ, trong buổi ra mắt tân binh Gareth Bale tại Real, các cổ động viên đội bóng Hoàng gia Tây Ban Nha đã đăng các biểu ngữ "¡Özil no se vende!" ("Özil không phải để bán!") trước mặt chủ tịch Florentino Pérez.[55][56] Arsenal phải bỏ ra cho thương vụ với Özil 42,5 triệu Bảng, số tiền kỷ lục mà câu lạc bộ này dành cho một cầu thủ (vượt qua kỷ lục cũ 16,5 triệu Bảng của Santi Cazorla).[57][58] Ngoài ra, anh còn lập một kỷ lục khác khi trở thành cầu thủ người Đức đắt giá nhất trên thị trường chuyển nhượng.[58] Mức lương mà anh hưởng theo hợp đồng trên cũng ước tính là 170.000 Bảng/tuần. Đây cũng là mức lương cao nhất mà một cầu thủ Arsenal từng được hưởng trong lịch sử câu lạc bộ.[59] Anh khoác số 11 tại Arsenal.[60]

Özil có trận đấu đầu tiên cho Arsenal trong chiến thắng 3-1 trước Sunderland ngày 14 tháng 9. Trong trận này, anh là người kiến tạo bàn thắng mở tỉ số trận đấu của Olivier Giroud chỉ sau 11 phút thi đấu.[61] Ba ngày sau đó, anh có trận đấu đầu tiên cho Arsenal tại Champions League gặp Marseille.[62] Trong trận đấu đầu tiên của Özil trên sân nhà Emirates tại Premier League, anh đã góp công trong cả ba bàn thắng vào lưới Stoke City với hai đường kiến tạo và quả đá phạt tạo cơ hội cho Aaron Ramsey ghi bàn.[63] Ngày 2 tháng 10, trong trận đấu với Napoli tại khuôn khổ vòng bảng UEFA Champions League, ngay phút thứ 8, anh đã ghi bàn thắng mở tỉ số từ một cú đệm bóng đẹp mắt, bàn thắng đầu tiên của anh cho Arsenal. Sau đó ở phút 15 anh đã có đường chuyền kiến tạo để Giroud ghi bàn ấn định đem lại chiến thắng 2-0 cho Arsenal.[64] Hai bàn thắng đầu tiên của anh tại Giải Ngoại hạng Anh đến trong chiến thắng 4-1 trước Norwich City ngày 19 tháng 10.[65] Một trong hai bàn thắng có một pha lập công bằng đầu và đó là bàn thắng bằng đầu đầu tiên trong sự nghiệp cầu thủ của Özil.[66]

Ngày 29 tháng 10 năm 2013, Özil có tên trong danh sách để cử rút gọn cho danh hiệu Quả bóng vàng FIFA 2013.[67] Ngày 14 tháng 12 năm 2013, Özil bị người đồng đội Per Mertesacker mắng ngay trên sân cỏ do không chào các cổ động viên Arsenal trước khi rời sân sau trận thua Manchester City 6-3 trên sân Etihad. Sau khi trở về nhà, Özil đã đăng tải lời xin lỗi các cổ động viên trên trang Facebook của mình.[68]

Ngày 28 tháng 1 năm 2014, Özil có pha kiến tạo thứ mười trong mùa giải với đường chuyền cho Santi Cazorla ghi bàn trong trận hòa 2-2 với Southampton.[69] Trong tháng 2, Özil có pha sút hỏng phạt đền trong trận đấu lượt đi vòng 1/16 Champions League với Bayern München, gián tiếp dẫn đến thất bại 0-2 của Arsenal.[70] Ngày 8 tháng 3, anh có bàn thắng đầu tiên trong năm 2014 trong chiến thắng 4-1 trước Everton tại tứ kết Cúp FA.[71] Trong trận lượt về với Bayern München vào ngày 13 tháng 3, anh đã gặp phải chấn thương gân kheo và bị thay ra giữa trận, buộc phải nghỉ thi đấu một tháng và vắng mặt trong các trận đấu quan trọng với ChelseaManchester City.[72]

Özil chính thức trở lại vào ngày 20 tháng 4 trong chiến thắng 3-0 trước Hull City tại Giải Ngoại hạng.[73] Sau đó một tuần anh có một bàn thắng và một pha kiến tạo cho Olivier Giroud trong trận thắng Newcastle United 3-0.[74]

Özil vào sân từ hiệp hai trong trận chung kết Cúp FA 2014 trên sân vận động Wembley và chung cuộc Arsenal đã giành thắng lợi 3-2 trước Hull City để có được danh hiệu đầu tiên sau 9 năm trắng tay ở mọi giải đấu.[75]

2014-15 sửa

Özil có trận đấu đầu tiên trong mùa giải 2014-15 trong trận hòa 2-2 với Everton tại sân Goodison Park vào ngày 23 tháng 8. Ngày 20 tháng 9, anh có một bàn thắng và một đường chuyền thành bàn cho Danny Welbeck giúp Arsenal thắng Aston Villa 3-0 trên sân Villa Park.[76] Trong trận đấu đầu tiên của Arsenal tại vòng bảng UEFA Champions League 2014-15 với Borussia Dortmund, anh đã có màn trình diễn yếu kém và bị đánh giá là cầu thủ có điểm số thấp nhất trận[77], nhưng đến trận đấu thứ hai trước Galatasaray, anh kiến tạo cho Alexis Sánchez ghi bàn trong chiến thắng 4-1.[78] Ngày 8 tháng 10, Liên đoàn bóng đá Đức thông báo Özil phải nghỉ thi đấu từ 10 đến 12 tuần do chấn thương đầu gối trái gặp phải trong trận thua 2–0 trước Chelsea.[79]

Özil có trận đấu chính thức trở lại vào ngày 11 tháng 1 năm 2015 khi anh vào sân ở phút thứ 73 trận thắng 3-0 trước Stoke City.[80] Hai tuần sau, anh ghi bàn thắng thứ hai cho Arsenal trong trận thắng 3-2 trước Brighton & Hove Albion ở vòng 4 Cúp FA.[81] Trong lần được ra sân chính thức đầu tiên tại Giải ngoại hạng Anh trong năm 2015, Özil có một pha lập công và một pha kiến tạo cho Olivier Giroud trong chiến thắng Aston Villa 5–0 vào ngày 1 tháng 2.[82] Một tuần sau, anh mở tỉ số cho "Các pháo thủ" trong trận Derby Bắc Luân Đôn với Tottenham Hotspur tại White Hart Lane nhưng sau đó đối thủ đã lội ngược dòng thắng lại 2-1.[83]

Tại vòng đấu loại trực tiếp Champions League, Özil thi đấu không thành công ở cả hai lượt trận đi về với AS Monaco và chung cuộc Arsenal bị loại vì luật bàn thắng trên sân khách. Trong trận lượt về, người hâm mộ Arsenal đã chỉ trích anh rất nhiều hành vi đổi áo đấu với cầu thủ Geoffrey Kondogbia của Monaco ngay khi hiệp một vừa kết thúc. Vào ngày 4 tháng 4, anh đã ghi bàn thắng thứ hai của Arsenal trong chiến thắng 4–1 trước Liverpool.[84] Anh tiếp tục góp mặt trong trận chung kết Cúp FA lần thứ hai liên tiếp của Các Pháo Thủ và có được danh hiệu thứ hai cùng đội bóng nước Anh sau chiến thắng 4-0 trước Aston Villa.[85]

2015-16 sửa

 
Özil thi đấu cho Arsenal năm 2015.

Ngày 2 tháng 8 năm 2015, Özil có được danh hiệu đầu tiên ngay đầu mùa giải sau chiến thắng 1-0 trước Chelsea tại Siêu cúp Anh 2015. Ngày 4 tháng 10, anh có được bàn thắng đầu tiên trong mùa giải 2015-16 trong chiến thắng 3-0 trước Manchester United. Trong trận này anh còn có pha kiến tạo cho Alexis Sánchez mở tỉ số.[86] Hai tuần sau, anh có hai pha kiến tạo cho Sánchez và Olivier Giroud, giúp Arsenal thắng Watford's 3-0.[87] Ngày 20 tháng 10, Özil ghi bàn đầu tiên tại đấu trường UEFA Champions League 2015–16 trong trận đấu với Bayern München.[88]

Ngày 8 tháng 11 năm 2015, anh thiết lập một kỷ lục mới tại Premier League khi là cầu thủ đầu tiên kiến tạo thành bàn trong sáu trận đấu liên tiếp sau khi giúp Kieran Gibbs ghi bàn trong trận hòa 1–1 với Tottenham Hotspur.[89] Ngày 28 tháng 12, Özil có một pha kiến tạo và một bàn thắng trong trận thắng Bournemouth 2-0, ngoài ra còn có chín đường chuyền tạo cơ hội ghi bàn trong suốt trận.[90][91] Ngày 24 tháng 1 năm 2016, Özil có trận đấu thứ 100 cho Pháo thủ (Gunners) trong trận đấu với Chelsea tại Premier League nhưng đội bóng của anh đã thua 1-0.[92] Ở trận đấu tại vòng đấu kế tiếp với Southampton, Özil tạo ra 10 cơ hội ghi bàn trong một trận, nhiều hơn bất kỳ cầu thủ nào tại Premier League trong mùa giải nhưng các đồng đội của anh đều không tận dụng thành công và trận đấu kết thúc với tỉ số 0-0.[93]

Ngày 7 tháng 2, anh ghi bàn mở tỉ số trong chiến thắng 2-0 trước Bournemouth.[94] Özil có pha kiến tạo thứ 17 trong mùa giải để giúp Danny Welbeck ấn định chiến thắng 2-1 trước đội đầu bảng Leicester City một tuân sau đó.[95] Vào cuối tháng 2, anh có một pha kiến tạo và một bàn thắng trong trận đấu với Manchester United tại Old Trafford nhưng đã không thể giúp Arsenal tránh khỏi trận thua 3-2.[96]

Ngày 15 tháng 5, Özil kiến tạo cho Olivier Giroud trong chiến thắng 4-0 của Arsenal trước Aston Villa tại lượt trận cuối cùng Premier League 2015-16. Đây là lần kiến tạo thứ 19 của Özil trong mùa giải, thành tích chỉ đứng sau kỷ lục 20 lần kiến tạo trong một mùa giải Premier League của Thierry Henry lập trong mùa giải 2002-03.[97] Cộng với 8 bàn thắng trên mọi đấu trường, Özil được các cổ động viên bình chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của Arsenal.[98]

2016-17 sửa

Özil có trận đấu và pha lập công đầu tiên trong mùa giải 2016-17 trong chiến thắng 3-1 trước Watford.[99] Ngày 19 tháng 10 năm 2016 trong trận đấu vòng bảng Champions League với đội bóng của BulgariaLudogorets Razgrad, Özil đã có được hat-trick đầu tiên trong sự nghiệp giúp Arsenal giành thắng lợi 6-0.[100]

2017–18 sửa

Ngày 31 tháng 1 năm 2018, Özil ký hợp đồng mới với Arsenal có thời hạn đến năm 2021 và giúp anh trở thành cầu thủ hưởng lương cao nhất lịch sử câu lạc bộ với 350.000 £ mỗi tuần.[101] Ngày 11 tháng 3 năm 2018, anh có đường chuyền thành bàn thứ 50 tại Premier League trong trận thắng 3–0 trước Watford và anh đã trở thành cầu thủ đạt đến cột mốc 50 đường chuyền thành bàn nhanh nhất lịch sử giải đấu, chỉ sau 141 trận, vượt thành tích cũ 143 trận của Eric Cantona.[102]

Sự nghiệp quốc tế sửa

Özil đã phát biểu với tạp chí bóng đá FourFourTwo về lựa chọn thi đấu cho đội tuyển Đức: "Tôi thuộc thế hệ thứ ba tại Đức, cha tôi đã lớn lên tại đây. Thổ Nhĩ Kỳ luôn mang ý nghĩa đặc biệt với tôi nhưng tôi khẳng định mình không sai lầm khi chọn đội tuyển Đức. Tôi cũng đã bắt đầu thi đấu cho các đội tuyển trẻ của Đức."[103]

Vào tháng 9 năm 2006, Özil được gọi cho đội tuyển U-17 Đức. Özil là thành viên của đội U-21 Đức từ năm 2007, ghi 4 bàn qua 11 trận đấu. Vào ngày 5 tháng 2 năm 2009, anh được gọi tập trung cho đội tuyển quốc gia Đức bởi huấn luyện viên Joachim Löw. Ngày 11 tháng 2 năm 2009, anh có trận ra mắt trong màu áo đội tuyển tiếp Na Uy, trận này Đức thua 1-0.[104]

Năm 2009, Özil là mắt xích chủ chốt trong thành phần đội tuyển U-21 Đức vô địch giải vô địch châu Âu lứa tuổi U-21. Vào ngày 29 tháng 6 năm 2009, anh đã ghi bàn trong trận thắng 4-0 ở trận chung kết Giải vô địch bóng đá U-21 châu Âu 2009 trước đội tuyển U-21 Anh.[105]

World Cup 2010 sửa

 
Özil thi đấu cho Đức năm 2009.

Ở vòng loại World Cup 2010, trong trận gặp đội tuyển Nga, chính anh là người đã kiến tạo cơ hội để tiền đạo Miroslav Klose ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu.[106] Ngày 7 tháng 9 năm 2009, anh có bàn thắng đầu tiên trong màu áo đội tuyển Đức với bàn ấn định tỉ số 2-0 trong trận giao hữu với Nam Phi tại sân BayArena, Leverkusen.[107] Anh cũng được triệu tập vào đội tuyển bóng đá quốc gia Đức tham dự World Cup 2010.[108] Với sự vắng mặt của đội trưởng Michael Ballack, Özil được kì vọng sẽ là hạt nhân trong đội hình đội tuyển.

Ở trận đầu tiên gặp Úc, dù không ghi bàn song Özil đã chơi rất tốt và kiến tạo hai tình huống ghi bàn của Lukas PodolskiCacau.[109] Ở trận đấu thứ hai gặp Serbia, trước một đối thủ mạnh hơn, Özil đã chơi không đúng sức và bị thay ra ở hiệp hai để nhường chỗ cho Cacau, trận này Đức thua 1-0.[110]

Trong trận đấu cuối cùng tại vòng bảng với Ghana, Özil đã ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu với cú sút xa bằng chân trái, bóng đi thẳng vào góc cao đánh bại thủ thành Richard Kingson.[111] Anh đã được FIFA bầu chọn làm cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu.[112] Ngày 27 tháng 6, trong trận đấu vòng hai với đội tuyển Anh, Özil tuy không trực tiếp ghi bàn nhưng đã tham gia đóng góp vào bàn thắng thứ hai và có đường chuyền quyết định cho Thomas Müller ấn định tỉ số 4-1.[113] Sau đó, đội tuyển Đức đã để thua Tây Ban Nha ở bán kết và chung cuộc giành huy chương đồng sau khi đánh bại Uruguay. Kết thúc giải đấu, Özil đã lọt vào danh sách 10 ứng cử viên cho danh hiệu "Quả bóng vàng" dành cho Cầu thủ xuất sắc nhất World Cup 2010.[114]

Euro 2012 sửa

Özil là cầu thủ chủ chốt của đội tuyển Đức tại Vòng loại Euro 2012 với 5 bàn thắng và đội tuyển nước này kết thúc vòng loại với cả 10 trận toàn thắng.[115] Anh còn đóng góp 7 pha kiến tạo thành bàn, nhiều hơn bất kì một cầu thủ nào khác tại vòng loại Euro 2012.[116][117] Ngày 29 tháng 2 năm 2012, Özil trở thành cầu thủ xuất sắc nhất nước Đức năm 2011 trước khi trận giao hữu với Pháp tại Bremen bắt đầu.[118][119]

Tại Euro 2012, anh trở thành cầu thủ xuất sắc nhất trận trong trận đấu vòng bảng với Bồ Đào Nha[120] và tại tứ kết với Hy Lạp.[121] Tại giải đấu này anh có pha lập công duy nhất trong trận thua Ý 2-1 ở bán kết.[122] Sau khi giải đấu kết thúc, Ủy ban kỹ thuật của UEFA chọn Özil vào danh sách 23 cầu thủ tiêu biểu của giải.[123] Phong độ của anh tại Euro 2012 và trong màu áo Real Madrid đã giúp anh tiếp tục được người hâm mộ Đức bình chọn là Cầu thủ Đức xuất sắc nhất năm 2012.[124][125]

World Cup 2014 sửa

 
Özil đang giữ cúp vàng sau trận chung kết FIFA World Cup 2014.

Özil kết thúc chiến dịch vòng loại FIFA World Cup 2014 với tư cách là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho đội tuyển Đức với 8 bàn thắng.

Sau chấn thương của Marco Reus trong một trận đấu khởi động, Özil được chuyển từ vai trò số 10 thông thường sang vị trí tiền vệ cánh trái trong phần lớn thời gian của giải đấu. Anh đá chính tất cả bảy trận đấu tại FIFA World Cup 2014 của Đức, và giúp Đức làm nên lịch sử khi trở thành đội châu Âu đầu tiên vô địch World Cup ở Nam Mỹ. Özil ghi được bàn thắng quyết định ở phút thứ 119 của 2-1 của Đức vòng 16 chiến thắng trước Algérie, một trận đấu được đánh giá cao là một trong những nhất giải trí của giải đấu. Özil sau đó cung cấp một đường kiến ​​tạo cho Sami Khedira trong chiến thắng 7–1 ở bán kết của Đức trước Brazil. Özil kiến ​​tạo, với một đường chuyền thông minh, nâng tỷ số lên 5–0 cho Đức chỉ sau 29 phút. Tính chất gây sốc của trận đấu liên tiếp 5 bàn thắng đã tạo ra sự kinh ngạc trên toàn thế giới.

Trong trận chung kết , Özil chơi 120 phút trước khi bị thay thế bởi đồng đội Per Mertesacker ở Arsenal. Đức đã lên ngôi vô địch Thế giới với chiến thắng 1–0. Sau khi chiếc cúp được trao cho đội tuyển Đức, Chủ tịch UEFA Michel Platini đã xin Özil chiếc áo thi đấu của anh ấy làm kỷ niệm, và Özil đã chấp nhận. Anh kết thúc giải đấu với tư cách là người dẫn đầu về số đường chuyền hoàn thành ở 1/3 chung cuộc (171), được xếp thứ hai về số cơ hội được tạo ra (17), chỉ sau Lionel Messi (23) và xếp thứ hai về số lần sở hữu giành được trong phần ba cuối cùng (6).

Euro 2016 sửa

Özil là một trong 23 cầu thủ Đức được triệu tập tham dự Euro 2016 tại Pháp.[126] Ngày 12 tháng 6, trong trận mở màn của Đức tại giải đấu với Ukraine, anh là người có đường chuyền để Bastian Schweinsteiger ấn định tỉ số 2-0 của trận đấu.[127] Đến trận đấu cuối cùng của vòng bảng với Bắc Ireland, Özil đạt tỷ lệ chuyền bóng chính xác 67/68 đường chuyền, tạo ra 6 cơ hội cho đồng đội và có 3 pha qua người và được UEFA chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu.[128]

Özil trở thành cầu thủ Đức đầu tiên thực hiện phạt đền không thành công trong lịch sử các vòng chung kết Euro (không tính loạt sút luân lưu) ở trận đấu vòng 1/16 với Slovakia.[129] Ngày 2 tháng 7, anh là người ghi bàn mở tỉ số trong trận tứ kết với Ý nhưng sau đó Leonardo Bonucci đã ghi bàn gỡ hòa khiến trận đấu phải đi vào loạt sút luân lưu.[130] Trong loạt sút này, Özil đã sút hỏng lượt của mình nhưng chung cuộc Đức vẫn vào bán kết với tỉ số luân lưu 6-5.[131] Tuy nhiên, cỗ xe tăng Đức đã phải dừng bước ở bán kết sau khi để thua chủ nhà Pháp với tỉ số 0-2 bằng một cú đúp của tiền đạo Antoine Griezmann.

World Cup 2018 sửa

Özil tiếp tục có tên trong danh sách 23 cầu thủ tham dự World Cup 2018 tại Nga[132] mặc dù bị chỉ trích bởi Liên đoàn bóng đá Đức không lâu trước khi giải đấu diễn ra liên quan đến việc anh và İlkay Gündoğan chụp ảnh cùng với tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdoğan.[133]

Anh ra sân trong trận mở màn của Đức tại Bảng F với Mexico nhưng thi đấu mờ nhạt và nhà đương kim vô địch World Cup đã phải rời sân với thất bại 1-0.[134] Özil sau đó ngồi ngoài trận thắng Thụy Điển 2-1, nhưng được huấn luyện viên Joachim Löw cho đá chính trở lại ở trận quyết định gặp Hàn Quốc. Mặc dù cá nhân Özil được trang web thống kê Squawka đánh giá là cầu thủ chơi hay nhất trận bên phía tuyển Đức, với bảy lần tạo ra cơ hội cho đồng đội, đội tuyển Đức lần đầu tiên sau 80 năm bị loại ở vòng bảng World Cup sau thất bại 2-0 trước Hàn Quốc.[135]

Sau World Cup 2018, Özil chính thức tuyên bố giã từ đội tuyển quốc gia sau 9 năm gắn bó, tổng cộng anh đã thi đấu 92 trận và ghi được 23 bàn thắng. Nguyên nhân được anh đưa ra khi chia tay đội tuyển Đức là sự phân biệt chủng tộc và thiếu tôn trọng quá nặng nề, cũng như việc chủ tịch Liên đoàn bóng đá Đức Reinhard Grindel xem anh là vật tế thần cho thất bại của Đức tại World Cup 2018.[136]

Phong cách thi đấu sửa

Özil thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công và nổi bật với khả năng kiến thiết bàn thắng của mình. Huấn luyện viên Mourinho đã nói về anh, "Cậu ấy là số 10 tuyệt nhất của bóng đá thế giới đương đại. Mọi người đều yêu quý cậu ấy, một người có sự pha lẫn của Luis FigoZinedine Zidane."[4] Năm 2011, Özil xếp thứ nhất trong danh sách các chân chuyền thành bàn tại châu Âu với 25 lần. Năm 2012, anh đứng đầu La Liga về con số đường chuyền thành bàn là 17.[137][138] Tại La Liga 2012-13, anh đứng đấu về chuyền bóng khi có nhiều đường chuyền quan trọng hơn cả bộ ba của Barcelona là Andrés Iniesta, Sergio BusquetsCesc Fabregas cộng lại (78 so với 73).[139] Khi Real Madrid bán Özil, đồng đội của anh Cristiano Ronaldo đã tỏ ra rất tức giận. Trong ba mùa giải bộ đôi này chơi cùng nhau ở Madrid, Ronaldo đã ghi được 27 bàn thắng từ những đường chuyền của Özil. Tiền vệ người Đức trở thành người làm bóng tốt nhất cho Ronaldo trong suốt sự nghiệp của anh cho tới tháng 9 năm 2013.[140]

Ngoài khả năng kiến tạo, Özil cũng được đánh giá cao về kỹ thuật cá nhân. Huấn luyện viên đội tuyển Đức Joachim Löw khen Özil có những 'thời khắc thiên tài' và khả năng xử lý không bóng.[141] Cựu danh thủ Ruud Gullit đánh giá Özil "kỹ thuật hoàn hảo" và "hoàn toàn kiểm soát được trái bóng" cũng như "đầy sáng tạo".[142] Horst Hrubesch, huấn luyện viên đội tuyển U-21 Đức so sánh anh với Messi và gọi anh là Messi của đội Đức.[143]

Tuy nhiên điểm yếu trong sự nghiệp thi đấu của Özil là khả năng dứt điểm và không ghi được nhiều bàn thắng.[144] Ở đội tuyển Đức, anh được đánh giá là đôi khi chiếm được vị trí tốt nhưng lại dứt điểm không đủ mạnh.

Cuộc sống cá nhân sửa

Özil là người Đức gốc Thổ Nhĩ Kỳ thế hệ thứ ba.[145][146] Anh đã nói về mình là sự kết hợp giữa hai dòng máu Đức và Thổ Nhĩ Kỳ "Kỹ thuật và cảm nhận của tôi với trái bóng trong một trận đấu thuộc về phần Thổ Nhĩ Kỳ. Kỷ luật, thái độ và sự cống hiến hết mình là đến từ phần người Đức."[147] Tổ tiên của anh đến từ vùng Devrek, Zonguldak phía Tây Bắc Thổ Nhĩ Kỳ.[148]

Özil là một tín đồ Hồi giáo. Anh thường đọc kinh Koran trước mỗi trận đấu và cầu nguyện.[149][150] Tuy nhiên anh không thực hiện đầy đủ tháng chay Ramadan mà chỉ trong vài ngày để không ảnh hưởng đến thể lực.[151]

Năm 2010, Özil nhận Giải thưởng Bambi cho tấm gương thành công của người nhập cư trong xã hội Đức.[152] Năm 2013, anh ký hợp đồng quảng cáo với hãng dụng cụ thể thao Adidas.[153]

Thống kê sự nghiệp sửa

Câu lạc bộ sửa

Số lần ra sân và bàn thắng theo câu lạc bộ, mùa giải và giải đấu
Câu lạc bộ Mùa giải Giải vô địch Cúp quốc gia[a] Cúp liên đoàn[b] Châu lục Khác Tổng cộng
Hạng đấu Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn
Schalke 04 2006–07 Bundesliga 19 0 1 0 2 0 1[c] 0 23 0
2007–08 11 0 1 1 0 0 4[d] 0 16 1
Tổng cộng 30 0 2 1 2 0 5 0 39 1
Werder Bremen 2007–08 Bundesliga 12 1 2[c] 0 14 1
2008–09 28 3 5 2 14[e] 0 47 5
2009–10 31 9 5 0 10[f] 2 46 11
2010–11 1 0 1 0
Tổng cộng 71 13 11 2 26 2 108 17
Real Madrid 2010–11 La Liga 36 6 6 3 11[d] 1 53 10
2011–12 35 4 5 0 10[d] 2 2[g] 1 52 7
2012–13 32 9 8 0 10[d] 1 2[g] 0 52 10
2013–14 2 0 2 0
Tổng cộng 105 19 19 3 31 4 4 1 159 27
Arsenal 2013–14 Premier League 26 5 5 1 1 0 8[d] 1 40 7
2014–15 22 4 5 1 0 0 5[d] 0 0 0 32 5
2015–16 35 6 1 0 0 0 8[d] 2 1[h] 0 45 8
2016–17 33 8 3 0 0 0 8[d] 4 44 12
2017–18 26 4 0 0 2 0 7[f] 1 0 0 35 5
2018–19 24 5 1 0 0 0 10[f] 1 35 6
2019–20 18 1 1 0 2 0 2[f] 0 23 1
2020–21 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Tổng cộng 184 33 16 2 5 0 48 9 1 0 254 44
Fenerbahçe 2020–21 Süper Lig 10 0 1 0 11 0
2021–22 22 8 0 0 4 1 26 9
Tổng cộng 32 8 1 0 4 1 37 9
İstanbul Başakşehir 2022–23 Süper Lig 4 0 1 0 2 0 7 0
Tổng cộng sự nghiệp 427 73 50 8 7 0 116 16 5 1 598 98
  1. ^ Bao gồm DFB-Pokal, Copa del Rey, FA Cup, Turkish Cup
  2. ^ Bao gồm DFL-Ligapokal, Football League/EFL Cup
  3. ^ a b Ra sân tại UEFA Cup
  4. ^ a b c d e f g h Ra sân tại UEFA Champions League
  5. ^ 4 lần ra sân tại UEFA Champions League, 8 lần ra sân tại UEFA Cup
  6. ^ a b c d Ra sân tại UEFA Europa League
  7. ^ a b Ra sân tại Supercopa de España
  8. ^ Ra sân tại FA Community Shield

Quốc tế sửa

Số lần ra sân và bàn thắng của đội tuyển quốc gia và năm[154]
Đội tuyển quốc gia Năm Trận Bàn
Đức 2009 7 1
2010 14 2
2011 9 5
2012 13 6
2013 9 3
2014 10 1
2015 8 0
2016 13 3
2017 5 1
2018 4 1
Tổng cộng 92 23

Bàn thắng quốc tế sửa

Tỷ số và kết quả liệt kê tỷ số bàn thắng của Đức trước tiên, cột điểm cho biết điểm số sau mỗi bàn thắng của Özil.[155]
Ngày Địa điểm Đối thủ Bàn thắng Kết quả Giải đấu
1. 5 tháng 9 năm 2009 BayArena, Leverkusen, Đức   Nam Phi 2–0 2–0 Giao hữu
2. 23 tháng 6 năm 2010 Soccer City, Johannesburg, Nam Phi   Ghana 1–0 1−0 FIFA World Cup 2010
3 8 tháng 10 năm 2010 Sân vận động Olympic, Berlin, Đức   Thổ Nhĩ Kỳ 2–0 3–0 Vòng loại UEFA Euro 2012
4 7 tháng 6 năm 2011 Sân vận động Cộng hòa Tofiq Bahramov, Baku, Azerbaijan   Azerbaijan 1–0 3–1
5 2 tháng 9 năm 2011 Veltins-Arena, Gelsenkirchen, Đức   Áo 2–0 6–2
6 4–1
7 11 tháng 10 năm 2011 Esprit Arena, Düsseldorf, Đức   Bỉ 1–0 3–1
8 15 tháng 11 năm 2011 Volksparkstadion, Hamburg, Đức   Hà Lan 3–0 3–0 Giao hữu
9 28 tháng 6 năm 2012 Sân vận động Quốc gia, Warszawa, Ba Lan   Ý 1–2 1–2 UEFA Euro 2012
10. 7 tháng 9 năm 2012 AWD-Arena, Hanover, Đức   Quần đảo Faroe 2–0 3–0 Vòng loại FIFA World Cup 2014
11. 3–0
12. 11 tháng 9 năm 2012 Sân vận động Ernst Happel, Vienna, Áo   Áo 2–0 2–1
13. 12 tháng 10 năm 2012 Sân vận động Aviva, Dublin, Ireland   Cộng hòa Ireland 3–0 6–1
14. 16 tháng 10 năm 2012 Sân vận động Olympic, Berlin, Đức   Thụy Điển 4–0 4–4
15. 10 tháng 9 năm 2013 Tórsvøllur, Tórshavn, Quần đảo Faroe   Quần đảo Faroe 2–0 3-0
16. 11 tháng 10 năm 2013 Sân vận động RheinEnergie, Cologne, Đức   Cộng hòa Ireland 3–0 3–0
17. 15 tháng 10 năm 2013 Friends Arena, Solna, Thụy Điển   Thụy Điển 1–2 5–3
18. 30 tháng 6 năm 2014 Sân vận động Beira-Rio, Porto Alegre, Brasil   Algérie 2–0 2–1 FIFA World Cup 2014
19. 29 tháng 3 năm 2016 Allianz Arena, München, Đức   Ý 4–0 4–1 Giao hữu
20. 2 tháng 7 năm 2016 Sân vận động Bordeaux mới, Bordeaux, Pháp   Ý 1–0 1–1 UEFA Euro 2016
21. 31 tháng 8 năm 2016 Borussia-Park, Mönchengladbach, Đức   Phần Lan 2–0 2–0 Giao hữu
22. 4 tháng 9 năm 2017 Mercedes-Benz Arena, Stuttgart, Đức   Na Uy 1–0 6–0 Vòng loại FIFA World Cup 2018
23. 2 tháng 6 năm 2018 Sân vận động Wörthersee, Klagenfurt, Áo   Áo 1–0 1–2 Giao hữu
Cập nhật: 2 tháng 6 năm 2018

Danh hiệu sửa

Câu lạc bộ sửa

SV Werder Bremen sửa

Real Madrid sửa

Arsenal sửa

Quốc tế sửa

U-21 Đức sửa

Đức sửa

Cá nhân sửa

  • Giải thưởng đội hình Bundesliga của năm do tạp chí kicker bình chọn: 2008–09[172]
  • Tiền vệ tấn công của năm do tạp chí kicker bình chọn: 2010[173]
  • Cầu thủ kiến ​​tạo hàng đầu tại Ngoại hạng Anh: 2015–16[174]
  • Cầu thủ bóng đá Đức của năm: 2011, 2012, 2013, 2015, 2016[175][176]
  • Đội hình tiêu biểu Giải vô địch bóng đá châu Âu: 2012[177]
  • Đội hình tiêu biểu trong năm của UEFA: 2012, 2013[178][179]
  • Giải thưởng Truyền thông Laureus: 2014[180][181]
  • Cầu thủ PFA xuất sắc nhất tháng do người hâm mộ bình chọn: Tháng 4, tháng 11, tháng 12 năm 2015[182][183]
  • Giải thưởng Đại sứ bóng đá Đức: 2015[184]
  • Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của Arsenal: 2015-16[185]
  • Cầu thủ Đức xuất sắc nhất ở nước ngoài do tạp chí kicker bình chọn: 2016[186]

Tham khảo sửa

  1. ^ “2014 FIFA World Cup Brazil: List of players: Germany” (PDF). FIFA. 14 tháng 7 năm 2014. tr. 16. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2022.
  2. ^ “Mesut Özil: Overview”. Premier League. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2020.
  3. ^ “Mesut özil”. Arsenal F.C. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2020.
  4. ^ a b “Mourinho: Ozil will make history at Real”. espnstar.com. 26 tháng 5 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2012.
  5. ^ “The top 10 assists leaders in Europe for 2010⁄11”. imscouting.com. 30 tháng 5 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2012.
  6. ^ “Spanish La Liga”. ESPN Soccernat. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2012.
  7. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên fener
  8. ^ “FIFA World Cup Russia 2018: List of Players: Germany” (PDF). FIFA. 15 tháng 7 năm 2018. tr. 12. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2019.
  9. ^ “Mesut Özil: Overview”. ESPN. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2020.
  10. ^ Appearance in FA Community Shield
  11. ^ “Mesut Özil: Profile”. worldfootball.net. HEIM:SPIEL. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2020.
  12. ^ “Immigration: the rare success story of Mesut Ozil”. The Guardian. 15 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2021.
  13. ^ “Ozil windfall for lowly former club”. ESPN. ngày 4 tháng 9 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2013.
  14. ^ Jean-Julien Beer (ngày 27 tháng 7 năm 2006). “Ein 17-Jähriger soll Lincoln ersetzen” (bằng tiếng Đức). kicker.de. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2007.
  15. ^ “Mesut Özil Bio”. espnsoccernet.com. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2010.
  16. ^ “Bremen cải chính thông tin về Mesut Ozil”. VTC News. ngày 11 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2013.[liên kết hỏng]
  17. ^ . Bundesliga Classic http://bundesligaclassic.tumblr.com/post/14028631060/mesut-ozil-fit-in-seamlessly-at-bremen-and-scored. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2013. |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  18. ^ “Real Madrid seal Mesut Ozil transfer from Werder Bremen”. The Telegraph. ngày 17 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2013.
  19. ^ a b Shapland, Dave (ngày 28 tháng 11 năm 2009). “Bundesliga player profile – Mesut Ozil, Werder Bremen”. adifferentleague.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2010.
  20. ^ “Oezil sẽ không gia hạn hợp đồng với Bremen: Tiếng vọng từ Bernabeu?”. Thể thao và Văn hoá. ngày 19 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2013.
  21. ^ “Mesut Özil to Play for Real Madrid”. realmadrid.com. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2010.
  22. ^ Nhật Quang (tổng hợp) (ngày 17 tháng 8 năm 2010). “Real Madrid chính thức có Ozil”. Thể thao và Văn Hoá. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2010.
  23. ^ “Real Madrid confirm signing of Germany star Mesut Ozil”. BBC sport. ngày 17 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2010.
  24. ^ Madden, Paul (ngày 22 tháng 8 năm 2010). “Hercules 1-3 Real Madrid: Benzema Brace Seals Friendly Triumph”. Goal.com. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2010.
  25. ^ Thuỳ Dương (ngày 30 tháng 8 năm 2010). “Real bất lực trước Mallorca trong ngày Mourinho ra mắt”. Vnexpress.net. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2010.
  26. ^ “Report: The Whites earn a victory in their Champions League debut”. Real Madrid. ngày 15 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2010.
  27. ^ Thuý An (ngày 24 tháng 10 năm 2010). “Ronaldo ghi 4 bàn, Real đại thắng Racing”. Vnexpress.net. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2010.
  28. ^ Nhất Mai (ngày 4 tháng 10 năm 2010). “Real Madrid- Deportivo 6-1: Câu trả lời danh thép của Mourinho”. Thể thao và Văn Hoá. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2010.
  29. ^ Anh Tuấn (ngày 20 tháng 10 năm 2010). “C. Ronaldo "nổ súng", Real Madrid đánh gục Milan”. Dân Trí. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2010.
  30. ^ “Real Madrid vs Levante Report”. Goal.com. ngày 23 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2010.
  31. ^ a b “Ozil's magic amazes the entire planet”. RealMadrid. ngày 7 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2011.
  32. ^ “Benzema lập công, Real lại thắng derby Madrid”. Thể thao và Văn hoá. ngày 20 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2013.
  33. ^ Nguyễn Tuấn (ngày 21 tháng 4 năm 2011). “Đánh bại Barca, Real đoạt Cup Nhà vua”. Vnexpress. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2013.
  34. ^ “Praise for Mesut Ozil”. Real Madrid. ngày 13 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2010.
  35. ^ “Mesut Ozil To Wear No.10 Shirt For Real Madrid In 2011–12”. Goal.com. ngày 23 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2011.
  36. ^ “Real Madrid 2–2 Barcelona: All-square in thrilling Supercopa contest”. Goal.com. ngày 14 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2011.
  37. ^ “Barcelona 3–2 Real Madrid (Agg. 5–4): Lionel Messi brace wins Supercopa amid violent scenes at Camp Nou”. Goal.com. ngày 17 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2011.
  38. ^ “Men's shortlists for FIFA Ballon d'Or Gala 2011 revealed”. Fifa.com. ngày 1 tháng 11 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2011.
  39. ^ “Athletic Bilbao 0-3 Real Madrid: Higuain, Ozil and Ronaldo on target as Mourinho's champions celebrate 32nd Liga title”. Goal.com. ngày 2 tháng 5 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2012.
  40. ^ “Ton-up Real set new landmark”. ESPN Soccernet. ngày 13 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2012.
  41. ^ “La Liga Scorerpoints”. transfermarkt.co.uk. ngày 23 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2012.
  42. ^ “Iniesta, Messi, Ronaldo up for Best Player Award”. UEFA. ngày 14 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2012.
  43. ^ “Mesut Ozil reiterates happiness”. ESPN. ngày 11 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2012.
  44. ^ “Ronaldo, Messi share spoils in draw”. ESPN FC. ngày 7 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2012.
  45. ^ Lowe, Sid (ngày 6 tháng 11 năm 2012). “Mesut Ozil saves Real Madrid with late goal against Borussia Dortmund”. The Guardian. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2012.
  46. ^ “Ozil to the rescue after Real hit by brace from former Man United flop Manucho”. dailymail.co.uk. ngày 8 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2013.
  47. ^ “Mesut Oezil: Càng bị Mourinho phạt nặng, càng đá như 'lên đồng'. Thể thao và Văn hoá. ngày 4 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2013.
  48. ^ “Chấm điểm Real 3-1 Betis: Đêm diễn của Ozil”. Bóng Đá News. ngày 21 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2013.
  49. ^ “Chấm điểm Dortmund 4-1 Real Madrid: Một mình người hùng Lewandowski chấp tất”. Bongda.com.vn. ngày 25 tháng 4 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2013.
  50. ^ “Player Ratings: Real Madrid 2–0 Borussia Dortmund (Agg 3–4)”. goal.com. ngày 1 tháng 5 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2013.
  51. ^ “Ozil - bộ não của Real Madrid”. Vnexpress. ngày 20 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2013.
  52. ^ a b “Thương vụ Mesut Ozil: Chuyện bây giờ mới kể”. Dân trí. ngày 4 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2013.
  53. ^ Lĩnh Nam (ngày 4 tháng 9 năm 2013). “Ozil bị ép phải rời Real Madrid”. Thanh Niên Online. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2013.
  54. ^ “Germanni international Ozil joins Arsenal”. Arsenal F.C. ngày 2 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2013.
  55. ^ “La afición grita "¡Özil no se vende!" y Florentino les manda callar” (bằng tiếng Tây Ban Nha). AS.com. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2013.
  56. ^ Brown, Gavin (ngày 2 tháng 9 năm 2013). 'Don't sell Mesut Ozil to Arsenal!' Angry Real Madrid fans hijack Gareth Bale presentation”. Metro.co.uk. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2013.
  57. ^ “Dốc gần 40 triệu bảng, Arsenal có Oezil”. Bóng Đá +. ngày 3 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2013.
  58. ^ a b “Arsenal smash club record to sign Mesut Ozil”. ESPN.co.uk. ngày 2 tháng 9 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2013.
  59. ^ Thiên Bình (ngày 3 tháng 9 năm 2013). “Bản hợp đồng kỉ lục Oezil nhận mức lương khủng ở Arsenal”. Thể thao và Văn hoá. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2013.
  60. ^ Whitwell, Laurie (ngày 3 tháng 9 năm 2013). “Did Real Madrid 'bully' Ozil into joining Arsenal? Claims in Germany suggest £42.5m record signing was forced into move”. DailyMail. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2013.
  61. ^ Nguyễn Huy (ngày 14 tháng 9 năm 2013). “Ozil ra mắt, Arsenal đè bẹp Sunderland trên đất khách”. Dân trí. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2013.
  62. ^ Magowan, Alistair (ngày 18 tháng 9 năm 2013). “Marseille 1-2 Arsenal”. BBC Sport. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2013.
  63. ^ Magowan, Alistair (ngày 22 tháng 9 năm 2013). “Arsenal 3–1 Stoke City”. BBC Sport. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2013.
  64. ^ Hà Uyên (ngày 2 tháng 10 năm 2013). “Ozil tỏa sáng, Arsenal bay bổng ở Champions League”. Vnexpress. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2013.
  65. ^ “Mesut Ozil scores his first two Premier League goals as Arsenal defeat Norwich 4-1”. Fox Sports. ngày 20 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2014.
  66. ^ “Tiết lộ: Lần đầu tiên Ozil ghi bàn bằng đầu”. Báo Thể thao Việt Nam. ngày 20 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2014.
  67. ^ “Men's shortlists for FIFA Ballon d'Or 2013 revealed”. FIFA.com. ngày 29 tháng 10 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2014.
  68. ^ “Mertesacker mắng té tát Mesut Ozil ngay trên sân cỏ”. Dân Trí. ngày 15 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2014.
  69. ^ “Match Graph: Southampton 2 Arsenal 2”. StatsInsights. ngày 28 tháng 1 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2014.
  70. ^ “Nỗi thất vọng cùng cực của Ozil khi sút hỏng phạt đền”. Dân Trí. ngày 20 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2015.
  71. ^ “Arsenal 4-1 Everton”. BBC. ngày 8 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2015.
  72. ^ Ornstein, David (ngày 13 tháng 3 năm 2014). “Mesut Ozil: Arsenal's record buy out for month with hamstring injury”. BBC Sport. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2015.
  73. ^ “Lukas Podolski double eases Arsenal past Hull in FA Cup final rehearsal”. The Guardian. ngày 20 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2014.
  74. ^ Barlow, Matt (ngày 28 tháng 4 năm 2014). “Arsenal 3–0 Newcastle: Gunners strengthen hold on fourth place after brushing aside woeful Toon at the Emirates”. Daily Mail. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2014.
  75. ^ McNulty, Phil (ngày 17 tháng 5 năm 2014). “Arsenal 3–2 Hull”. BBC Sport. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2015.
  76. ^ “Aston Villa 0-3 Arsenal”. BBC Sport. ngày 20 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2015.
  77. ^ “Dortmund 2 - 0 Arsenal: Thất vọng Mesut Ozil”. VTV.VN. ngày 17 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2015.
  78. ^ “Özil assists for Arsenal in 4–1 win”. BBC Sport. ngày 1 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2015.
  79. ^ “Mesut Özil: Arsenal midfielder out with knee injury for up to 12 weeks”. BBC Sport. ngày 8 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2015. line feed character trong |title= tại ký tự số 66 (trợ giúp)
  80. ^ “Arsenal's Alexis Sánchez dazzles again with double in win over Stoke”. The Guardian. ngày 12 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2015.
  81. ^ “Arsenal through after Brighton scare as Theo Walcott and Mesut Özil return”. The Guardian. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2015.
  82. ^ Dawkes, Phil (ngày 1 tháng 2 năm 2015). “Arsenal 5-0 Aston Villa”. BBC. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2015.
  83. ^ Dawkes, Phil (ngày 7 tháng 2 năm 2015). “Tottenham 2-1 Arsenal”. BBC. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2015.
  84. ^ McNulty, Phil (ngày 4 tháng 4 năm 2015). “Arsenal 4-1 Liverpool”. BBC Sport. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2015.
  85. ^ McNulty, Phil (ngày 30 tháng 5 năm 2015). “Arsenal 4-0 Aston Villa”. BBC. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2015.
  86. ^ “Arsenal 3–0 Man Utd”. BBC. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2016.
  87. ^ Saj Chowdhury. “BBC Sport – Watford 0–3 Arsenal”. BBC Sport. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2016.
  88. ^ Ronay, Barney (ngày 21 tháng 10 năm 2015). “Mesut Özil greases the cogs as Arsenal twist and turn to put Bayern in a spin”. The Guardian. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2015.[liên kết hỏng]
  89. ^ Orr, James (ngày 8 tháng 11 năm 2015). “Mesut Ozil: Arsenal playmaker makes history in Tottenham draw by becoming first player to assist in six consecutive Premier League games”. The Independent. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2016.
  90. ^ “Arsenal 2–0 Bournemouth”. BBC Sport. BBC. ngày 28 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2016.
  91. ^ Wright, Nick (ngày 28 tháng 12 năm 2015). “Mesut Ozil in a league of his own as Arsenal beat Bournemouth”. Sky Sports. Sky Sports. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2015.
  92. ^ Emre Sarigul (ngày 25 tháng 1 năm 2016). “Mesut Ozil loses 100th game for Arsenal against Chelsea”. Turkish Football. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2016.
  93. ^ Alex Brodie (ngày 3 tháng 2 năm 2016). “Stats show Arsenal need new striker after 0–0 draw despite Mesut Ozil creating record amount of chances”. Metro. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2016.
  94. ^ Marc Higginson (ngày 7 tháng 2 năm 2016). “Arsenal scored twice in 88 first-half seconds to overwhelm Bournemouth and move level on points with second-placed Tottenham”. BBC Sport. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2016.
  95. ^ Barney Ronay (ngày 14 tháng 2 năm 2016). “Danny Welbeck's last-gasp effort gives Arsenal win over 10-man Leicester”. The Guardian. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2016.
  96. ^ Jamie Jackson (ngày 28 tháng 2 năm 2016). “Marcus Rashford's double for Manchester United deflates Arsenal hopes”. The Guardian. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  97. ^ Jeremy Wilson (ngày 15 tháng 5 năm 2016). “Arsenal 4 Aston Villa 0: Hosts clinch unlikely St Totteringham's Day as Olivier Giroud grabs hat-trick”. The Telegraph. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  98. ^ “Mesut Ozil wins Arsenal's 2015/16 Player of the Season award”. Sportskeeda. ngày 20 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  99. ^ “Watford 1-3 Arsenal - BBC Sport”. BBC Sport. ngày 27 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2016.
  100. ^ “Arsenal 6-0 Ludogorets: Mesut Ozil scores first professional hat-trick as Gunners hit six”. Sky Sports. ngày 19 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2016.
  101. ^ “Mesut Ozil: Arsenal midfielder signs new contract until 2021”. BBC Sport. ngày 31 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2018.
  102. ^ Wright, Nick (ngày 12 tháng 3 năm 2018). “Mesut Ozil brings up 50 Premier League assists in record time”. Sky Sports. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2018.
  103. ^ “Ozil – Q&A – Interviews”. FourFourTwo. 11 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2012.
  104. ^ “WORLD CUP 2010: Germany starlet Mesut Ozil carries the torch for a rainbow nation”. DailyMail. ngày 24 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2012.
  105. ^ “England U21 0 Germany U21 4: match report”. The Telegraph. ngày 29 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2012.
  106. ^ Trận Nga - Đức 0-1: "Xe tăng" thẳng tiến trên đất khách
  107. ^ Mesut Oezil, "nhạc trưởng" mới của ĐT Đức: "Hành khúc Thổ Nhĩ Kỳ"
  108. ^ “Đức chốt hạ danh sách tham dự World Cup”. VTC News. ngày 2 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2013.[liên kết hỏng]
  109. ^ “Đức trút mưa bàn thắng vào lưới Australia”. VNexpress. ngày 14 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2013.
  110. ^ “Đức - Serbia 0-1: Tai họa từ Klose”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2013.
  111. ^ Stevenson, Jonathan (ngày 23 tháng 6 năm 2010). “Ghana 0–1 Germany”. BBC Sport. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2010.
  112. ^ “Chi tiết trận Đức-Ghana World Cup 2010 trên FIFA.com”. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2010.
  113. ^ McNulty, Phil (ngày 27 tháng 6 năm 2010). “Germany 4–1 England”. BBC Sport. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2010.
  114. ^ “Công bố 10 ứng cử viên "Quả bóng vàng World Cup 2010". Dân trí. ngày 9 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2013.
  115. ^ “Germany stroll past Austria to reach EURO 2012”. UEFA.com. ngày 2 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2011.
  116. ^ “Die Top-Elf der EM-Qualifikation” (bằng tiếng Đức). Sportal.de. ngày 6 tháng 10 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2011.
  117. ^ “Statistics”. UEFA.com. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2012.
  118. ^ “Fan Club wählt Mesut Özil zum "Nationalspieler des Jahres" (bằng tiếng Đức). DFB. ngày 5 tháng 1 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2012.
  119. ^ “Ozil to receive German POTY award”. espnsoccernet.com. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2012.
  120. ^ “Özil's engine earns Man of the Match accolade”. UEFA.com. ngày 9 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2013.
  121. ^ “On the Verge of Greatness: Germany's Shy Football Prodigy Mesut Özil”. Spiegel.de. ngày 27 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2013.
  122. ^ “Đức 1 - 2 Italia: Ozil không kịp giải cứu Đức sau cú đúp của Balotelli”. Báo Giáo dục Việt Nam. ngày 29 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2013.
  123. ^ “Iniesta giành giải Cầu thủ xuất sắc nhất Euro 2012”. Báo Thanh niên. ngày 3 tháng 7 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2013.
  124. ^ “Mesut Ozil được bầu Cầu thủ xuất sắc nhất nước Đức 2012”. Báo Thanh niên. ngày 9 tháng 1 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2013.
  125. ^ “Özil wins German player of the year award”. Sport Direct News. ngày 8 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2013.
  126. ^ “Germany Euro 2016 Squad: Marco Reus to miss the European Championships through injury”. The Telegraph. 31 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2016.
  127. ^ Magowan, Alistair (ngày 12 tháng 6 năm 2016). “Germany 2-0 Ukraine”. BBC Sport. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2016.
  128. ^ “Gomez guarantees top spot for Germany”. UEFA. ngày 21 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2016.
  129. ^ Davie, Chris (ngày 26 tháng 6 năm 2016). “Mesut Özil sets unwanted record after Germany penalty miss”. Goal. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2016.
  130. ^ Homewood, Brian; Ferris, Ken (ngày 3 tháng 7 năm 2016). “Germany win epic shootout to end Italy jinx”. Reuters. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2016.
  131. ^ “Germany 1-1 Italy (6-5 on pens)”. BBC Sport. ngày 2 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2016.
  132. ^ “World Cup 2018: Leroy Sane left out of Germany World Cup squad”. BBC Sport. ngày 4 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2018.
  133. ^ “Ozil, Gundogan bị chỉ trích vì chụp ảnh với tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ”. VnExpress. ngày 15 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2018.
  134. ^ “Đức thua trận mở màn World Cup 2018”. VnExpress. ngày 17 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2018.
  135. ^ “Ozil cãi nhau với CĐV sau trận thua Hàn Quốc”. VnExpress. ngày 28 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2018.
  136. ^ “Mesut Ozil từ giã tuyển Đức”. VnExpress. ngày 23 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2018.
  137. ^ “Spanish La Liga”. EXPN Soccernat. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2012.
  138. ^ “The top 10 assists leaders in Europe for 2010⁄11”. imscouting.com. ngày 30 tháng 5 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2012.
  139. ^ “Arsenal được gì và mất gì khi có Ozil?”. VTC News. ngày 3 tháng 9 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2013.
  140. ^ “Ronaldo tức giận vì Real Madrid bán Mesut Oezil”. Thể thao và Văn hóa. ngày 4 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2013.
  141. ^ Duchateau, Francois (ngày 10 tháng 2 năm 2011). “Trotz "genialer Momente": Enttäuschung bei Mesut Özil und Lukas Podolski” (bằng tiếng Đức). Goal.com. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2011.
  142. ^ “Gullit: "Özil is technically perfect". http://www.marca.com. ngày 11 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2012. Liên kết ngoài trong |nhà xuất bản= (trợ giúp)
  143. ^ “WORLD CUP 2010: England will end up in a Messi if they can't control Germany star Mesut Ozil”. dailymail.co.uk. ngày 24 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2010.
  144. ^ “Isco sẽ là sự thay thế hoàn hảo cho Mesut Ozil”. Dân trí. ngày 6 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2013.
  145. ^ White, Duncan (ngày 12 tháng 6 năm 2010). “Germany v Australia: Mesut Ozil at head of the vanguard for new generation”. Telegraph. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2010.
  146. ^ “Am Freitagabend schoss er das entscheidende Tor gegen die Türkei, die Heimat seiner Eltern: Mesut Özil, 21, Sohn eines türkischen Gastwirts und Mittelfeldstar unserer Fußballnationalmannschaft. Porträt eines Intergrations-Erfolgs” (bằng tiếng Đức). bild.de. ngày 29 tháng 10 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2010.
  147. ^ Smith, Andrew (ngày 27 tháng 6 năm 2010). “Mesut Özil: National Treasure”. sport.scotsman.com. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2010.
  148. ^ “Mesut Özil'in hayali Barça” (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). Sabah. ngày 27 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2010.
  149. ^ Rosentritt, Michael (ngày 2 tháng 7 năm 2010). “Mesut Özil: Ich habe nie Angst” [Mesut Özil: I am never afraid] (bằng tiếng Đức). Der Tagesspiegel. TAGESSPIEGEL: Ihre Art sich direkt vor einem Spiel zu konzentrieren ist es, Verse aus dem Koran leise vor sich hin zu sprechen. MESUT ÖZIL: Das mache ich in der Kabine, bevor wir rausgehen. Ich bete dann und meine Mitspieler wissen schon, dass sie in dieser kurzen Zeit nicht mit mir reden können.
  150. ^ “Germany's Mesut Ozil recites Holy Quran before World Cup matches”. twocircles.net. ngày 3 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2010.
  151. ^ Singh, Amar (ngày 27 tháng 8 năm 2011). 'My manager told me to choose between fasting or playing – I chose to fast' – how Muslim footballers including Mesut Ozil and Amr Zaki approach Ramadan”. Goal.com. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2013.
  152. ^ “Soccer stars steal show at Germany's Bambi Awards”. in.reuters.com. ngày 12 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  153. ^ “Mesut Ozil switches to the Three Stripes!”. Footballboots.co.uk. ngày 12 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2013.
  154. ^ “Mesut Özil”. European Football. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2016.
  155. ^ “Mesut Özil – national football team player”. EU-Football.info. 4 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2016.
  156. ^ “Bayer 04 Leverkusen 0:1 Werder Bremen: Takt. aufstellung” [Bayer 04 Leverkusen 0:1 Werder Bremen: Tactical lineup]. kicker (bằng tiếng Đức). Olympia-Verlag. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2020.
  157. ^ “Werder Bremen 0:4 Bayern München: Takt. aufstellung” [Werder Bremen 0:4 Bayern München: Tactical lineup]. kicker (bằng tiếng Đức). Olympia-Verlag. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2020.
  158. ^ “2008/09, Final: Shakhtar Donetsk 2–1 Bremen: Overview”. UEFA. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2020.
  159. ^ “Real Madrid 2011–12: Statistics”. BDFutbol. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2020.
  160. ^ “Acta del Partido celebrado el 20 de abril de 2011, en Valencia” [Minutes of the Match held on 20 April 2011, in Valencia] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Royal Spanish Football Federation. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2020.
  161. ^ “Acta del Partido celebrado el 17 de mayo de 2013, en Madrid” [Minutes of the Match held on 17 May 2013, in Madrid] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Royal Spanish Football Federation. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2020.
  162. ^ “Acta del Partido celebrado el 23 de agosto de 2012, en Barcelona” [Minutes of the Match held on 23 August 2012, in Barcelona] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Royal Spanish Football Federation. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2020.
    “Acta del Partido celebrado el 29 de agosto de 2012, en Madrid” [Minutes of the Match held on 29 August 2012, in Madrid] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Royal Spanish Football Federation. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2020.
  163. ^ McNulty, Phil (17 tháng 5 năm 2014). “Arsenal 3–2 Hull City”. BBC Sport. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2019.
  164. ^ McNulty, Phil (30 tháng 5 năm 2015). “Arsenal 4–0 Aston Villa”. BBC Sport. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2019.
  165. ^ McNulty, Phil (27 tháng 5 năm 2017). “Arsenal 2–1 Chelsea”. BBC Sport. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2019.
  166. ^ Cryer, Andy (2 tháng 8 năm 2015). “Arsenal 1–0 Chelsea”. BBC Sport. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2019.
  167. ^ McNulty, Phil (25 tháng 2 năm 2018). “Arsenal 0–3 Manchester City”. BBC Sport. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2019.
  168. ^ Bevan, Chris (29 tháng 5 năm 2019). “Chelsea 4–1 Arsenal”. BBC Sport. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2019.
  169. ^ “Final: Germany 4–0 England: Line-ups”. UEFA. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2020.
  170. ^ “Match report: Germany – Argentina”. FIFA. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 8 năm 2019.
  171. ^ “Match report: Uruguay – Germany”. FIFA. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 4 năm 2019.
  172. ^ “Team-of-the-Season-1” (PDF). Historical Lineups. tr. 13. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2019.
  173. ^ “Lahm zieht an Robben vorbei”. kicker Online (bằng tiếng Đức). 7 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2019.
  174. ^ “Premier League Player Stats - Assists”. premierleague.com. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2022. Select season in the "Filter by season" drop-down menu.
  175. ^ “Arsenal playmaker Mesut Ozil wins Germany player of the year award”. The Guardian. 14 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2016.
  176. ^ “Mesut Ozil: Arsenal midfielder wins Germany's Player of the Year for fifth time”. BBC Sport. 15 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2017.
  177. ^ “UEFA EURO 2012 Team of the Tournament”. UEFA. 2 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2015.
  178. ^ “UEFA.com users' Team of the Year 2012”. UEFA. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2015.
  179. ^ “UEFA.com users' Team of the Year 2013 revealed”. UEFA. 15 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2015.
  180. ^ “Ozil wins Laureus Sports award”. Kick Off.com.[liên kết hỏng]
  181. ^ “Mesut Ozil receives honourary prize”. Arsenal F.C.
  182. ^ “Ozil named PFA Fans' Player of the Month”. Arsenal F.C.
  183. ^ “Ozil wins PFA Fans' award”. Sky Sports.
  184. ^ “Mesut Özil: Winner of the German Football Ambassador Public Award”. DW. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2021 – qua YouTube.
  185. ^ “Player of the Season – the winner is...”. Arsenal Football Club. 20 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2016.
  186. ^ “Arsenal's Mesut Özil voted 'Best German Abroad' by Kicker Magazine”. 101 Great Goals.com. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2022.

Liên kết ngoài sửa